Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

CHIẾT TỰ CHỮ HÁN
Có lẽ, khi đi học chữ Hán, mấy người không nhắc cho nhau câu:
Chim chích mà đậu cành tre
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm .(Chiết tự chữ đức )
Đó là một trong những mẹo nhớ chữ Hán của người xưa thường được gọi là chiết tự.
Chiết tự nảy sinh trên cơ sở nhận thức về hình thể của chữ Hán, cách ghép các bộ, cách bố trí các bộ, các phần của chữ. Trên phương diện nào đó, chiết tự chính là sự vận dụng phân tích chữ Hán một cách linh hoạt sáng tạo. Hơn thế nữa, nó không chỉ dừng lại ở hình thức phân tích chữ Hán thuần túy mà còn chuyển sang địa hạt văn chương và các trò chơi thử tài trí tuệ đầy thú vị và hấp dẫn.
Như chúng ta đã biết, ở chữ Hán luôn có sự kết hợp nổi bật của ba mặt: hình - âm - nghĩa. Và chiết tự trong những chữ Hán đã phát huy đặc điểm cấu trúc ba mặt này để tạo nên nét riêng độc đáo so với chiết tự ở những hệ thống văn tự khác. Chiết tự trong chữ Hán không chỉ chiết về mặt hình thể chữ mà còn liên hệ với cả phương diện âm và nghĩa. Về mặt hình thể, chiết tự dựa trên nguyên tắc phân chữ Hán ra các bộ phận cấu thành của chữ. Về mặt âm, chiết tự sử dụng các tri thức mang tính ngữ âm học như nói lái và phiên thiết. Về mặt nghĩa, chiết tự dựa vào bản chất biểu ý của chữ Hán. Một chữ Hán bất kỳ cũng gồm nhiều nét hay các phần tạo nên. Với chữ độc thể là các nét. Với chữ hợp thể là các bộ phận hợp thành phức tạp hơn về cấu trúc.
Chính nhờ nét riêng độc đáo này, chiết tự trong chữ Hán trở nên đa dạng về hình thức và kiểu loại, phong phú về nghệ thuật ngôn từ. Để dễ nhớ, chiết tự thường được thể hiện dưới dạng thơ hoặc văn vần qua hàng loạt các bài thơ, câu đố chiết tự, rất cuốn hút đối với người học chữ. Những câu chiết tự kiểu như:
Cô kia đội nón chờ ai
Hay cô yên phận đứng hoài thế cô (Chữ an )
đã trở nên quen thuộc với biết bao thế hệ học chữ Hán (đặc biệt là với trẻ nhỏ). Người ta còn dùng câu đố chiết tự để thử tài chữ nghĩa, thử tài suy đoán của nhau. Nhờ đó, chiết tự có điều kiện đi sâu vào trong đời sống Hán học, dần dần trở thành thói quen khi học chữ.
Chiết tự xảy ra với cả ba mặt hình - âm - nghĩa của chữ Hán, nhưng chủ yếu là ở hai mặt hình và nghĩa. Chẳng hạn:
- Đấm một đấm, hai tay ôm quàng
Thuyền chèo trên núi, thiếp hỏi chàng chữ chi ?
- Lại đây anh nói nhỏ em nì
Ấy là chữ mật một khi rõ ràng.
Đấm một đấm hai tay ôm quàng là dáng dấp của bộ miên thuyền chèo là dáng dấp của chữ tất , thuyền chèo trên núi, trên chữ sơn có chữ tất . Ghép lại chúng ta được chữ mật (bí mật, rậm rạp) (Chiết tự dựa vào hình thể).
Hay như:
Hai người đứng giữa cội cây,
Tao chẳng thấy mày, mày chẳng thấy tao.
Đó là hình chữ lai . Chữ lai có hình hai chữ nhân ở hai bên, chữ mộc ở giữa. Thực ra hai chữ nhân này vốn là tượng hình hai cái gai. Lai là tên một loại lúa có gai, sau được dùng với nghĩa là đến. (Chiết tự về mặt hình thể).
Ba xe kéo lê lên đàng, âm vang như sấm.
Đó là chữ oanh . Chữ oanh được viết với ba chữ xa và có nghĩa là "tiếng động của nhiều xe cùng chạy". (Chiết tự về mặt ý nghĩa).
Tây quốc hữu nhân danh viết Phật,
Đông môn vô thảo bất thành "lan".
Câu trên có thể dịch là: "Nước phương Tây có người tên là Phật". Phật Thích Ca là người Tây Trúc (ấn Độ) so với nước ta thì ở phương Tây, chữ Phật được viết với chữ nhân đứng cạnh chữ tây 西 trên chữ quốc . Chữ này không thấy có trong các từ điển, tự điển của Trung Quốc (như Khang Hy tự điển, Từ nguyên, Từ hải...) nhưng có mặt trong một số câu đối tại các chùa Việt Nam.
