孟子 -
離婁下
孟子曰:「舜生於諸馮,遷於負夏,卒於鳴條,東夷之人也。
Mạnh tử viết:
Thuấn sinh ư Chư phùng, thiên ư Phụ hạ, tốt ư Minh điều, đông di chi nhân dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Vua Thuấn
sinh ra ở đất Chư phùng, thiên di ở đất Phụ hạ, chết ở đất Minh điều, là người
rợ phương đông vậy.
文王生於岐周,卒於畢郢,西夷之人也。
Văn vương sinh
ư Kỳ châu, tốt ư Tất sính, tây di chi nhân dã.
Dịch nghĩa: Vua Văn vương sinh ra ở đất
Kỳ châu, chết ở đất Tất sính, là người rợ phương tây vậy.
地之相去也,千有餘里;世之相後也,千有餘歲。得志行乎中國,若合符節。
Địa chi tương
khứ dã, thiên hữu dư lý; thế chi tương hậu dã, thiên hữu dư tuế; đắc chí hành hồ
trung quốc, nhược hợp phù tiết.
Dịch nghĩa: Vua Thuấn với vua Văn, đất ở
cách xa nhau có hơn một nghìn dặm; đời sinh cách sau nhau có hơn một nghìn năm;
thế mà khi thoả chí được làm đạo ở chốn trung quốc, giống nhau như in con so.
Chú giải: Đắc chí = Khi được thoả chí
làm nên, như vua Thuấn làm đấng thiên tử, vua Văn làm quan phương bá được thi
hành cái đạo mình ra thiên hạ. Phù tiết = cái ấn để so làm tin, làm bằng ngọc,
khắc chữ triện vào mà cắt đôi ra, mỗi người đều giữ một nửa, khi có việc, thì
đem hai mảnh hợp lại so làm tin. Đây là nói vua Thuấn vua Văn đất ở tuy xa cách
nhau, thời sinh tuy trước sau khác nhau, mà đạo lý cũng cùng là một vậy.
先聖後聖,其揆一也。」
Tiên thánh hậu
thánh, kỳ quỹ nhất dã.
Dịch nghĩa: Suy ra ông thánh trước ông
thánh sau, so lại đều là một đạo cả.
Chú giải: Quỹ = đo, là so sánh. Tiết
này là nói không những vua Thuấn vua Văn cùng là một đạo suy ra, dẫu đến trước
Thuấn Văn là bậc tiền thánh, sau Thuấn Văn là bậc hậu thánh, cũng cùng một tâm
lý thì cũng một đạo ấy cả.
II
子產聽鄭國之政,以其乘輿濟人於溱洧。
Tử Sản thính
Trịnh quốc chi chính, dĩ kỳ thặng dư tế nhân ư Trăn Vĩ.
Dịch nghĩa: Ông Tử Sản cầm quyền chính
trị nước Trịnh, thấy người phải lội sông, đem cỗ xe của mình đang cưỡi, bỏ xuống
dòng sông Trăn sông vĩ, để chở cho người sang đò.
Chú giải: Tử Sản = quan đại phu nước Trịnh,
tên là Công Tôn Kiều. Tế = chở cho sang đò.
孟子曰:「惠而不知為政,
Mạnh tử viết:
Huệ nhi bất tri vi chính.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh chê rằng: Như ông
Tử Sản là chỉ biết làm cái ơn nhỏ mà chửa biết làm điều chính lớn.
Chú giải: Chương này là nói việc làm
chính trị phải cốt thực hành điều đức lớn, chớ không cần làm ơn nhỏ.
歲十一月徒杠成,十二月輿梁成,民未病涉也。
Tuế, thập nhất
nguyệt, đồ giang thành, thập nhị nguyệt, dư lương thành, dân vị bệnh thiệp dã.
Dịch nghĩa: Thử coi chính sự đấng tiên
vương, trong một năm, tháng mười một thì cái cầu đi bộ sửa bắc thành, tháng mười
hai thì cái cầu đi xe sửa bắc thành, dân không phải lo về sự lặn lội vậy.
Chú giải: Đồ = đi chân không, đi bộ.
Giang = cầu vuông. Dư = xe. Lương = cầu.
Đây là kể ra việc làm cầu cống, cũng là
một việc vương chính
君子平其政,行辟人可也;焉得人人而濟之?
Quân tử bình kỳ
chính, hành tịch nhân khả dã; yên đắc nhân nhân nhi tế chi.
Dịch nghĩa: Người quân tử thì hành
chính sự, cốt khiến cho quân bình, khi đi ra đường bắt người phải tránh mình,
cũng đáng vậy; sao hay người này người khác mà đều đem cỗ xe chở cho sang sông
cả được.
Chú giải: tịch = tịch trừ, nghĩa là gạt
rẽ người ra hai bên, là khiến người đi đường phải tránh mình.
故為政者,每人而悅之,日亦不足矣。」
Cố vi chính giả,
mỗi nhân nhi duyệt chi, nhật diệc bất túc hĩ.
Dịch nghĩa: Cho nên kẻ làm chính, chỉ
làm cái ơn nhỏ cho mỗi người đẹp lòng cả, thì người nhiều ngày ít, hàng ngày
cũng chẳng đủ vậy.
Chú giải: Đây là nói cái phương pháp
làm chính trị cốt phải biết điều đại thể, giúp cho khắp mọi người, chớ cứ làm
những điều tư ân tiểu huệ thì không đủ thì giờ mà làm được.
III.
孟子告齊宣王曰:「君之視臣如手足,則臣視君如腹心;君之視臣如犬馬,則臣視君如國人;君之視臣如土芥,則臣視君如寇讎。」
Mạnh tử cáo Tề
tuyên vương viết: Quân chi thị thần như thủ túc, tắc thần thị quân như phúc
tâm; quân chi thị thần như khuyển mã, tắc thần thị quân như quốc nhân; quân chi
thị thần như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu thù.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh bảo vua Tuyên
vương nước Tề rằng: Vua coi bày tôi như tay chân, thì bày tôi coi vua như tim
ruột; vua coi bày tôi như chó ngựa, thì bày tôi coi vua như người ngoài đường;
vua coi bày tôi như đất cỏ, thì bày tôi coi vua như giặc thù.
Chú giải: Coi nhau như chân tay tim ruột
là kính đãi nhau như nhất thể, đủ đường ân nghĩa. Coi như chó ngựa, là chỉ lấy
lộc nuôi chứ không có kính lễ. Quốc nhân = người nước, là nói như người ngoài
đường. Coi như đất cỏ là ý nói khinh rẻ chém giết. Chương này là có ý răn vua Tề
phải nên lấy lễ đãi bầy tôi.
王曰:「禮,為舊君有服。何如斯可為服矣?」
Vương viết: Lễ,
vị cựu quân hữu phục, hà như tư khả vị phục hĩ?
Dịch nghĩa: Tuyên vương hỏi rằng: Trong
kinh Lễ, vì ông vua cũ có để trở. Ông vua như thế nào, thì đáng vì để trở vậy?
Chú giải: Tiết này là Tuyên vương nghi
lời thầy Mạnh nói bày tôi coi vua như khấu thù là quá, nên mới dẫn lễ bày tôi
còn phải để trở vua cũ, lẽ nào lại coi khinh vua được.
曰:「諫行言聽,膏澤下於民;有故而去,則使人導之出疆,又先於其所往;去三年不反,然後收其田舍。此之謂三有禮焉。如此則為之服 矣。
Viết: Gián
hành ngôn thính, cao trạch hạ ư dân; hữu cố nhi khứ, tắc quân sử nhân đạo chi
xuất cương; hựu tiên ư kỳ sở vãng; khứ tam niên bất phản, nhiên hậu thu kỳ điền
lý, thử chi vị tam hữu lễ yên, như thử tắc vị chi phục hĩ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Can vua
thì vua dùng, nói ra thì vua nghe, ơn trạch xuống đến dân; có cớ gì mà phải lìa
nước ra đi, thì vua sai người đưa đi ra khỏi cõi nước; lại có lời khen trước với
chỗ người ấy đi, để mong cho chỗ ấy dùng; người ấy đi đến ba năm mà chẳng trở về,
rồi sau mới thu lấy lộc ruộng và chỗ ở của người ấy; thế gọi là ba điều đối với
kẻ bày tôi có lễ; ông vua như thế thì khá vì ông vua ấy để trở.
Chú giải: Đây là nói vua đãi bày tôi hậu
thì bày tôi cũng phải đãi vua hậu mà để trở.
今也為臣,諫則不行,言則不聽,膏澤不下於民;有故而去,則君搏執之,
又極之於其所往;去之日,遂收其田舍。此之謂寇讎。寇讎何服之有?」
Kim dã vi thần,
gián tắc bất hành, ngôn tắc bất thính, cao trạch bất hạ ư dân; hữu cố nhi khứ,
tắc quân bác chấp chi; hựu cực chi ư kỳ sở vãng; khứ chi nhật, toại thu kỳ điền
lý, thử chi vị khấu thù, khấu thù hà phục chi hữu.