Câu dưới có nghĩa: "Cửa phía Đông không có cỏ không thành lan”. Chữ lan (hoa lan) được viết: thảo đầu (cỏ), ở dưới là chữ lan (lan can) gồm chữ môn (cánh cửa), bên trong có chữ đông (phương Đông). Trong cách viết chính quy phải thay đông bằng giản (Chiết tự về mặt ý nghĩa).
Chiết tự về mặt âm đọc trong chữ Hán tiêu biểu nhất là lối phiên thiết phục vụ cho việc chú âm trong các sách học, các tự điển. Nó cũng xuất hiện rải rác trong các câu đố chữ Hán. Ví dụ như:
Con gái mà đứng éo le,
Chồng con chưa có kè kè mang thai.
Đây là câu đố chiết tự chữ thủy . Chữ thủy vốn là một chữ hình thanh, có chữ thai chỉ âm, chữ nữ (con gái) nói nghĩa.
Những trường hợp này xuất hiện rất ít và thường thì không chỉ thuần nhất chiết tự về âm đọc mà còn kèm theo cả phần hình thể hoặc ý nghĩa.
Qua những ví dụ chúng tôi vừa dẫn ra trên đây, có thể thấy các câu đố chiết tự này có ý nghĩa không nhỏ đối với việc học nhớ chữ Hán. Dựa vào việc phân tích và mô tả cụ thể, sinh động hình thể chữ Hán, các câu đố chữ Hán đã giúp cho người giải đố có khả năng tái hiện lại những chữ đã học không mấy khó khăn. Đồng thời, nó cũng giống như một bài kiểm tra định kỳ cho người mới học mà việc thuộc lòng đề bài và lời giaỉ là rất dễ dàng (do tính ấn tượng của nó). Chẳng hạn những câu như:
Anh kia tay ngón xuyên tâm. (Chữ tất )
Mặt trời đã xế về chùa. (Chữ thời )
Việc vận dụng các liên tưởng hình ảnh vào hình thể, âm đọc hay ý nghĩa của chữ đã làm cho chiết tự nói chung và chiết tự trong câu đố chữ Hán nói riêng có tính sáng tạo cao. Nhờ đó mà các bộ phận cấu thành chữ Hán trở nên sống động, có hồn.
Trong số 70 câu đố chữ Hán trong kho tàng câu đố Việt Nam mà chúng tôi sưu tập được, có đặc điểm chiết tự khá thú vị. Chẳng hạn:
Dưới đây là một số ví dụ:
- Có tú mà chẳng có tài,
Cầm ngang ngọn giáo, đâm ngoài đít dê. (Chữ hy )
- Chữ lập đập chữ viết, chữ viết đập chữ thập. (Chữ chương )
- Đất thì là đất bùn ao,
Ai cắm cây sào sao lại chẳng ngay.
Con ai mà đứng ở đây,
Đứng thì chẳng đứng, vịn ngay vào sào. (Chữ hiếu )
- Một vại mà kê hai chân,
Con dao cái cuốc để gần một bên. (Chữ tắc )
- Nhị hình, nhất thể, tứ chi, bát đầu,
Tứ bát, nhất bát phi toàn ngưỡng lưu. (Chữ tỉnh )
- Đóng cọc liễn leo, tả trên nhục dưới, giải bơi chèo. (Chữ tùy )
- Đêm tàn nguyệt xế về Tây,
*** sủa canh chầy, trống lại điểm tư. (Chữ nhiên )
- Con dê ăn cỏ đầu non,
Bị lửa cháy hết không còn chút đuôi. (Chữ mỹ )
- Thương em, anh muốn nên duyên,
Sợ e em có chữ thiên trồi đầu (Chữ phu )
- Khen cho thằng nhỏ có tài,
Đầu đội cái mão đứng hoài trăm năm. (Chữ dũng )
- Thiếp là con gái còn son,
Nếp hằng giữ vẹn ngặt con dựa kề. (Chữ hảo )
- Ruộng kia ai cất lên cao,
Nửa vầng trăng khuyết, ba sao giữa trời. (Chữ tư )
- Đất cứng mà cắm sào sâu,
Con lay chẳng nổi, cha bâu đầu vào. (Chữ giáo )
- Em là con gái đồng trinh
Chờ người tuổi Tuất gá mình vô em. (Chữ uy )
- Ông thổ vác cây tre, đè bà nhật. (Chữ giả )
- Đất sao khéo ở trong cung,
Ruộng thời hai mẫu, bờ chung ba bờ. (Chữ cương )
- Muốn cho nhị mộc thành lâm
Trồng cây chi tử tiếng tăm lâu ngày. (Chữ tự )
- Hột thóc, hột thóc, phẩy đuôi trê,
Thập trên nhất dưới bẻ què lê. (Chữ pháp )