Dịch nghĩa: Ngày nay làm kẻ bày tôi can
vua thì vua chẳng dùng, nói ra thì vua chẳng nghe, ơn trạch chẳng xuống đến dân;
có cớ gì mà phải lìa nước ra đi, thì vua bắt giữ mà chẳng cho ra khỏi cõi nước;
hoặc ra khỏi cõi nước, thì lại cùng cực làm cho khốn nhục ở chỗ người ấy đi;
ngày người vừa đi, liền thu lấy lộc ruộng và chỗ ở của người ấy; ông vua như thế
gọi là kẻ giặc thù, giặc thù thì có để trở gì nữa.
Chú giải: Đây là nói ông vua xử tệ với
bày tôi, thì bày tôi báo lại cũng tệ bạc.
IV
孟子曰:「無罪而殺士,則大夫可以去;無罪而戮民,則士可以徙。」
Mạnh tử viết:
Vô tội nhi sát sĩ, tắc đại phu khả dĩ khứ; vô tội nhi lục dân, tắc sĩ khả dĩ tỉ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Xét về
việc hình thì biết nước loạn, như thấy không có tội gì mà giết quan sĩ, thì
quan đại phu nên bỏ nước ấy mà đi; thấy không có tội gì mà giết dân, thì quan
sĩ nên dời nước ấy mà lánh.
Chú giải: Đây là nói người quân tử nên
kiến cơ trước mà đi, để tránh cho khỏi vạ
孟子曰:「君仁莫不仁,君義莫不義。」
Mạnh tử viết:
Quân nhân mạc bất nhân, quân nghĩa mạc bất nghĩa.
Dịch nghĩa; Thầy Mạnh nói rằng: Vua làm
điều nhân, thì chẳng ai là chẳng hưng khởi về sự nhân; vua làm điều nghĩa, thì
chẳng ai là chẳng hưng khởi về sự nghĩa.
Chú giải: chương này là răn ông vua phải
nên ở cho hết đạo nhân nghĩa để cảm hoá mọi người, thì ai cũng theo về đường
nhân nghĩa.
VI
孟子曰:「非禮之禮,非義之義,大人弗為。」
Mạnh tử viết:
Phi lễ chi lễ, phi nghĩa chi nghĩa, đại nhân phất vi.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Điều lễ
gần giống lễ mà chẳng phải lễ, điều nghĩa gần giống nghĩa mà chẳng phải nghĩa,
những điều lễ nghĩa chẳng hợp về lẽ thích đáng ấy, kẻ đại nhân chẳng làm.
Chú giải: Đây là nói kẻ đại nhân có thịnh
đức đã biết xét lẽ tuỳ thời, thì hay phân biệt được lễ nghĩa cho hợp đạo thời
trung.
VII
孟子曰:「中也養不中,才也養不才,故人樂有賢父兄也。如中也棄不中,才也棄不才,則賢不肖之相去,其間不能以寸。」
Mạnh tử viết:
Trung dã dưỡng bất trung, tài dã dưỡng bất tài, cố nhân lạc hữu hiền phụ huynh
dã. Như trung dã khí bất trung, tài dã khí bất tài; tắc hiền bất tiếu chi tương
khứ, ký gian bất năng dĩ thốn.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Người
có đức trung dạy bảo cho kẻ chẳng có đức trung, người có tài dạy bảo cho kẻ chẳng
có tài, vậy nên người ta đều vui rằng có đấng cha anh hiền hay dạy bảo cho mình
vậy. Nếu người có đức trung bỏ kẻ chẳng có đức trung mà chẳng dạy, người có tài
bỏ kẻ chẳng có tài mà chẳng dạy; thì người cha anh hiền với kẻ con em chẳng hiền,
có xa cách nhau mấy khoảng đó dễ không được lấy một tấc.
Chú giải: Trung = cái đức không thái
quá mà không bất cập. Tài = cái tài đủ ứng dụng với đời. Dưỡng = đầm thấm hun
đúc nuôi nấng cho nó cảm hoá. Đây là nói làm bậc cha anh, có cái trách nhiệm
giáo dục cho kẻ con em, nếu bỏ trách nhiệm thì cha anh so với con em cũng đều
là bất hiếu, không phải là hiền, để thiết răn người làm cha anh không nên bỏ
con em mà chẳng dạy.
孟子曰:「人有不為也,而後可以有為。」
Mạnh tử viết:
Nhân hữu bất vi dã, nhi hậu khả dĩ hữu vi.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Người
ta có chẳng làm những điều không nên làm, rồi mới có thể làm được những điều
nên làm.
Chú giải: Đây là khuyên người ta nên biết
kén chọn điều phải điều trái để làm cái gốc cho sự hành vi. Nguyên người có kiến
thức biết kén chọn kỹ thì mới không làm những điều dở, mà thầy điều hay thì tất
làm.
IX
孟子曰:「言人之不善,當如後患何?」
Mạnh tử viết:
Ngôn nhân chi bất thiện, đương như hậu hoạn hà!
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Nói ra
những điều chẳng tốt của người ta, không sợ cái vạ về sau hay sao!.
Chú giải: Đây là bảo người ta nên giữ
cái đạo trung hậu, chớ nên nói xấu người mà có tai vạ về sau.
X
孟子曰:「仲尼不為已甚者。」
Mạnh tử viết:
Trọng Ni bất vi dĩ thậm giả.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Thánh
như ông Trọng Ni có làm điều gì cao quý quá đâu.
Chú giải: Bất vi dĩ thậm = không làm điều
gì cao kỳ quá, chỉ theo về lẽ trung dung mà làm cho vừa phải mà thồi. Đây là kể
ra một bật chí thánh, mà ngôn hành vẫn giữ thèo đạo trung dung, để răn những kẻ
ngôn luận quá cao, hành vi quá khích.
XI
孟子曰:「大人者,言不必信,行不必果,惟義所在。」
Mạnh tử viết:
Đại nhân giả, ngôn bất tất tín, hạnh bất tất quả, duy nghĩa sở tại.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Bậc đại
nhân xét nghĩa đã tinh, nói không hẹn trước phải tin thực, nết không hẹn trước
phải quả quyết, chỉ xét về điều nghĩa ở đâu thì cứ tuỳ thời mà nói mà làm.
Chú giải: Tất = cũng như chữ kỳ là hẹn,
là ý hẹn trước định trước. Đây là nói bậc đại nhân chỉ tính xét cho hợp nghĩa,
mà lời nói tự nhiên là tin thực, nết làm tự nhiên là quả quyết, bất tất là phải
có ý định hẳn trước.
XII
孟子曰:「大人者,不失其赤子之心者也。」
Mạnh tử viết:
Đại nhân giả, bất thất kỳ xích tử chi tâm giả dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Bậc đại
nhân là hạng người tri năng vẹn tuyền, là bởi vẫn không mất cái tâm lương tri
lương năng từ thủa làm con đỏ vậy.
Chú giải: Tâm người đại nhân thì hay
thông suốt vạn biến, mà tâm đứa con đỏ thì vốn là thành thực, thuần nhất tự
nhiên, bởi người đại nhân hay không đắm về vật dục, nên mới hay giữ được cái
tâm bản nhiên từ thuở bé mà khuếch sung ra.
XIII
孟子曰:「養生者,不足以當大事,惟送死可以當大事。」
Mạnh tử viết:
Dưỡng sinh giả, bất túc dĩ đương đại sự, duy tống tử khả dĩ đương đại sự.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Người
con đối với cha mẹ, sự nuôi nấng lúc sống chưa đủ cho là sự lớn, chỉ sự tống
táng cha mẹ lúc chết mới là sự lớn.
Chú giải: Sự phụng dưỡng cha mẹ lúc sống
thì thung dung kính yêu là sự thường, đến như sự tống tử thì vội vàng lo liệu
là sự biến, phải nên cẩn trọng hơn, chớ không phải chia ra có bên trọng bên
khinh vậy.
XIV
孟子曰:「君子深造之以道,欲其自得之也。自得之則居之安,居之安則資之深,資之深則取之左右逢其原。故君子欲其自得之也。」
Mạnh tử viết:
Quân tử thâm tháo chi dĩ đạo, dục kỳ tự đắc chi dã; tự đắc chi, tắc cư chi an.
Cư chi an, tắc tư chi thâm. Tư chi thâm, tắc thủ chi tả hữu phùng kỳ nguyên, cố
quân tử dục kỳ tự đắc chi dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Người
quân tử cứ theo về đường đạo lý mà dần dà tiến mãi lên, là muốn tự mình tâm đắc
về đó vậy; tự mình đã tâm đắc về đạo lý, thì ở yên vào đó, vật ngoài không thể
lay chuyển được. Đã ở yên vào đó rồi thì bằng tạ nhờ về đó sâu xa vô cùng. Đã
nhờ về đó sâu xa rồi thì ứng dụng ra tả hữu mặt nào cũng gặp nguồn gốc của mình
mà không khi nào cạn, cho nên người quân tử muốn tự mình tâm đắc về đạo lý vậy.
Chú giải: Tháo = tiến lên. Thâm tháo =
Là ý tiến lên dần dà mãi không thôi. Tư = nhờ, giúp, nghĩa là học vấn đã khá
thì mình bằng tạ nhờ về đó giúp cho được nhiều. Nguyên = nguồn gốc. Đây là bảo
người lấy cáo đường học vấn phải cốt về tâm đắc lấy đạo lý cho sâu xa.
XV
孟子曰:「博學而詳說之,將以反說約也。」
Mạnh tử viết:
bác học nhi tường thuyết chi, tương dĩ phản thuyết ước dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Học cho
rộng mà giảng thuyết nghĩa lý cho tường, để rồi lại giảng thuyết ước lại cho gọn.
Chú giải; Đây là nói sự học phải trước
bác mà sau ước, không phải chỉ là cầu quảng bác mà thôi, mà cũng không nên cầu
yếu ước vội. Học nếu không quảng bác thì kiến thức không được mở mang, nhưng nếu
không yếu ước thì công phu cũng không có chốn thu thúc.
XVI
孟子曰:「以善服人者,未有能服人者也。以善養人,然後能服天下。天下不心服而王者,未之有也。」
Mạnh tử viết:
Dĩ thiện phục nhân giả, vị hữu năng phục nhân giả dã. Dĩ thiện dưỡng nhân,
nhiên hậu năng phục thiên hạ. Thiên hạ bất tâm phục nhi vượng giả, vị chi hữu
dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ông vua
giả cách làm điều thiện để bắt ép người ta phải phục tùng, thì chưa có thể khiến
người ta tâm phục được. Hay lấy công tâm làm điều thiện để gây dựng dạy bảo cho
người cùng theo về đường thiện, thì mới hay tâm phục được cả thiên hạ. Thiên hạ
chẳng tâm phục mà hay nên được công nghiệp thịnh vượng, chưa có lẽ thế bao giờ.
Chú giải: Đây là khuyên các vua chư hầu
nên thành thực công tâm làm điều thiện, mà thi hành ra những đức chính nhân
nghĩa, thì tự khắc là thiên hạ đều quy phục.
XVII
孟子曰:「言無實,不詳。不詳之實,蔽賢者當之。」
Mạnh tử viết:
Ngôn, vô thực bất tường; bất tường chi thực, tế hiền giả đương chi.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: lời
nói, không phải thực là có tai hại lắm; xét ra thực tai hại thì chỉ cái lời nói
làm che lấp người hiền là hại hơn cả.
Chú giải: Bất tường = điềm chẳng lành,
nghĩa là tai hại. Tế hiền = che lấp kẻ hiền tài, khiến cho không hiển đạt lên
được. Đây là răn những kẻ hay gièm pha làm ngăn trở kẻ hiền tài
XVIII
徐子曰:「仲尼亟稱於水曰:『水哉!水哉!』何取於水也?」
Từ tử viết: Trọng
Ni khái xưng ử thuỷ viết: Thuỷ tai thuỷ tai! Hà thủ ư thuỷ dã?
Dịch nghĩa: Ngươi Từ tử hỏi rằng: Ông
Trọng Ni xem sông nước thường năng khen rằng: Nước vậy thay, nước vậy thay! Là
lấy nghĩa gì ở nước vậy?
Chú giải: Khái = thường luôn
孟子曰:「源泉混混,不舍晝夜,盈科而後進,放乎四海;有本者如是,是之取爾。
Mạnh tử viết:
Nguyên tuyền hỗn hỗn, bất xả trú dạ, doanh khoa nhi hậu tiến, phóng hồ tứ hải;
hữu bản giả như thị, thị chi thủ nhĩ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Nước suối
từ nguồn gốc, tuôn tuôn chảy ra, chẳng dừng ngày đêm, đầy khe rồi mới chảy dần
đi, tràn khắp đến bốn bể; cái nước có nguồn gốc ấy như thế, cho nên lấy về
nghĩa ấy mà khen vậy.
Chú giải; Khoa = khoe vũng. Đây là nói
nước có nguồn gốc thì hay chẩy dần mãi đi cho thấu đến bể, ví như người ra có
cái thực hành làm gốc, rồi học cho tiến dần mãi lên, theo đến bậc thánh hiền.
茍為無本,七、八月之間雨集,溝澮皆盈;其涸也,可立而待也。故聲聞過情,君子恥之。」
Cẩu vi vô bản,
thất bát nguyệt chi gian, vũ tập, câu khoái giai doanh; kỳ hạc dã, khả lập nhi
đãi dã. Cố thanh văn quá tình, quân tử sỉ chi.
Dịch nghĩa: Nếu không có nguồn gốc,
đương khoảng tháng bảy tháng tám, nước mưa chứa chan, ngòi lạch đều đầy; nhưng
nó cạn đi, có thể đứng đấy mà đợi được. Cho nên những tiếng khen quá sự thực,
quân tử lấy làm xấu hổ.
Chú giải: Đây là nói cái nước không có
nguồn gốc thì cạn ngay, để răn người không có thực hành, mà chỉ có hư danh, thì
cái danh ấy chẳng được lâu bền, để khuyên người ta nên phải vụ thực vụ bản mới
được
XIX
孟子曰:「人之所以異於禽獸者幾希,庶民去之,君子存之。
Mạnh tử viết:
Nhân chi sở dĩ dị ư cầm thú giả ky hy; thứ dân khử chi, quân tử tồn chi.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Người ta
bẩm sinh ra, vốn có chút bản tính tốt, sở dĩ khác với loài cầm thú ấy có mấy
tí; thế mà kẻ thường dân bỏ mất đi, người quân tử mới hay giữ được bản tính.
Chú giải: Ky hy = không mấy tí. Nghĩa
là người ta bẩm tính sinh ra không khac gì giống vật mấy tí.
舜明於庶物,察於人倫;由仁義行,非行仁義也。」
Thuấn minh ư
thứ vật, sát ư nhân luân; do nhân nghĩa hành, phi hành nhân nghĩa dã.
Dịch nghĩa: Vua Thuấn biết rõ mọi lẽ sự
vật, xét kỹ về đạo luân thường, tự nhiên thuận theo điều nhân điều nghĩa mà
làm, chẳng phải là miễn cưỡng làm điều nhân điều nghĩa vậy.
Chú giải: Đây là nói vua Thuấn là một bậc
quân tử, hay giữ được bản tính tự nhiên để truyền mối đạo thống về muôn đời
XX
孟子曰:「禹惡旨酒而好善言。
Mạnh tử viết:
Vũ ố chỉ tửu, nhi hiếu thiện ngôn
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Vua Vũ
ghét rượu ngon, mà mong cầu lời nói phải. Chú giải: Đây là nói vua Vũ hay tuyệt
điều ác mà ham điều thiện.
湯執中,立賢無方。
Thang chấp
trung, lập hiền vô phương.
Dịch nghĩa: Vua Thang giữ theo đạo
trung dung, dùng người hiền thì không nề loại nào cả.
Chú giải: Chấp = giữ vững không sai. Lập
= dựng lên, nghĩa là dùng lên cho ở ngôi. Đây là nói vua Thang hay giữ đạo
trung mà dùng người hiền
文王視民如傷,望道而未之見。
Văn vương thị
dân như thương, vọng đạo nhi vi chi kiến.
Dịch nghĩa: Vua Văn vương coi dân hình
như thương đau, xét đạo lý hình như chưa trông thấy.
Chú giải: Chữ nhi đọc là như, hai chữ ấy
khi xưa thường thông dụng. Đây là nói vua Văn hay thương dan mà hay hư tâm cầu
đạo.
武王不泄邇,不忘遠。
Vũ vương bất
tiết nhĩ, bất vong viễn.
Dịch nghĩa: Vua Võ vương chẳng coi
khinh chỗ gần, chẳng nhãng quên chỗ xa.
Chú giải: Tiết = Coi nhờn, coi khinh.
Người nào hoặc việc gì ở gần thì người ta hay khinh nhờn, mà ở xa thì hay quyên
nhãng đi, nhưng vua Võ không thế, thì rất là hết lòng kính cẩn
周公思兼三王,以施四事。其有不合者,仰而思之,夜以繼日;幸而得之,坐以待旦。」
Châu công tư kiêm
tam vương, dĩ thi tứ sự; kỳ hữu bất hợp giả, ngưỡng nhi tư chi, dạ dĩ kế nhật,
hạnh nhi đắc chi, toạ dĩ đãi đán.
Dịch nghĩa: Ông Châu công suy nghĩ muốn
gồm cả cái đạo ba đời vương, để thi hành bốn việc; có điều gì không hợp với thời
thế, thì mong nghĩ cái lẽ ấy cho ra, suốt cả ngày đêm, may mà nghĩ được hợp lẽ,
thì muốn thi hành ngay, ngồi để đợi đến sáng.
Chú giải: Tam vương = Vũ, Thag, và Văn
Võ. Tứ sự = tức là những việc hay của Vũ, Thang, Văn Võ đã kể như trên. Đây là
nói Châu công đương lúc giúp Thành vương chế lễ làm nhạc, hết lòng suy nghĩa
cho hợp lẽ, lại mong thi hành ra cho chóng, để tỏ ra cái tâm tư ưu cần mong nối
lấy đạo thống đời tam vương. Trở lên toàn chương này là thừa ý chương trên, lịch
thuật một vài việc ưu cần dịch lệ của Vũ, Thang, Văn, Võ Châu công để tỏ rõ ra
rằng liệt thánh vẫn cùng một nguồn tâm học, cùng noi nối một đạo thống tương
truyền.