Như vậy, từ những ưu điểm đã phân tích ở trên của chiết tự, chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa: chiết tự là một phương pháp học, nhớ chữ Hán độc đáo của người Việt. Đồng thời qua những câu đố chiết tự này có thể tạo sự hứng thú cho việc học, nhớ chữ Hán.



五人伍,喜女嬉。少金鈔,大可奇

Ngũ nhân ngũ, hỷ nữ hy. Thiểu kim sao, đại khả kỳ.

卒酉醉,侈多人。豚豕月,八刀分

Tốt dậu tuý, xỉ đa nhân. Đồn thỉ nguyệt, bát đao phân 

加馬駕,爰手援。相心想,冥目瞑

Gia giá, viên thủ viện. Tương tâm tưởng, minh mục minh.

日日昌樓望,山山出沒云

Nhật nhật xương lâu vọng, sơn sơn xuất một vân.

田心思遠客,門口問貞人

Điền tâm viễn khách, môn khẩu vấn trinh nhân.

口之足用法,不見覓之人

Khẩu chi túc dụng pháp, bất kiến mịch chi nhân. 

山山出花果,不見覓花開

Sơn sơn xuất hoa quả, bất kiến mịch hoa khai.

西女要花戴,合手拿花來

Tây nữ yếu hoa đới, hợp thủ hoa lai.

草化花果山,禾中種果繁

Thảo hoá hoa quả sơn, hoà trung chủng quả phồn.

身尚躺果海,又見觀果讒

Thân thượng thảng quả hải, hựu kiến quan quả sàm.

少女妙解詩,青心情相思

Thiểu nữ diệu giải thi, thanh tâm tình tương

夕林夢雖好,口又嘆影辭

Tịch lâm mộng tuy hảo ,khẩu hựu thán ảnh từ

女子好容顏,人人從未嫌

Nữ tử hảo dung nhan, nhân nhân thung vị hiềm. 

千里重山阻,夕夕多掛牽

Thiên trùng sơn trở, tịch tịch đa quải khiên

 

 

日月明天下,丘山岳為尊

Nhật nguyệt minh thiên hạ, khâu sơn nhạc vi tôn. 

林夕夢有,千里重沾襟

Lâm tịch mộng hữu lệ, thiên trùng triêm khâm.  

因火煙成霧,言人信豈真

Nhân hoả yên thành vụ, ngôn nhân tín khởi chân.  

十月有秋水,心音意在卿

Thập nguyệt hữu thu thuỷ, tâm âm ý tại khanh.

 

 

音韻闕章,口又嘆秋涼

Quân âm vận khuyết chương, khẩu hựu thán thu lương,

千里重夢,今心念夜長。

Thiên trùng ôn mộng, kim tâm niệm dạ trường.

日月明輝散,古木枯葉殘

Nhật nguyệt minh huy tán, cổ mộc khô diệp tàn.

可人何再會,千里重逢難

Khả nhân tái hội, thiên trùng phùng nan.

肉濃香,手爪抓肥羊

Nhập nội nhục nùng hương, thủ trảo trảo phì dương.

吾心悟美食,口口回味長

Ngô tâm ngộ mỹ thực, khẩu khẩu hồi vị trường.

日月明朝昏,山風嵐自起

Nhật nguyệt minh triêu hôn, sơn phong lam tự khởi.

石皮破仍堅,古木枯不死

Thạch phá nhưng kiên, cổ mộc khô bất tử.

可人何當來,意若重千里

Khả nhân đương lai, ý nhược trùng thiên lý.

永言詠鵠,志士心未已

Vĩnh ngôn vịnh hoàng hộc, chí tâm vị dĩ.

日月明當空,山風嵐自清

Nhật nguyệt minh đương không, sơn phong lam tự thanh.

石皮破岩在,古木枯不停

Thạch phá nham tại, cổ mộc khô bất đình.

可人何必走,千里重別情

Khả nhân tất tẩu, thiên trùng biệt tình.

寸日時光促,士心志為窮

Thốn nhật thì quang xúc, tâm chí vy cùng

開石研墨忙,女子好梳妝

Khai thạch nghiên mặc mang, nữ tử hảo trang.

日月明千里,人青倩影雙

Nhật nguyệt minh thiên lý, nhân thanh thiến ảnh song.

言司詞醉客,木子李下芳

Ngôn ty từ tuý khách, mộc tử hạ phương.

水少沙含,林夕夢古殤

Thuỷ thiểu sa hàm lệ, lâm tịch mộng cổ thương.

 

 

春風草化花,夏夜鬥余斜

Xuân phong thảo hoá hoa, hạ dạ đẩu tà,  

秋泛水齊濟,冬寒叚日暇

Thu phiếm thuỷ tề tế, đông hàn giả nhật hạ.

耆老曰,彳亍行。賭者貝,平木枰。

Kỳ lão viết, xích xúc hành. Đổ giả bối, bình mộc bình.

天口,齊人儕。專車轉,此木柴。

Thôn thiên khẩu, tề nhân sài. Chuyên xa chuyển, thử mộc sài.

志士心,艸之芝。將大獎,一帥師。 

Chí tâm, thảo chi chi. Tướng đại tưởng, nhất suý sư.

倚奇人,十一士。壯衣裝,支足跂。 

kỳ nhân, thập nhất sĩ. Tráng y trang, chi túc kỳ.

騎奇馬,戈。誰隹言,我口哦。

Kỵ kỳ mã, qua. Thuỳ chuy ngôn, ngã khẩu nga.