XXI
孟子曰:「王者之跡熄而《詩》亡,《詩》亡然後《春秋》作。
Mạnh tử viết:
Vương giả chi tích tức nhi Thi vong, Thi vong nhiên hậu Xuân thu tác.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Cái dấu
vết đấng vương giả tắt đi mà thơ Nhã mất; thơ Nhã mất rồi sau kinh Xuân thu mới
làm ra.
Chú giải: Vương giả tích tức = Đấng
vương giả ngày xưa đi tuần thú các nước chư hầu, để thi hành chính giáo, hiệu lệnh,
và xét thơ để xem phong tục. Từ khi vua Bình vương nhà Châu dời sang bên đông,
nhà Châu hèn yếu, chính giáo hiệu lệnh không thi hành ở thiên hạ nữa, thế là
cái thực tích vương giả mất đi, chỉ còn có hư danh mà thôi. Thi vong = thơ Nhã
mất đi từ đời Châu suy không còn có nữa, nghĩa là thơ Thử ly là thơ thương nhà
Châu suy đã liệt vào thể quốc phong thì thể thơ Nhã mất. Xuân thu = Ông Khổng
nhân sách sử nước Lỗ làm ra kinh Xuân thu, sẽ kể tường ở dưới. Đây là nói Khổng
tử nối sau khi thơ Nhã đã tuyệt tích đi rồi, mới làm ra kinh Xuân thu để răn kẻ
tà, phù người chính, để nối giữ lấy đạo thống của quần thánh
晉之《乘》、楚之《檮杌》、魯之《春秋》,一也。
Tấn chi Thặng,
Sở chi Đào ngột, Lỗ chi Xuân thu, nhất dã.
Dịch nghĩa: Sách Thặng của nước Tấn,
sác Đào ngột của nước Sở, sách Xuân thu của nước Lỗ, đều là một thể ký sự vậy.
Chú giải: Thặng = nguyên nghĩa là cỗ xe
ngựa để chở người chở đồ, đây lấy nghĩa là ghi chép thời sự mà đặt tên sách là
Thặng. Đào ngột = nguyên nghĩa là tên con thú ác, nên mới đặt hiệu cho người
ác, nay lấy nghĩa là ghi chép việc ác để răn người sau, đặt tên là sách Đào ngột.
Xuân thu = sách sử nước Lỗ, chép thời sự trong hàng năm, năm có bốn mùa, cho
nên tóm tắt gọi là sách Xuân thu. Ba tên sách trên này đều là một hạng sách sử.
其事則齊桓、晉文,其文則史。孔子曰:『其義則丘竊取之矣。』」
Kỳ sự, tắc Tề
Hoàn Tấn Văn, kỳ văn tắc sử. Khổng tử viết: Kỳ nghĩa tắc Khâu thiết thủ chi hĩ.
Dịch nghĩa: Sách Xuân thu, việc thì là
việc vua Tề Hoàn vua Tấn Văn, văn thì là văn sử quan nước Lỗ. Ông Khổng có nói
rằng: Còn cái nghĩa thưởng thiện phạt ác, thì Khâu này trộm lấy ra mà sửa định
đấy vậy.
Chú giải: Đây là nói ông Khổng làm ra
kinh Xuân thu, có ngụ ý khen chê để khuyên răn về đời sau, để nối lấy đạo thống
của quần thánh.
XXII
孟子曰:「君子之澤,五世而斬;小人之澤,五世而斬。
Mạnh tử viết:
Quân tử chi trạch, ngũ thế nhi trảm; tiểu nhân chi trạch, ngũ thế nhi trảm; tiểu
nhân chi trạch, ngũ thế nhi trảm.
Dịch nghĩa:Thầy Mạnh nói rằng: Cái di
trạch của người quân tử đến năm đời thì hết; cái di trạch của người bình dân,
cũng đến năm đời thì hết.
Chú giải: Quân tử = người có ngôi vị mà
làm nên sự nghiệp. Trạch = ơn trạch, trỏ về cái đức nghiệp lưu truyền để lại về
sau. Thế = Một thời kỳ của cha con nối nhau là một thế, hoặc ba mươi năm cũng
là một thế. Tiểu nhân = người bình dân mà có làm nên đức nghiệp. Trảm = tuyệt.
Đây là nói đại khái cái di phong dư vận
của một đời người quân tử hay bình dân đều đến năm đời là hết, là bởi cái lý thế
sở tất nhiên.
予未得為孔子徒也,予私淑諸人也。」
Dư vị đắc vi
Khổng tử đồ dã; dư tư thục chư nhân dã.
Dịch nghĩa: Ta chưa được thụ nghiệp của
ông Khổng mà làm học trò ông Khổng vậy; nhưng di trạch hãy còn, ta còn trộm
nghe đạo ông Khổng ở người, mà tự sửa lấy mình ta vậy.
Chú giải: Thực = thiện, hay sửa mình
cho hay. Tư thục = học riêng mà nghe lỏm lấy điều hay. Ông Mạnh sinh sau ông Khổng
vào khoảng chửa được trăm năm, thì chưa đến năm đời, nên còn được nghe lỏm ở học
trò thầy Tử Tư mà học lấy đạo Khổng. Đây là thầy Mạnh kể ra tự mình tư thục mà
đương lấy trách nhiệm đạo thống để nối ông Khổng
XXIII
孟子曰:「可以取,可以無取,取傷廉。可以與,可以無與,與傷惠。可以死,可以無死,死傷勇。」
Mạnh tử viết:
Khả dĩ thủ, khả dĩ vô thủ, thủ, thương liêm. Khả dĩ dữ, khả dĩ vô dữ, dữ,
thương huệ. Khả dĩ tử, khả dĩ vô tử, tử, thương dũng.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh tử nói rằng:
Trong khi vật còn chưa lấy, có lẽ nên lấy, có nên không lấy, thế mà lấy, là hại
đến điều liêm. Trong khi đem vật cho người, có lẽ nên cho, có lẽ nên không cho,
thế mà cho, là hại đến điều huệ. Trong khi gặp sự nguy nạn, có lẽ nên chết, có
lẽ nên không chết, thế mà chết, là hại đến điều dũng.
Chú giải: Liêm = thanh liêm, không cẩu
thả lấy cái vật gì của người. Huệ = ơn huệ, đem cái vật của mình làm ơn cho người.
Dũng = hăng hái, khi lâm nguy chịu hi sinh tính mệnh của mình. Đây là nói gặp
việc lưỡng khả (nên với không nên) thì nên tinh thẩm về nghĩa trung dung mà tự
xử đoán, không nên tham là hại đến điều liêm, thì là bất cập; cũng không nên
quá cao mà hại đến điều huệ điều dũng thì là thái quá, đều không phải nghĩa
trung dung
XXIV
逢蒙學射於羿,盡羿之道,思天下惟羿為愈己,於是殺羿。孟子曰:「是亦羿有罪焉。」公明儀曰:「宜若無罪焉?」曰:「薄乎雲爾,惡得無罪?
Bàng Mông học
xạ ư Nghệ, tận Nghệ chi đạo; tư thiên hạ duy Nghệ vi dũ kỷ, ư thị sát Nghệ. Mạnh
tử viết: Thị diệc Nghệ hữu tội yên. Công Minh Nghi viết: Nghi nhược vô tội yên.
Viết: Bạc hồ vân nhĩ, ô đắc vô tội.
Dịch nghĩa: Ngươi Bàng Mông học bắn ở
ngươi Nghệ, tính hết được thuật ngươi Nghệ; nghĩ rằng thiên hạ chỉ ngươi Nghệ
là hơn mình, rồi thì giết ngươi Nghệ, để một mình hiển cái tái bắn. Thầy Mạnh
phán đoán sự ấy rằng: Ấy chẳng những ngươi Mông có tội về hại thầy, cũng là tại
ngươi Nghệ có tội (về chẳng biết chọn học trò mà dạy vậy). Xưa ông Công Minh
Nghi có nói rằng: Ngươi Nghệ dường như không có tội. Công Minh Nghi nói thế, là
cho rằng tội ngươi Nghệ hơi nhẹ hơn tội ngươi Mông đó thôi; ngươi Nghệ sao được
là không có tội.
Chú giải: Nghệ = vua nước Hữu cùng, cướp
ngôi nhà Hạ mà tự lập. Bàng Mông = kẻ gia chúng của ngươi Nghệ. Bạc = nhẹ, hơi
một chút, là nói cũng có một chút tội.
鄭人使子濯孺子侵衛,衛使庾公之斯追之。子濯孺子曰:『今日我疾作,不可以執弓,吾死矣夫!』問其仆曰:『追我者誰也?』其仆曰:『庾公之斯
也。』曰:『吾生矣。』其仆曰:『庾公之斯,衛之善射者也,夫子曰「吾生」,何謂也?』曰:『庾公之斯學射於尹公之他,尹公之他學射於我。夫尹公之他,端人也,其取友必端矣。』庾公之斯至,曰:『夫子何為不執弓?』曰:『今日我疾作,不可以執弓。』曰:『小人學射於尹公之他,尹公之他學射於夫子。我不忍以夫子之道,反害夫子。雖然,今日之事,君事也,我不敢廢。』抽矢叩輪,去其金、發乘矢而後反。」
Trịnh nhân sử
Tử Trạc Nhụ tử xâm Vệ, Vệ sử Dữu Công Chi Tư truy chi. Tử Trạc Nhụ Tử viết: Kim
nhật ngã tật tác, bất khả dĩ chấp cung, ngô tử hỹ phù? Vấn kỳ bộc viết: Truy
ngã giả thuỳ dã? Kỳ bộc viết: Dữu Công Chi Tư dã. Viết: Ngô sinh hĩ. Kỳ bộc viết:
Dữu Công Chi Tư dã. Viết: Ngô sinh hĩ. Kỳ bộc viết: Dữu Công Chi Tư Vệ chi thiện
xạ giả dã, phu tử viết ngô sinh, hà vị dã?. Viết: Dữu Công Chi Tư học xạ ư Doãn
Công Chi Ta, Doãn Công Chi Tha học xạ ư ngã; phù Doãn Công Chi Tha đoan nhân
dã, kỳ thủ hữu tất đoan hỹ. Dữu Công Chi Tư chi, viết: Phu tử hà vi bất chấp
cung? Viết: Kim nhật ngã tật tác, bất khả dĩ chấp cung. Viết: Tiểu nhân học xạ
ư Doãn Công Chi Tha, Doãn Công Chi Tha học xạ ư phu tử; ngã bất nhẫn dĩ phu tử
chi đạo phải hại phu tử. Tuy nhiên, kim nhật chi sự quân sự dã, ngã bất cảm phế.
Trừu thỉ khấu luân khử kỳ kim, phát thặng thỉ nhi hậu phản.
Dịch nghĩa: Người nước Trịnh sai ngươi
Tử Trạc Nhụ Tử sang xâm lấn nước Vệ, nước Vệ sai ngươi Dữu Công Chi Tư đi đuổi
đánh quân Trịnh. Tử Trạc Nhụ Tử than rằng: Ngày nay ta tật bệnh nổi lên, không
thể cầm được cái cung, ta dễ thường đến chết chăng? Nhụ Tử hỏi người ngự xe rằng:
Kẻ đuổi đánh ta là ai? Người ngự xe đáp rằng: Dữu Công Chi Tư đấy. Nhụ Tử nói rằng:
Ta có phần sống vậy. Người ngự xe nói rằng:
Dữu Công Chi Tư là kẻ bắn giỏi ở nước Vệ vậy, nhà thầy lại bảo rằng ta có phần
sống, là cớ sao?. Nhụ tử nói rằng: Ngươi Dữu Công Chi Tư học nghề bắn ở ngươi
Doãn Công Chi Tha, ngươi Doãn Công Chi Tha học nghề bắn ở ta; ôi, Doãn Công Chi
Tha là người đoan chính, kén học trò mà dạy, học trò tất cũng đoan chính vậy. Kịp
Dữu Công Chi Tư đuổi đến nơi, hỏi rằng: Nhà thầy cớ sao chẳng cầm cái cung? Nhụ
Tử đáp rằng: Ngày nay tôi tật bệnh nổi lên, không thể cầm được cái cung. Dữu
Công Chi Tư nói rằng: Tiểu nhân này học nghề bắn ở thầy Doãn Công Chi Tha, thầy
Doãn Công Chi Tha học nghề bắn ở nhà thầy, tôi chẳng nỡ đem cái thuật của nhà
thầy lại làm hại nhà thầy. Tuy vậy, việc ngày nay là việc nhà vua sai đi đuổi
giặc, tôi chẳng dám bỏ mệnh vua, Dữu Công Chi Tư bèn rút cái tên gõ vào bánh
xe, bỏ cái mũi nhọn bằng sắt đi, bắn ra bốn cái tên không, rồi mới trở về.
Chú giải: Doãn Công Chi Tha = là người
nước Vệ, Bộc = kẻ ngự xe. Tiểu nhân = lời tự khiêm. Thặng = Cỗ, số bốn là một cỗ,
như cỗ ngựa cỗ xe; đây dùng nghĩa là bốn. Chương này, đoạn trên là phán đoán tội
ngươi Nghệ, không biết chọn học trò mà dạy. Đoạn dưới là thuật việt ngươi Tử Trạc
Nhụ Tử, hay kén được người học trò đoan chính mà dạy, để rõ ra rằng người ta trong
khoảng thầy trò bè bạn, nên chọn lấy người đoan chính mà giao du
XXV
孟子曰:「西子蒙不潔,則人皆掩鼻而過之。
Mạnh tử viết:
Tây tử mông bất khiết, tắc nhân giai yểm tị nhi quá chi.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Đẹp như
nàng Tây tử mà mang đội cái chức dơ bẩn, thì người ta đều bưng mũi mà đi qua.
Chú giải: Tây tử = tây thi, có tiếng là
đàn bà đẹp. Đây là răn người bỏ mất điều thiện, cũng như người đẹp mà đội dơ bẩn
thì còn ai buồn nhìn.
雖有惡人,齋戒沐浴,則可以祀上帝。」
Tuy hữu ác
nhân, trai giới mộc dục, tắc khả dĩ tự thượng đế.
Dịch nghĩa: Dẫu có người dung mạo xấu
xi, mà hay trong sạch gội tắm, thì có thể thờ tế đấng Thượng đế được. Chú giải:
Đây là khuyên người cố sửa mình mà làm điều thiện, thì cũng như người xấu mà
hay trai khiết, thì tế trời cũng hưởng
XXVI
孟子曰:「天下之言性也,則故而已矣。故者,以利為本。
Mạnh tử viết:
Thiên hạ chi ngôn tính dã, tắc cố nhi dĩ hĩ; cố giả dĩ lợi vi bản.
Dịch âm: Thầy Mạnh nói rằng: Thiên hạ
bàn về tính, chỉ xét về cái dấu vết dĩ nhiên thì đã rõ rồi; cái dấu vết dĩ
nhiên ấy, chỉ lấy cái lẽ thuận lợi tự nhiên làm cốt
Chú giải: Tính cái lễ người với vật bẩm
thụ ở trời mà sinh ra. Cổ = sẵn cũ, là nói về cái tính đã phát hiện ra tình người
ta, ai cũng có thể nghiệm mà biết được, tức là cái dấu vết dĩ nhiên. Lợi = thuận,
tức là cái thế tự nhiên. Đây là nói thiên hạ bàn tính chỉ cứ nghiệm về cái tích
dĩ nhiên thì rõ, chứ không phải bàn xuyên tạc lắm.
所惡於智者,為其鑿也。如智者,若禹之行水也,則無惡於智矣。禹之行水也,行其所無事也。如智者亦行其所無事,則智亦大矣。
Sở ố ư trí giả,
vị kỳ tạc dã. Như trí giả nhược Vũ chi hành thuỷ dã, tắc vô ố ư trí hĩ. Vũ chi
hành thuỷ dã, hành kỳ sở vô sự dã. Như trí giả diệc hành kỳ sở vô sự, tắc trí
diệc đại hĩ.
Dịch nghĩa: Ghét về điều tiểu trí ây,
vì nó làm xuyên tạc chẳng thuận cái lẽ tự nhiên. Nếu người trí giả xử sự cứ thuận
chiều như vua vũ khơi nước cho nước đi, thì không ghét gì điều trí vậy. Vua Vũ
xưa kia khoi nước cho nước đi, chỉ thuận cái thế tự nhiên của nước, làm ra một
cách vô sự mà thôi. Nếu người dụng trí cũng bắt chước vua Vũ làm một cách vô sự,
thì đại trí cũng lớn bằng vua Vũ vậy.
Đây là nói kẻ dụng trí xuyên tạc là bởi
không biết cái tính vốn tự nhiên; nếu hay theo lẽ tự nhiên mà làm, thì thực là
thuận lợi, mà vô sự như vua Vũ trị thuỷ vậy
天之高也,星辰之遠也,茍求其故,千歲之日至,可坐而致也。」
Thiên chi cao
dã, tinh thần chi viễn dã; cẩu cầu kỳ cố, thiên tuế chi nhật chí, khả toạ nhi
trí dã.
Dịch nghĩa: Trời kia rất cao, ngôi sao
kia rất xa; nếu cầu lấy cái dấu vết dĩ nhiên, thì dẫu cái độ nhật chí khoảng
nghìn năm lâu dài về trước, có thể ngồi đấy mà suy tính được vậy.