千里長沙隔九重,中心磊落意孤忠。

Thiên trường sa cách cửu trùng, trung tâm lỗi lạc ý trung.

人到奇才偏潦倒,寸圭尺主幾何封。

Nhân đáo kỳ tài thiên lạo đảo, thốn khuê xích chủ kỷ phong.

分頁人生階段頒,鳥閑啼聽軟枝鷳。

Phân hiệt nhân sinh giai đoạn ban, điểu nhàn đề thính nhuyễn chi nhàn.

竹由風奏韻清笛,彎水泓澄流港灣。

Trúc do phong tấu vận thanh địch, loan thuỷ hoằng trừng lưu cảng loan.

中心思想效精忠,逢竹葉舟原釣篷。

Trung tâm tưởng hiệu tinh trung, phùng trúc diệp chu nguyên điếu bồng.

人立雪中知品位,弓身大愛鄙私躬。

Nhân lập tuyết trung tri phẩm vị, cung thân đại ái bỉ cung.

竹輕揚聽樂簧,十音成韻好文章。

Hoàng trúc khinh dương thính nhạc hoàng, thập âm thành vận hảo văn chương.

秋來爭艷新禾火,月易日移詩逸腸。

Thu lai tranh diễm tân hoà hoả, nguyệt dị nhật di thi dật trường.

日月交替天將明,廣大遊客奔延慶。

Nhật nguyệt giao thế thiên tướng minh, quảng đại du khách bôn duyên khánh.

專車隨著峰巒轉,又見天賜奇景觀。

Chuyên xa tuỳ trước phong loan chuyển, hựu kiến thiên tứ kỳ cảnh quan.

牛一春犁布谷生,木盈南圃蔭前楹。

Ngưu nhất xuân bố cốc sinh, mộc doanh nam phố âm tiền doanh.

吾言只共村翁語,鳥口常來竹舍鳴。

Ngô ngôn chỉ cộng thôn ông ngữ, điểu khẩu thường lai trúc minh.

子女繞庭都姣好,井田當自耘耕。

Tử nữ nhiễu đình đô giảo hảo, tỉnh điền đương hộ tự vân canh.

丘山千仞云中岳,日月雙丸世外明。

Khâu sơn thiên nhận vân trung nhạc, nhật nguyệt song hoàn thế ngoại minh.

草出旋鋤禾黎茁,水青堪煮茗湯清。

Thảo xuất toàn sừ hoà truất, thuỷ thanh kham chử minh thang thanh.

心亡塵俗機全忘,彳亍籬邊帶醉行。

Tâm vong trần tục toàn vong, xích xúc ly biên đới tuý hành.

白水當階瀉石泉,山人應是地行仙。

Bạch thuỷ đương giai tả thạch tuyền, sơn nhân ưng thị địa hành tiên.

占風池上波微颭,因火窗前雨似煙。

Chiêm phong trì thượng ba vy triển, nhân hoả song tiền tự yên.

草帶余芳依蘭蔕,竹全高節得佳筌。

Thảo đới phương y lan đế, trúc toàn cao tiết đắc giai thuyên.

合田有耦歌聲,並馬同遊樂事駢。

Hợp điền hữu ngẫu ca thanh đáp, tịnh đồng du nhạc sự biền.

土可自鋤平坎坷,門真欲杜靜喧闐。

Thổ khả tự sừ bình khảm khả, môn chân dục đỗ tĩnh huyên điền.

心長何以消惆悵,弋鳥垂綸放紙鳶。

Tâm trường tiêu trù trướng, dặc điểu thuỳ luân phóng chỉ diên.

木兆好風看艷桃,草包原野閃花苞。

Mộc triệu hảo phong khán diễm đào, thảo bao nguyên thiểm hoa bao.

章山染樹生煙嶂,朝水洗華涌赤潮。

Chương sơn nhiễm thụ sinh yên chướng, triêu thuỷ tẩy hoa dũng xích triều.

山火襄陽圍爛燦,女喬銅雀鎖阿嬌。

Sơn hoả tương dương vy lạn xán, nữ kiều đồng tước toả a kiều.

夕林氣爽圓春夢,田草瘀除種果苗。

Tịch lâm khí sảng viên xuân mộng, điền thảo trừ chủng quả miêu.

生月祝詞同攬勝,召音賞舞喜聞韶。

Sinh nguyệt chúc từ đồng lãm thắng, triệu âm thưởng hỷ văn thiều.

月泉清澈穿云腺,人壽齊天賀我儔,

Nguyệt tuyền thanh triệt xuyên vân tuyến, nhân thọ tề thiên hạ ngã trù,

愁來無故聽心秋,稠疊山花黍禾周。

Sầu lai cố thính tâm thu, trù điệp sơn hoa thử hoà chu.

露草隨風迷雨路,優柔寄處杞人憂。

Lộ thảo tuỳ phong lộ, ưu nhu xứ kỷ nhân ưu.

 

一大青山云接天,白水茫茫總是泉。

Nhất đại thanh sơn vân tiếp thiên, bạch thuỷ mang mang tổng thị tuyền.

不見老僧何處覓,舟工來問渡頭舡。

Bất kiến lão tăng xứ mịch, chu công lai vấn độ đầu hang.

秋葉心留儘愁是,旭日嬌月幾朝明? 女憐少年妙不解,櫻口又嘆多情!

Thu diệp tâm lưu tận sầu thị, húc nhật kiều nguyệt kỷ triêu minh ?

Nữ liên thiểu niên diệu bất giải, anh khẩu hựu khởi thán đa tình !

悠悠心田思舊愛,淡淡西水洒亭台

Du du tâm điền cựu ái, đạm đạm tây thuỷ sái đình đài.

盈盈喬女嬌如玉,緲緲山人仙境來。

Doanh doanh kiều nữ kiều như ngọc, miểu miểu sơn nhân tiên cảnh lai.

夕夕酒醉多自在,非心之交悲已栽。

Tịch tịch tửu tuý đa tự tại, phi tâm chi giao bi tài.

錢金易水人情淺,衣今裂口空自哀。

Tiền kim dị thuỷ nhân tình thiển, y kim liệt khẩu không tự ai.

日沉西去月初明,門外清聲耳聞。

Nhật trầm tây khứ nguyệt minh, môn ngoại thanh thanh nhĩ nội văn.

相知友遠心遙想,鳥樂芳菲口亂鳴。

Tương tri hữu viễn tâm dao tưởng, điểu nhạc phương phi khẩu loạn minh.

山澗水枯山石出,木枝葉盛木成林。

Sơn giản thuỷ khô sơn thạch xuất, mộc chi diệp thịnh mộc thành lâm.

莫負良辰日易暮,三人同伴日遊春。

Mạc phụ lương thần nhật dị mộ, tam nhân đồng bạn nhật du xuân.

白浪逐水出清泉,舌判苦甘與酸甜。

Bạch lãng trục thuỷ xuất thanh tuyền, thiệt phán khổ cam dữ toan điềm.

石因有皮堅難破,絲到成帛軟勝綿。

Thạch nhân hữu kiên nan phá, ty đáo thành bạch nhuyễn thắng miên.

良辰秋月天正朗,魚拌烤羊味更鮮。

Lương thần thu nguyệt thiên chính lãng, ngư phan khảo dương vị canh tiên.

門庭若市喧聲鬧,人登名山半是仙。

Môn đình nhược thị huyên thanh náo, nhân đăng danh sơn bán thị tiên.

莊外草壯百花鮮,河邊水可勝清泉。     

Trang ngoại thảo tráng bách hoa tiên, biên thuỷ khả thắng thanh tuyền.

地上土也噴香味,枯枝木古發新

Địa thượng thổ phún hương vị, khô chi mộc cổ phát tân điên.

署中四者賞春早,田家十口走在前。

Thử trung tứ giả thưởng xuân tảo, điền gia thập khẩu tẩu tại tiền.

諸公言者歡聲涌,姓別女生半邊天。 

Chư công ngôn giả hoan thanh dũng, tính biệt nữ sinh bán biên thiên. 

何以人可報名早,因為口大好發言。

nhân khả báo danh tảo, nhân vy khẩu đại hảo phát ngôn.

記得言己出口,路上足各走一邊。

đắc ngôn kỷ thuyết xuất khẩu, lộ thượng túc các tẩu nhất biên.

張氏弓長可當棍,蔣家草將生滿田。

Trương thị cung trưởng khả đương côn, tưởng gia thảo tướng sinh mãn điền.

倪府人兒精神抖,許姓言午日不偏。

Nghê phủ nhân nhi tinh thần đẩu, hứa tính ngôn ngọ nhật bất thiên.

出門山山披錦繡,多處夕夕笑語喧。

Xuất môn sơn sơn phi cẩm tú, đa xứ tịch tịch tiếu ngữ huyên.

古人十口共一井,羅家四維傳千年。

Cổ nhân thập khẩu cộng nhất tỉnh, la gia tứ duy truyện thiên niên.

沮河水且能歌唱,湖里沽月不費錢。

Thư thuỷ thả năng ca xướng, hồ nguyệt bất phí tiền.

沙因水少一堆聚,篤信竹馬傍少年。

Sa nhân thuỷ thiểu nhất đôi tụ, đốc tín trúc bàng thiểu niên.

炮打石包地平坦,填地土真可成園。

Pháo đả thạch bao địa bình thản, điền địa thổ chân khả thành viên.

禾多千重浪,犁田利牛四周旋。

Di bộ hoà đa thiên trùng lãng, điền lợi ngưu tứ chu toàn.

抄詩手少寫不儘,睡後目垂美夢圓。

Sao thi thủ thiểu tả bất tận, thuỵ hậu mục thuỳ mỹ mộng viên.

 


小子去打柴,月半不回來,
走爭天下路,趙老送燈台

Triệu
Tiểu tử khứ đả sài, nguyệt bán bất hồi lai, Tẩu tranh thiên hạ lộ, TRIỆU lão tống đăng đài.