Chú giải: Nhật chí = ngày đông chí, nhà
làm lịch lấy nửa đêm khắc đông chí ngày giáp tý sóc tháng mười một đời thượng cổ,
làm cái độ khởi nguyên cho phép làm lịch. Đây là nói cứ cầu lấy cái dấu vết dĩ
nhiên mà suy tính, thì dẫu nghìn năm lâu dài về trước, còn có thể suy tính được;
nữa là sự vật gần gặn ở trước mặt, há lại chẳng nên cầu lấy cái lẽ tự nhiên mà
làm, can gì phải dụng trí xuyên tạc làm gì, mà làm hại mất cả bản tính đi, thì
lại là người bất trí.
XXVII
公行子有子之喪,右師往吊。入門,有進而與右師言者,有就右師之位而與右師言者。
Công Hành tử hữu
tử chi tang, Hữu sư vãng điếu, nhập môn, hữu tiến nhi dữ Hữu sư ngôn giả, hữu tựu
Hữu sư chi vị nhi dữ Hữu sư ngôn giả.
Dịch nghĩa: Công hành tử có việc trọng
tang. Thầy Mạnh và các hàng Công Khanh cùng quan Hữu sư phụng mệnh vua đến viếng
thăm; sau khi vào cửa, có kẻ tiến mời quan Hữu sư lại ngôi mình mà cùng quan hữu
sư nói chuyên, có kẻ tới lại ngôi quan Hữu sư mà cùng quan Hữu sư nói chuyện.
Chú giải: Công Hành tử = quan Đại phu
nước Tề. Hữu tử chi tang = Mình là con hiếu có trọng tan. Hữu sư = chức của
Vương Hoan, là kẻ tiểu nhân có quyền thế.
孟子不與右師言,右師不悅曰:「諸君子皆與驩言,孟子獨不與驩言,是簡驩也。」
Mạnh tử bất dữ
Hữu sư ngôn, Hữu sư bất duyệt viết: Chư quân tử giai dữ Hoan ngôn, Mạnh tử độc
bất dữ hoan ngôn, thị giản hoan dã.
Dịch nghĩa: thầy Mạnh không cùng quan Hữu
sư nói chuyện. Quan Hữu sư không bằng lòng, nói rằng: Chư quân tử đều cùng Hoan
này nói chuyện; chỉ một thầy Mạnh chẳng cùng Hoan này nói chuyện, thế là khinh
Hoan này vậy.
孟子聞之,曰:「禮:朝庭不歷位而相與言,不逾階而相揖也。我欲行禮,子敖以我為簡,不亦異乎?」
Mạnh tử văn
chi, viết: Lễ, triều đình bất lịch vị nhi tương dữ ngôn, bất du giai nhi tương ấp
dã. Ngã dục hành lễ, Tử Ngao dĩ ngã vi giản, bất diệc dị hồ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nghe đấy nói rằng:
Trong lễ: Chốn triều đình không được xâm sang ngôi người khác mà cùng nhau nói
chuyện, không được qua thứ bậc mà cùng nhau vái vậy. Ta muốn thực hành cái lễ ấy,
Tử Ngao lại cho ta là khinh Tử Ngao, chẳng cũng lạ ư!
Chú giải: Lịch vị = bước xâm sang ngôi
thứ người khác. Đây là thầy Mạnh nói tự mình thủ lễ, mà xử với người cũng lấy lễ,
chứ không phải khinh; còn cái ý xa tuyệt kẻ tiểu nhân thì không lộ mà vẫn ngụ ý
ở đó.
XXVIII
孟子曰:「君子所以異於人者,以其存心也。君子以仁存心,以禮存心。
Mạnh tử viết:
Quân tử sở dĩ dị ư nhân giả, dĩ kỳ tồn tâm dã; quân tử dĩ nhân tồn tâm, dĩ lễ tồn
tâm
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Người
quân tử sở dĩ khác với người ấy, vì quân tử giữ toàn được cái tâm vậy; người
quân tử vốn lấy điều nhân giữ ở trong tâm, lấy điều lễ giữ ở trong tâm.
Chú giải: Tồn tâm = giữ gìn để ở trong
tâm mà chẳng trễ chẳng quên. Đây là nói người quân tử vốn lấy lòng trắc ẩn là
nhân, lòng từ nhượng là lễ, giữ ở trong tâm mà không quên, nên mới siêu nhiên
khác kẻ thường.
仁者愛人,有禮者敬人。
Nhân giả ái
nhân, hữu lễ giả kính nhân.
Dịch nghĩa: Người nhân tất là yêu người,
người có lễ tất là kính người.
Chú giải: Đây là nói quân tử đã có đức
nhân đức lễ ở trong tâm, thì thi hành ra tất hay yêu người kính người
愛人者,人恆愛之;敬人者,人恆敬之。
Ái nhân giả,
nhân hằng ái chi; kính nhân giả, nhân hằng kính chi.
Dịch nghĩa: Kẻ yêu người, người thường
yêu lại; kẻ kính người, người thường kính lại.
Chú giải: Đây là nói cái sự hiệu nghiệm
của điều nhân điều lễ, hay được người ta yêu kính lại
有人於此,其待我以橫逆,則君子必自反也:『我必不仁也,必無禮也,此物奚宜至哉?』
Hữu nhân ư thử,
kỳ đãi ngã dĩ hoạnh nghịch; tắc quân tử tất tự phản dã, ngã tất bất nhân dã, tất
vô lễ dã; thử vật hề nghi chí tai?
Dịch nghĩa: Hoặc có người ở đây, đem điều
hoạnh nghịch xử đãi với ta; thì quân tử tất xét mình lại rằng ta tất có điều bất
nhân, tất có điều vô lễ vậy; không thế thì sự hoạnh nghịch ấy làm sao lại đến
ta vậy thay?
Chú giải: Hoạnh nghịch = cường bạo
không thuận lý, Vật = sự vật, trỏ về sự hoạnh nghịch. Đây là nói người quân tử
gặp sự hoạnh nghịch thì hay xét mình lại
其自反而仁矣,自反而有禮矣。其橫逆由是也,君子必自反也:『我必不忠。』
Kỳ tự phản nhi
nhân hĩ, tự phản nhi hữu lễ hĩ, kỳ hoạnh nghịch do thị dã, quân tử tất tự phản
dã, ngã tất bất trung.
Dịch nghĩa: Mình tự xét mình đã nhân rồi,
tự xét mình đã có lễ rồi, mà kẻ hoạnh nghịch kia vẫn còn như vậy; quân tử tất
xét mình rằng ta tất là yêu người kính người chẳng hết lòng.
Chú giải: Trung = hết lòng, Do = còn
自反而忠矣。其橫逆由是也,君子曰:『此亦妄人也已矣。如此則與禽獸奚擇哉?於禽獸又何難焉!』
Tự phản nhi
trung hĩ, kỳ hoạnh nghịch do thị dã; quân tử viết: Thử diệc võng nhân dã dĩ hĩ,
như thử tắc dữ cầm thú hề trạch tai; ư cầm thú, hựu hà nạn yên.
Dịch nghĩa: Tự xét mình đã hết lòng rồi,
mà kẻ hoạnh nghịch kia vẫn còn như thế; quân tử cho rằng người ấy cũng là người
càn đấy thôi vậy, như thế thì cùng với loài cầm thú khác gì đâu, đối với loài cầm
thú, lại so kể gì vậy.
Chú giải: Hề trạch = khác gì, Hà nạn =
Chẳng đủ cùng so kể
是故君子有終身之憂,無一朝之患也。乃若所憂則有之。舜人也,我亦
人也;舜為法於天下,可傳於後世,我由未免為鄉人也,是則可憂也。憂之如何?如舜而已矣。若夫君子所患則亡矣。非仁無為也,非禮無行也。如有一朝之患,則 君子不患矣。」
Thị cố quân tử
hữu chung thân chi ưu, vô nhất chiêu chi hoạn dã. Nãi nhược sở ưu tắc hữu chi:
Thuấn nhân dã, ngã diệc nhân dã; Thuấn vi pháp ư thiên hạ, khả truyền ư hậu thế;
ngã do vị miễn vi hương nhân dã, thị tắc khả ưu dã. Ưu chi như hà? Như Thuấn
nhi dĩ hĩ. Nhược phù quân tử sở hoạn tắc vô hĩ; phi nhân vô vi dã, phi lễ vô
hành dã. Như hữu nhất chiêu chi hoạn, tắc quân tử bất hoạn hĩ.
Dịch nghĩa: Cho nên quân tử chỉ có điều
lo nghĩ suốt đời, chớ không có điều lo sợ trong một sớm. Nay như điều lo nghĩ
thì chỉ nghĩ rằng: Ông Thuấn là người, ta cũng là người; thế mà ông Thuấn hay lấy
điều nhân điều lễ hoá được kẻ hoạnh nghịch, làm phép cho thiên hạ, khá truyền về
đời sau; mà ta còn chửa cảm hoá được kẻ hoạnh nghịch, thế là ta chưa thoát khỏi
là kẻ tầm thường chốn hương thôn, điều ấy là đáng lo nghĩ lắm. Lo nghĩ thì làm
như thế nào? Mong được như ông Thuấn đó mà thôi. Còn như lo sợ, thì quân tử chắc
rằng không vậy; vì quân tử điều phi nhân không làm, điều phi lễ không làm. Phỏng
như có lo sợ về sự hoạnh nghịch trong một sớm, thì quân tử cũng chẳng sợ vậy.
Chú giải: Ưu = lo, là ý lo nghĩ ở
trong. Hoạn = là sợ, là sự sợ hãi ở ngoài. Đây là nói quân tử chỉ để tâm lo
nghĩ về điều nhân điều lễ, sao cho xử hết đạo được như ông Thuấn, chớ không phải
lo sợ gì về sự hoạnh nghịch.
XXIX
禹、稷當平世,三過其門而不入,孔子賢之。
Vũ, Tắc đương
bình thế, tam quá kỳ môn nhi bất nhập. Khổng tử hiền chi.
Dịch nghĩa: Ông Vũ, ông Tắc ở về đời trị,
siêng chăm việc dân việc nước, ba lần qua cửa nhà mình mà chẳng vào. Ông Khổng
tử lấy làm khen.
Chú giải: Vũ, Tắc = đời vua Nghiêu vua
Thuấn, ông Vũ coi việc trị thuỷ, ông Tắc giữ việc dạy dân cày cấy. Đây là thuật
về việc ông Vũ, ông Tắc
顏子當亂世,居於陋巷,一簞食,一瓢飲,人不堪
其憂,顏子不改其樂,孔子賢之。
Nhan tử đương
loạn thế, cư ư lậu hạng, nhất đan tự, nhất bào ẩm, nhân bất kham kỳ ưu, Nhan tử
bất cải kỳ lạc. Khổng tử hiền chi.
Dịch nghĩa: Ông Nhan tử ở về đời loạn, ở
trong ngõ hẹp, một giỏ cơm ăn, một bầu nước uống, người khác chẳng chịu được
cái lo, mà thầy Nhan vẫn chẳng đổi cái vui. Ông Khổng tử cho là hiền mà khen.
Chú giải:Nhan tử = Nhan Hồi, học trò
ông Khổng. Đây là thuật về sự ông Nhan tử
孟子曰:「禹、稷、顏回同
道。
Mạnh tử viết:
Vũ, Tắc, Nhan hồi đồng đạo.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ông Vũ,
ông Tắc, ông Nhan Hồi xuất xứ chẳng đồng, mà đồng về một lẽ phải cả.
Chú giải: Đây là nói ông Vũ, ông Tắc,
ông Nhan một đàng xuất một đàng xử khác nhau, mà ông Khổng đều khen cả, là lấy
rằng tiến lên thì cứu người, thoái về thì sửa mình, hai đàng đều hợp đạo thời
trung cả.
禹思天下有溺者,由己溺之也;稷思天下有饑者,由己饑之也。是以如是其急也。
Vũ tư thiên hạ
hữu nịch giả, do kỷ nịch chi dã; Tắc tư thiên hạ hữu cơ giả, do kỷ cơ chi dã;
thị dĩ như thị kỳ cấp dã.
Dịch nghĩa: Ông Vũ nghĩ rằng thiên hạ
có kẻ chìm đắm, cũng như mình làm cho chìm đắm đấy vậy; ông Tắc nghĩ rằng thiên
hạ có kẻ đói, cũng như mình làm cho đói đấy vậy; cho nên phải cần kíp như thế vậy.
Chú giải: Đây là kể ra cái địa vị ông
Vũ, ông Tắc có chức nhiệm nên phải cần kíp ra cứu đời, để đối chiếu với địa vị
ông Nhan là người không có chức nhiệm, thì có thể ở nhà sửa mình được
禹、稷、顏子易地則皆然。
Vũ, Tắc, Nhan
tử, dịch địa tắc giai nhiên.
Dịch nghĩa: Ông Vũ, ông Tắc với ông
Nhan tử nếu đổi địa vị nhau, thì đều xử được như nhau cả.
Chú giải: Dịch địa giai nhiên = Vũ, Tắc
nếu ở về địa vị Nhan tử, cũng vui được cái vui của Nhan tử; Nhan tử nếu ở về địa
vị Vũ, Tắc cũng lo được cái lo của Vũ, Tắc, thế là nếu đổi địa vị ra đều xử được
như thế cả
今有同室之人鬭者,救之,雖被髪纓冠而救之,可
也。
Kim hữu đồng
thất chi nhân đấu giả, cứu chi, tuy bí phát anh quan nhi cứu chi, khả dã.
Dịch nghĩa: Nay cso người cùng trong một
nhà đánh nhau, mà mình đi cứu, dẫu rằng quấn tóc buộc mũ mà vội đi cứu ngay,
cũng là phải.
Chú giải: Bí phát = quấn tóc, chẳng kịp
búi tóc. Anh = dải mũ, buộc tạm dải mũ, ý nói cần kíp. Đây là nói ví về địa vị
ông Vũ, ông Tắc phải kíp ra cứu đời
鄉鄰有鬭者,被髪纓冠而往救之,則惑也,雖閉戶可也。」
Hương lân hữu
đấu giả, bí phát anh quan nhi vãng cứu chi, tắc hoặc dã; tuy bế hộ, khả dã.
Dịch nghĩa: Người làng người hàng xóm
có kẻ đánh nhau, thế mà vội quấn tóc buộc mũ mà đi cứu đấy thì là lầm; dẫu rằng
đóng cửa không hỏi đến, cũng phải.
Chú giải: Đây là nói ví về địa vị ông
Nhan không có trách nhiệm thì có thể an bần lạc đạo được. Toàn chương này là
nói thánh hiền tâm vẫn giống nhau, dẫu rằng gặp việc khác nhau, mà xử sự đều
đáng lẽ cả
XXX
公都子曰:「匡章,通國皆稱不孝焉。夫子與之游,又從而禮貌之,敢問何也?」
Công đô tử viết:
Khuông Chương, thông quốc giai xưng bất hiếu yên, phu tử dữ chi du, hựu tùng
nhi lễ mạo chi; cảm vấn hà dã?
Dịch nghĩa: Công Đô tử hỏi rằng: Ngươi
Khuông Chương, khắp cả nước đều cho là kẻ bất hiếu, nhà thầy cùng người ấy giao
du, lại lấy lễ mạo mà kính đãi người ấy; dám hỏi là cớ sao? Chú giải: Khuông
Chương = người nước Tề, Lễ mạo = Kính trọng
孟子曰:「世俗所謂不孝者五:惰其四支,不顧父母之養,一不孝也;博弈、好飲酒,不顧父母之養,二不孝也;好貨財、私妻子,不顧父母之養,三不孝也;從耳目之欲,以為父母戮,四不孝也;好勇鬭狠,以危父母,五不孝也。章子 有一於是乎?
Mạnh tử viết
Thế tục sở vị bất hiếu giả ngũ: Noạ kỳ tứ chi, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, nhất bất
hiếu dã. Bác dịch hiếu ẩm tửu, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, nhị bất hiếu dã. Hiếu
hoá tài, tư thê tử, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, tam bất hiếu dã. Tùng nhĩ mục chi
dục, dĩ vi phụ mẫu lục, tứ bất hiếu dã. Hiếu dũng đấu ngận, dĩ nguy phụ mẫu,
ngũ bất hiếu dã. Chương tử hữu nhất ư thị hồ?
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Thế tục
người ta bảo rằng bất hiếu có năm điều: Lười biếng chân tay, chẳng đoái sự nuôi
cha mẹ, là một điều bất hiếu. Đánh bạc đánh cờ, thích uống rượu, chẳng đoái sự
nuôi cha mẹ, là hai điều bất hiếu. Ham của cải, để riêng cho vợ con, chẳng đoái
sự nuôi cha mẹ, là ba điều bất hiếu. Theo sự ham muốn của tai mắt mình, để làm
hổ nhục cho cha mẹ, là bốn điều bất hiếu. Thích mạnh tợn, đánh nhau càn rỡ, để
nguy hiểm đến cha mẹ, là năm điều bất hiếu. Gã Chương tử có phạm một điều gì ở
đó không?
Chú giải: Lục = Nhục nhuốc. Ngận =
ngang trái càn rỡ
夫章子,子父責善而不相遇也。
Phù Chương tử,
tử phụ trách thiện nhi bất tương ngộ dã.
Dịch nghĩa: Ôi, gã Chương tử, chỉ vì
con với cha lấy điều thiện trách móc nhau mà chẳng hợp nhau vậy
責善,朋友之道也。父子責善,賊恩之大者。
Trách thiện, bằng
hữu chi đạo dã. Phụ tử trách thiện, tặc ân chi đại giả.
Dịch nghĩa: Lấy điều thiện trách bảo
nhau, là cái đạo bè bạn vậy; cha con mà lấy điều thiện trách móc nhau, là hại
cho ân tình lớn đấy
夫章子豈不欲有夫妻子母之屬哉?為得罪於父,不得近;出妻屏子,終身不養焉。其設心以為不若是,是則罪之大者。是則章子已矣。」
Phù Chương tử
khởi bất dục hữu phu thê tử mẫu chi thuộc tai; vị đắc tội ư phụ, bất đắc cận;
xuất thê bính tử, chung thân bất dưỡng yên; kỳ thiết tâm dĩ vi bất nhược thị,
thị tắc tội chi đại giả; thị tắc Chương tử dĩ hĩ.