來人不在家,月下去觀花,
言問如何事,請坐吃杯茶。

Thỉnh
Lai nhân bất tại gia, nguyệt hạ khứ quan hoa, Ngôn vấn như sự, THỈNH toạ ngật bôi trà.

山理先生修道,而今不見回家。立地燒香拜佛,端然正坐蓮花。

Sơn lý tiên sinh tu đạo, nhi kim bất kiến hồi gia, lập địa thiêu hương bái Phật, ĐOAN nhiên chính toạ liên hoa.

山高好種田,而孫個個賢,
立在壺瓶里,端的是神仙。

Sơn cao hảo chủng điền, nhi tôn hiền, Lập tại hồ bình lý, ĐOAN đích thị thần tiên.

人才生得好,一心要去討。口財禮多,合得八字好。

Nhân tài sinh đắc hảo, nhất tâm yếu khứ thảo. Khẩu thuyết tài lễ đa, HỢP đắc bát tự hảo.

人生七十古來稀,日夜思量意若痴,三十年前容我樂,春風滿面笑嘻嘻。

Nhân sinh thất thập cổ lai hy, nhật dạ lượng ý nhược si, Tam thập niên tiền dung ngã nhạc, XUÂN phong mãn diện tiếu hy hy.

日照南軒花影斜,小窗獨坐望流霞,京台獨占平安地,景志相關勝太華。

Nhật chiếu nam hiên hoa ảnh tà, tiểu song độc toạ vọng lưu hà, Kinh đài độc chiêm bình an địa, CẢNH chí tương quan thắng thái hoa.

口中不暗傷嗟,絲毫無措且由他。可憐不是尋常客,綺羅隊里是吾家。

Khẩu trung bất thuyết ám thương ta, ty hào thố thả do tha. Khả liên bất thị tầm thường khách, la đội thị ngô gia.

四月光陰雨乍晴,佳人本是養蠶巡。絲絲千縷攢成絹,羅縞何愁不著身。

Tứ nguyệt quang âm sạ tình, giai nhân bản thị dưỡng tàm tuần. Ty ty thiên toàn thành quyên, LA cảo sầu bất trước thân.

一家和氣子孫賢,口念真經發善。田氏哭活紫荊樹,富貴榮華萬萬年。

Nhất gia hoà khí tử tôn hiền, khẩu niệm chân kinh phát thiện duyên. Điền thị khốc hoạt tử kinh thụ, phú quý vinh hoa vạn vạn niên.

十分教人人不知,田中無水莫開池。心下不曾做惡事,思量人善被人欺。

Thập phân giáo nhân nhân bất tri, điền trung thuỷ mạc khai trì. Tâm hạ bất tằng tố ác sự, lượng nhân thiện bị nhân khi.

忠良正直最為先,一生衣祿是前。慎法不招非橫禍,貴賤貧窮莫怨天。

Trung lương chính trực tối vy tiên, nhất sinh y lộc thị tiền duyên. Thận pháp bất chiêu phi hoành hoạ, QUÝ tiện bần cùng mạc oán thiên.

難行千里路,身在他未得回,言道誰家有好酒,謝家樓上飲三杯。

Thốn bộ nan hành thiên lộ, thân tại tha hương vị đắc hồi, Ngôn đạo thuỳ gia hữu hảo tửu, TẠ gia lâu thượng ẩm tam bôi.

十分敬人人不知,田中有水自開池。心里不曾生惡意,思量人善被人欺。

Thập phân kính nhân nhân bất tri, điền trung hữu thuỷ tự khai trì. Tâm bất tằng sinh ác ý, lượng nhân thiện bị nhân khi.

木木逢春再發,八千里路去尋他。公名回遠傳天下,松柏門前是我家。

Mộc mộc phùng xuân tái phát nha, bát thiên lộ khứ tầm tha. Công danh hồi viễn truyện thiên hạ, TÙNG bách môn tiền thị ngã gia.

馬革何人試裹屍?四維不振笑男兒。幸聞碩果存幽閣,驛使無言寄雅梨。

cách nhân thí khoả thi? Tứ duy bất chấn tiếu nam nhi. Hạnh văn thạc quả tồn u các, DỊCH sử ngôn nhã lê.

木偶同朝只素餐,人情到死真難。母牽幼女齊含笑,梅骨留香莫畏寒。

Mộc ngẫu đồng triêu chỉ tố xan, nhân tình thuyết đáo tử chân nan. Mẫu khiên ấu nữ tề hàm tiếu, MAI cốt lưu hương mạc hàn.

苟活何如決意休?文胡拍總堪羞。馬嘶芳草香魂斷,驚醒人間妾婦流。

Cẩu hoạt như quyết ý hưu? Văn hồ phách tổng kham tu. Mã phương thảo hương hồn đoạn, KINH tỉnh nhân gian thiếp phụ lưu.

口中節義係誰無?力輓江河實浪。刀鋸不移巾幗志,別無芥蒂是吾徒。

Khẩu trung tiết nghĩa hệ thuỳ vô? Lực vãn giang thực lãng hư. Đao cứ bất di cân quắc chí, BIỆT giới đế thị ngô đồ.

立也傷悲坐也傷,日斜光景對殘陽。心憐夫嗣兒還父,意慘君愁女伴娘。

Lập thương bi toạ thương, nhật quang cảnh đối tàn dương. Tâm liên phu tự nhi hoàn phụ, Ý thảm quân sầu nữ bạn nương.

土兵劫去又官兵,日望征人不復生。疋練有紅粉儘,堤邊一勺是匡城。

Thổ binh kiếp khứ hựu quan binh, nhật vọng chinh nhân bất phức sinh. Sơ luyện hữu duyên hồng phấn tận, ĐÊ biên nhất chước thị khuông thành.

木嫁原知冠蓋凋,夕陽古道冷蕭蕭。卩邊似聽征魂泣,柳絮因風未許招。

Mộc giá nguyên tri quan cái điêu, tịch dương cổ đạo lãnh tiêu tiêu. Tiết biên tự thính chinh hồn khấp, LIỄU nhứ nhân phong vị hứa chiêu.

日前送別唱陽關,立石望夫還未還。音信頻從隴外寄,暗傳汝婦已投繯。

Nhật tiền tống biệt xướng dương quan, lập thạch vọng phu hoàn vị hoàn. Âm tín tần thung lũng ngoại ký, ÁM truyện nhữ phụ đầu hoán.

凶莫凶兮國破亡,庭無救各奔忙。佳人命薄成何用?離卻塵氛骨也香。

Hung mạc hung hề quốc phá vong, nội đình cứu các bôn mang. Giai nhân mệnh bạc thành dụng? LY khước trần phân cốt hương.

禾黍流離最可憐,火焚無與救眉燃。心雖甘作泉客,愁向山頭望杜鵑。

Hoà thử lưu ly tối khả liên, hoả phần dữ cứu my nhiên. Tâm tuy cam tác hoàng tuyền khách, SẦU hướng sơn đầu vọng đỗ quyên.

雨余檻外暮鳴,木葉蕭疏秋氣清。目斷天涯人信杳,霜衣誰為寄邊城。

hạm ngoại mộ thiền minh, mộc diệp tiêu thu khí thanh. Mục đoạn thiên nhai nhân tín yểu, SƯƠNG y thuỳ vy biên thành.

木蘭花倚眺行云,十載幽思萬里分。又是秋殘花落後,枝頭杜宇泣昏。

Mộc lan hoa thiếu hành vân, thập tải u vạn phân. Hựu thị thu tàn hoa lạc hậu, CHI đầu đỗ khấp hoàng hôn.

西陵一別幾經霜,示妾音書竟渺茫。風拂碧梧秋又至,飄篷何日復歸航。

Tây lăng nhất biệt kỷ kinh sương, kỳ thiếp âm thư cánh diêu mang. Phong phất bích ngô thu hựu chí, PHIÊU bồng nhật phức quy hàng.

絲絲柳絮鎖青煙,士子飄流不係船。口歸期何日至,結成鸞鳳風前

Ty ty liễu nhứ toả thanh yên, tử phiêu lưu bất hệ thuyền. Khẩu thuyết quy kỳ nhật chí, KẾT thành loan phụng vãn phong tiền

水漲江邊日影斜,前雙燕又還家。犬聲空吠人何在,灑東風怨落花。

Thuỷ trướng giang biên nhật ảnh tà, hộ tiền song yến hựu hoàn gia. Khuyển thanh không phệ nhân tại, LỆ sái đông phong oán lạc hoa.

草蔓池塘又感秋,人在遼西妾倚樓。七首東風難割恨,花前翻悔覓封候。

Thảo mạn trì đường hựu cảm thu, nhân tại liêu tây thiếp lâu. Thất thủ đông phong nan cát hận, HOA tiền phiên hối mịch phong hậu.

草塘秋綠雨初收,水天一色溯回求。各懷思念何時會,落寞香閨空自愁。

Thảo đường thu lục thu, thuỷ thiên nhất sắc tố hồi cầu. Các hoài niệm thì hội, LẠC mịch hương khuê không tự sầu.

蟲羽尚知惜別離,世情何故永相違。木蘭花發為誰伴,蝶戀枝頭幾度飛。

Trùng thượng tri tích biệt ly, thế tình cố vĩnh tương vy. Mộc lan hoa phát vy thuỳ bạn, ĐIỆP luyến chi đầu kỷ độ phi.

人世青春有幾何,之南之北別離多。口傳佳訊無人語,含恨青山對翠峨。

Nhân thế thanh xuân hữu kỷ hà, chi nam chi bắc biệt ly đa. Khẩu truyện giai tấn nhân ngữ, HÀM hận thanh sơn đối thuý nga.

禾黍青青半帶,火神初退倚秋窗。心懷遊子征衣薄,愁筆題詩萬行。

Hoà thử thanh thanh bán đới hoàng, hoả thần thoái thu song. Tâm hoài du tử chinh y bạc, SẦU bút đề thi lệ vạn hành.

千重綠水萬重山,八鬥才郎赴燕關,日落西山常垂,香閨懶整舊時顏.

Thiên trùng lục thuỷ vạn trùng sơn, bát đẩu tài lang phó yến quan, Nhật lạc tây sơn thường thuỳ lệ, HƯƠNG khuê lãn chỉnh cựu thì nhan .

西山氣爽碧蓮房,示我無心懶整妝, 風雨凄凄情切切,飄然一夢到君旁

Tây sơn khí sảng bích liên phòng, kỳ ngã tâm lãn chỉnh trang. Phong thê thê tình thiết thiết, PHIÊU nhiên nhất mộng đáo quân bàng .

木魚點點聽雞鳴,十夜思君九夜啼, 又見銀河星一度,枝頭喜鵲架橋西.

Mộc ngư điểm điểm thính minh, thập dạ quân cửu dạ đề, Hựu kiến ngân tinh nhất độ, CHI đầu hỷ thước giá kiều tây .

絲羅已許百年同,士別香閨馬首東,口信寄君君不返,結心同在夢魂中.

Ty la hứa bách niên đồng , sĩ biệt hương khuê thủ đông, Khẩu tín quân quân bất phản , KẾT tâm đồng tại mộng hồn trung .

水流花謝日悠悠,卷珠簾不下鉤,犬吠非君空自喜,痕點點濕衿綢.

Thuỷ lưu hoa tạ nhật du du ,

Hộ quyển châu liêm bất hạ câu , Khuyển phệ phi quân không tự hỷ ,

LỆ ngân điểm điểm thấp khâm trừu .

草色青青柳色新,人各天涯哪得親,七醋味酸難下咽,花殘月缺倍傷神.

Thảo sắc thanh thanh liễu sắc tân ,

Nhân các thiên nhai na đắc thân ,

Thất thố vị toan nan hạ yết ,

HOA tàn nguyệt khuyết bội thương thần

草頭忘憂卻不忘,水流花前斷肝腸,各枕相思眠不得,落花片片惜無香.

Thảo đầu vong ưu khước bất vong, Thuỷ lưu hoa tiền đoạn can trường,
Các chẩm tương miên bất đắc, 

LẠC hoa phiến phiến tích hương .

蟲聲唧唧夜悲啾,世上風流入花樓, 木葉落時聲息息,蝶因花謝更添愁.

Trùng thanh tức tức dạ bi thu,

Thế thượng phong lưu nhập hoa lâu ,

Mộc diệp lạc thì thanh tức tức ,

ĐIỆP nhân hoa tạ canh thiêm sầu .

人生好合豈離群,之子于歸總不聞,千般情難儘,含愁陣陣學回文.

Nhân sinh hảo hợp khởi ly quần ,

Chi tử vu quy tổng bất văn ,
Khẩu thuyết thiên bàn tình nan tận , HÀM sầu trận trận học hồi văn .

禾麥芬芳兩樣分,掛壁憶郎君,心中甘苦共誰,愁銷巫山一段云

Hoà mạch phân phương lưỡng dạng phân ,

Hoả đăng quải bích ức lang quân ,
Tâm trung cam khổ cộng thuỳ thuyết , SẦU tiêu vu sơn nhất đoạn vân .

言身寸謝口天,禾火心愁竹付符。立木見親門問,西示風飄古月胡。

Ngôn thân thốn tạ khẩu thiên ngô, hoà hoả tâm sầu trúc phó phù.

Lập mộc kiến thân môn khẩu vấn, Tây kỳ phong phiêu cổ nguyệt hồ.

言身寸謝子瓜孤,禾火心愁米且粗,立木見親問口問,西示風飄古月胡。

Ngôn thân thốn tạ tử qua cô,

H hoả tâm sầu mễ thả thô,
Lập mộc kiến thân vấn khẩu vấn,

Tây kỳ phong phiêu cổ nguyệt hồ.

口念法華經,言語真清。身中常舉慈善心。寸不離方便路,謝得神明。

Khẩu niệm pháp hoa kinh,

Ngôn ngữ chân thanh. Thân trung thường cử từ thiện tâm. Thốn bộ bất ly phương tiện lộ, TẠ đắc thần minh.

一子學修真,口誦真。田園屋宅屬他人。衣食金銀全不愛,福壽康寧。

Nhất tử học tu chân, khẩu tụng chân kinh. Điền viên ốc trạch thuộc tha nhân. Y thực kim ngân toàn bất ái, PHÚC thọ khang ninh.

可憐見,人別時,口叫親親早些歸。 丁當鐵馬檐前響,何事今朝不見回。

Khả liên kiến, nhân biệt thì, khẩu khiếu thân thân tảo ta quy. Đinh đương thiết thiềm tiền hưởng, sự kim triêu bất kiến hồi.

古木久已枯,山石化為岩,
凝水冰成聚因火如煙散

Cổ mộc cửu khô, sơn thạch hoá vy nham, Ngưng thuỷ băng thành tụ, nhân hoả như yên tán.