Dịch nghĩa: Ôi, Chương tử há chẳng muốn
có thân thuộc là vợ chồng mẹ con đấy ư; vì đắc tội với cha, chẳng được gần cha;
nên phải rẫy vợ đuổi con, suốt đời chẳng hưởng thụ sự vợ con nuôi; gã ấy nghĩ
trong bụng rằng chẳng làm như thế, thì cái tội mình lại càng thêm lớn; ấy là
cái tình trạng gã Chương tử như thế mà thôi vậy.
Chú giải: Chương này là kể ra cái
nguyên nhân ngươi Chương tử bị tiếng bất hiếu oan, để rõ ra cái ý chí công của
thánh hiền người đời ai cũng ghét, mà thánh hiền tất xét.
XXXI
曾子居武城,有越寇。或曰:「寇至,盍去諸?」曰:「無寓人於我室,毀傷其薪木。」寇退,則曰:「修我墻屋,我將反。」寇退,曾子反。左右
曰:「待先生如此其忠且敬也,寇至則先去以為民望,寇退則反,殆於不可。」沈猶行曰:「是非汝所知也。昔沈猶有負芻之禍,從先生者七十人,未
有與焉。」
Tăng tử cư Vũ
thành, hữu Việt khấu. Hoặc viết: Khấu chí, hạp khứ chư? Viết: Vô ngụ nhân ư ngã
thất, huỷ thương kỳ tân mộc. Khấu thoái, tắc viết: Tu ngã tường ốc, ngã tương
phản. Khấu thoái, Tăng tử phản. Tả hữu viết: Đãi tiên sinh như thử kỳ trung thả
kính dã; khấu chi tắc tiên khứ dĩ vi dân vọng; khấu thoái tắc phản; đãi ư bất
khả. Thẩm Do Hành viết: Thị phi nhữ sở tri dã, tích Thẩm Do hữu phụ sô chi hoạ,
tùng tiên sinh giả thất thập nhân, vị hữu dự yên.
Dịch nghĩa: Ông Tăng tử ở đất Vũ thành,
có giặc nước việt. Hoặc kẻ bảo rằng: Giặc đến, sao chẳng lánh đi? Ông Tăng tử
nghe lời ra đi, dặn kẻ giữ nhà rằng: Chớ cho người khác trọ ở nhà ta, làm huỷ
hoại cây cối của ta. Giặc lui, thì ông Tăng tử bảo kẻ giữ nhà rằng: Sửa lại tường
nhà ta, ta sắp sửa về. Kịp khi giặc đã lui, ông Tăng tử trở về. Kẻ tả hữu trong
bọn học trò bàn riêng với nhau rằng: Người Vũ thành phụng đãi thầy ta trung
thành và cung kính như vậy; giặc đến, thì thầy ta đi trước để làm đầu nêu cho
dân; giặc lui thì về ở; dường như chẳng nên như thế. Người Thẩm Do có cái loạn
kẻ phụ sô, cũng như giặc Việt ngày nay; thế mà kẻ theo thầy ta khi ấy bảy mươi
người, chưa có một người nào dự về nạn ấy.
Chú giải: Dân vọng = khiến dân trông đó
làm nêu mà bắt chước. Thẩm Do Hành = học trò thầy mạnh. Đãi = chỉnh, nghĩa là
dường như. Phụ sô = bọn kẻ đội củi. Đây là thuật về sự ông Tăng tử tránh nạn,
ông Tăng tử ở đất Vũ thành và ở họ Thẩm Do, đều là ở về địa vị làm thầy làm
khách, nên không cần phải tử nạn
子思居於衛,有齊寇。或曰:「寇至,盍去諸?」子思曰:「如汲去,君誰與守?」
Tử Tư cư ư Vệ,
hữu Tề khấu, hoặc viết: Khấu chí, hạp khứ chư? Tử Tư viết: Như cấp khứ, quân
thuỳ dữ thủ?
Dịch nghĩa: Ông Tử Tư ở nước Vệ, có giặc
nước Tề. Hoặc kẻ bảo rằng: Giặc đến, sao chẳng tránh đi? Ông Tử Tư nói rằng: Nếu
Cấp này đi, thì vua cùng với ai giữ nước?
Chú giải: Đây là thuật về sự ông Tử Tư
theo giữ lúc hoạn nạn, vì Tử Tư ở nước Vệ, ở vè địa vị kẻ làm tôi, nên phải
đành chịu theo về nạn nước.
孟子曰:「曾子、子思同道。曾子師也,父兄也;子思臣也,
微也。曾子、子思易地則皆
然。」
Mạnh tử viết:
Tăng Tử, Tử Tư đồng đạo. Tăng Tử sư dã, phụ huynh dã; Tử Tư thần dã, vi dã.
Tăng Tử, Tử Tư dịch địa tắc giai nhiên.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ông
Tăng Tử, ông Tử Tư sự chẳng đồng, mà đồng đạo phải cả. Vì Tăng Tử là địa vị thầy,
địa vị cha anh; Tử Tư là địa vị làm tôi, địa vị bề dưới. Ông Tăng Tử, ông Tử Tư
nếu thay đổi địa vị nhau, thì đều xử được như nhau cả.
Chú giải: Đây là thầy Mạnh phán đoán về
sự hai ông: Tăng Tử nếu xử về địa vị Tử Tư cũng biết giữ theo nạn; Tử Tư nếu xử
về địa vị Tăng Tử cũng biết tránh nạn; giá đổi địa vị ra cũng xử được như thế cả,
cũng đều tuỳ thời mà xử cho hợp đạo.
XXXII
儲子曰:「王使人瞷夫子,果有以異於人乎?」孟子曰:「何以異於人哉?堯舜與人同耳。」
Trừ tử viết:
Vương sử nhân gián phu tử, quả hữu dĩ dị ư nhân hồ? Mạnh tử viết: Hà dĩ dị ư
nhân tai, Nghiêu Thuấn dữ nhân đồng nhĩ.
Dịch nghĩa: Người Trừ tử nói rằng: Vua
sai người dòm nhà thầy xem quả có cái gì khác với người không? Thầy Mạnh nói rằng:
Ta có khác gì người đâu, đến như vua Nghiêu vua Thuấn cùng với người ta cũng
cùng một hình ấy tính ấy mà thôi.
Chú giải: Gián = dòm lén không cho biết.
XXXIII
齊人有一妻一妾而處室者,其良人出,則必饜酒肉而後反。其妻問其所與飲食者,則盡富貴也。其妻告其妾曰:「良人出,則必饜酒肉而後反;問其與飲食者,盡富貴也,而未嘗有顯者來。吾將瞷良人之所之也。」早起,施從良人之所之遍。國中無與立談者。卒之東郭墦間之祭者,乞其餘;不足,又顧而之他此其為饜足之道也。其妻歸,告其妾曰:「良人者,所仰望而終身也。今若此!」與其妾訕其良人而相泣於中庭。而良人未之知也,施施從外來,驕其妻妾。
Tề nhân hữu nhất
thê nhất thiếp nhi xử thất giả, kỳ lương nhân xuất, tắc tất yếm tửu nhục nhi hậu
phản. Kỳ thê vấn sở dữ ẩm thực giả, tắc tận phú quý dã. Kỳ thê cáo kỳ thiếp viết:
Lương nhân xuất tắc tất yếm tửu nhục nhi hậu phản, vấn kỳ dữ ẩm thực giả, tận
phú quý dã, nhi vị thường hữu hiển giả lai, ngô tương gián lương nhân chi sở
chi dã. Tảo khởi, thí tùng lương nhân chi sở chi, biến quốc trung vô dữ lập đàm
giả; tốt chi đông quách phần gian chi tế giả, khất kỳ dư, bất túc, hựu cố nhi
chi tha, thử kỳ vi yếm túc chi đạo dã. Kỳ thê quy, cáo kỳ thiếp viết: Lương
nhân giả, sở ngưỡng vọng nhi chung thân dã, kim nhược thử! Dữ kỳ thiếp xán kỳ
lương nhân nhi tương khấp ư trung đình. Nhi lương nhân vị chi tri dã, thi thi
tùng ngoại lai, kiêu kỳ thê thiếp.
Dịch nghĩa: Người nước Tề có kẻ có một
vợ cả và một vợ lẽ mà cùng ở một nhà, người chồng đi ra ngoài thì tất say no rượu
thịt rồi mới về. Vợ cả hỏi chồng cùng với những người nào ăn uống, thì nói rằng
hết thảy là những người phú quý cả. Người vợ cả đem lòng ngờ mà bảo riêng với vợ
lẽ rằng: Chồng ta đi ra ngoài, thì tất say no rượu thịt rồi mới về, hỏi cùng với
những người nào ăn uống thì nói rằng hết thảy là những người phú quý, mà chưa từng
có kẻ hiển giả nào lại chơi, ta sắp sửa đi dòm chồng ta đi những ….
由君子觀
之,則
人之所以求富貴利達者,其妻妾不羞也而不相泣者,幾希矣。
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét