孟子
1.梁惠王上
|
2.梁惠王下
|
3.公孫丑上
|
4.公孙丑下
|
5.滕文公上
|
6.滕文公下
|
7.離婁上
|
8.離婁下
|
9.萬章上
|
10.萬章下
|
11.告子上
|
12.告子下
|
13.盡心上
|
14.盡心下
|
孟子/梁惠王上 LƯƠNG HUỆ VƯƠNG THƯỢNG .
一
孟子見梁惠王。王曰:「叟!不遠千里而來,亦將有以利吾國乎?」
Mạnh Tử kiến Lương Huệ vương. Vương
viết: Tẩu! Bất viễn thiên lý nhi lai, diệc tương hữu dĩ lợi ngô quốc hồ?
孟子對曰:「王!何必曰利?亦有仁義而已矣。
王曰:『何以利吾國?』大夫曰:『何以利吾家?』士庶人曰:『何以利吾身?』上下交征利而國危矣。
Mạnh Tử đối viết:
Vương! Hà tất viết lợi?
Vương viết: hà dĩ lợi ngô quốc, đại phu viết: hà dĩ lợi ngô
gia, sĩ thứ dân viết: hà dĩ lợi ngô thân. Thượng hạ giao chinh lợi nhi quốc
nguy hĩ .
萬乘之國,弒其君者,必千乘之家;千乘之國,弒其君者,必百乘之家。萬取千焉,千取百焉,不為不多矣。苟為後義而先利,不奪不饜。
Vạn thặng chi quốc,
thí kỳ quân giả, tất thiên thặng chi gia; thiên thặng chi quốc, thí kỳ quân giả tất bách thặng chi gia. Vạn thủ thiên yên, thiên thủ bách yên, bất
vi bất đa. Cẩu vi hậu nghĩa nhi vi tiên
lợi, bất đoạt bất yếm .
未有仁而遺其親者也,未有義而後其君者也。
王亦曰仁義而已矣,何必曰利?」
Vị hữu nhân nhi di kỳ
thân giả dã, vị hữu nghĩa nhi hậu kỳ vương giả dã. Vương diệc viết nghĩa nhi dĩ hĩ, hà tất viết lợi?
二 孟子見梁惠王。王立於沼上,顧鴻雁麋鹿,曰:「賢者亦樂此乎?」
Mạnh tử kiến Lương Huệ vương. Vương lập ư chiểu thượng, cố hồng
nhạn mi lộc , viết: hiền giả diệc lạc thử
hồ ?
Mạnh tử vào gặp Lương Huệ vương. Vương đứng trên hồ bán nguyệt
ngắm nghía lũ chim hồng chim nhạn, dõi theo bầy hươu nai đông đúc vui đùa, nói:
Bậc hiền giả cũng thích thú chốn này ư ?
孟子對曰:「賢者而後樂此,不賢者雖有此,不樂也。
Mạnh tử đối viết: hiền giả nhi hậu lạc thử, bất hiền giả tuy
hữu thử, bất lạc dã.
詩云:『經始靈台,經之營之,庶民攻之,不日成之。經始勿亟,庶民子來。王在靈囿,麀鹿攸伏,麀鹿濯濯,白鳥鶴鶴。王在靈沼,於牣魚躍。』
Thi vân: “Kinh thủy linh đài, kinh chi doanh chi, thứ
dân công chi, bất nhật thành chi. Kinh thủy vật khí, thứ dân tử lai. Vương tại
linh hựu, ưu lộc du phục, ưu lộc trạc trạc, bạch điểu hạc hạc. Vương tại linh
chiểu, ư nhận ngư dược”
文王以民力為台為沼,而民歡樂之,謂其台曰靈台,謂其沼曰靈沼,樂其有麋鹿魚鱉。
Văn vương dĩ dân lực
vi đài, vi chiểu, nhi dân hoan lạc chi, vi kỳ đài viết linh đài, vi kỳ chiểu viết
linh chiểu , lạc kỳ hữu mi lộc ngư miết .
古之人與民偕樂,故能樂也。湯誓曰:『時日害喪,予及女皆亡。』民欲與之偕亡,雖有台池鳥獸,豈能獨樂哉?」
Cổ chi nhân dữ dân
giai lạc, cố năng lạc dã. Thang thệ viết: thì nhật hại tang, dư cập nhữ giai
vong. Dân dục dữ chi giai vong, tuy hữu đài trì điểu thú, khải
năng độc lạc tai?
三
梁惠王曰:「寡人之於國也,盡心焉耳矣。河內凶,則移其民於河東,移其粟於河內;河東凶亦然。察鄰國之政,無如寡人之用心者。鄰國之民不加少,寡人之民不加多,何也?」
Lương Huệ vương viết:
Quả nhân chi ư quốc dã, tận tâm
yên nhĩ hĩ. Hà nội hung, tắc di kỳ dân ư Hà đông, di kỳ túc ư Hà nội. Hà đông hung diệc nhiên.
Sát lân quốc chi chính, vô như quả nhân chi dụng tâm giả.
Lân quốc chi dân bất gia thiểu, quả nhân
chi dân bất gia đa, hà dã ?
孟子對曰:「王好戰,請以戰喻。填然鼓之,兵刃既接,棄甲曳兵而走。或百步而後止,或五十步而後止;以五十步笑百步,則何如?」
Mạnh tử đối viết:
Vương hiếu chiến, thỉnh dĩ chiến dụ. Điền nhiên cổ chi, binh nhận ký tiếp,
khí giáp nhuệ binh nhi tẩu. Hoặc bách bộ nhi hậu chỉ, hoặc ngũ thập bộ nhi hậu
chỉ; dĩ ngũ thập bộ tiếu bách bộ, tắc hà như?
曰:「不可,直不百步耳,是亦走也。」
Viết : Bất khả, trực
bất bách bộ nhĩ, thị diệc tẩu dã .
曰:「王如知此,則無望民之多於鄰國也。」
Viết : Vương như tri thử, tắc vô vọng dân chi đa ư lân quốc
dã .
「不違農時,穀不可勝食也;數罟不入洿池,魚鱉不可勝食也;斧斤以時入山林,材木不可勝用也。穀與魚鱉不可勝食,林木不可勝用,是使民養生喪死無憾也。養生喪死無憾,王道之始也。
Bất vi nông thì, cốc bất khả thăng thực dã; xúc (sác) cổ bất
nhập ô trì, ngư miết (biết) bất khả thăng thực dã; phủ cân dĩ thì nhập
sơn lâm, tài mộc bất khả thăng dụng dã. Cốc dữ ngư miết bất khả thăng thực, tài
mộc bất khả thăng dụng, thị sử dân dưỡng sinh tang tử vô hám dã. Dưỡng sinh
tang tử vô hám, vương đạo chi thủy dã .
「五畝之宅,樹之以桑,五十者可以衣帛矣;雞豚狗彘之畜,無失其時,七十者可以食肉矣;百畝之田,勿奪其時,數口之家可以無饑矣;謹庠序之教,申之以孝悌之義,頒白者不負戴於道路矣。七十者衣帛食肉,黎民不饑不寒,然而不王者,未之有也!
Ngũ mẫu chi trạch, thụ chi dĩ tang, ngũ thập giả khả dĩ ý bạch
hĩ; kê đồn cẩu trệ chi súc, vô thất kỳ
thì, thất thập giả khả dĩ thực nhục hĩ. Bách mẫu chi điền, vật đoạt kỳ thì, sổ khẩu chi gia khả dĩ vô cơ hĩ; cẩn tường tự chi giáo,
thân chi dĩ hiếu đễ chi nghĩa, ban bạch
giả bất phụ đới ư đạo lộ hĩ. Thất thập
giả ý bạch thực nhục, lê dân bất cơ bất hàn, nhiên nhi bất vượng giả, vị chi hữu
dã.
狗彘食人食而不知檢,塗有餓莩而不知發,人死,則曰:非我也,歲也。是何異於刺人而殺之,曰:非我也,兵也。王無罪歲,斯天下之民至焉。
Cẩu trệ thực nhân thực nhi bất tri kiểm, đồ hữu ngạ biểu nhi
bất tri phát, nhân tử, tắc viết: Phi ngã dã, tuế dã. Thị hà dị ư thích nhân nhi
sát chi, viết: phi ngã dã, binh dã. Vương vô tội tuế, tư thiên hạ chi dân chí
yên
四
梁惠王曰:「寡人願安承教。」
Lương Huệ vương viết: Quả nhân nguyện yên thừa giáo
Lương Huệ vương nói: Quả
nhân xin nguyện nghe lời chỉ bảo .
孟子對曰:「殺人以梃與刃,有以異乎?」
Mạnh tử đối viết: Sát nhân dĩ đĩnh dữ nhận, hữu dĩ dị hồ ?
Mạnh tử trả lời rằng: giết người bằng gậy với giết người bằng
dao nhọn, có gì khác không ?
曰:「無以異也。」
Viết: vô dĩ dị dã .
Đáp: không có gì khác .
「以刃與政,有以異乎?」
Dĩ nhận dữ chính, hữu
dĩ dị hồ ?
Giết người bằng dao với
giết người bằng chính sự tàn bạo có gì khác không ?
曰:「無以異也。」
Viết: vô dĩ dị dã. Đáp:
không có gì khác.
曰:「庖有肥肉,廄有肥馬,民有饑色,野有餓莩,此率獸而食人也。
Viết: bào hữu phì nhục,
cứu hữu phì mã, dân hữu cơ sắc, dã hữu cơ biễu, thử suất thú nhi thực nhân dã
Nói: Nhà vua bếp thì đầy
thịt ngon, ngựa béo đầy chuồng, trong khi
dân thì vàng võ, hình dung tiều tụy vì đói ăn rõ trên nét mặt, thôn dã mất
mùa, người chết đói nơi đồng vắng, làm nên cảnh thú hoang ăn thịt người vậy.
獸相食,且人惡之;為民父母,行政,不免於率獸而食人。惡在其為民父母也?仲尼曰:『始作俑者,其無後乎!』為其像人而用之也。如之何其使斯民饑而死也?」
Thú tương thực, mục nhân ố chi; vi dân phụ mẫu, hành chính,
bất miễn ư suất thú nhi thực nhân. Ác tại
kỳ vi dân phụ mẫu dã ? Trọng Ni viết:
“thủy tác dũng giả, kỳ vô hậu hồ”. Vi kỳ tượng nhân nhi dụng chi dã. Như
chi khả kỳ sử tư dân cơ nhi tử dã?
Cầm thú ăn thịt lẫn nhau, mọi
người còn căm ghét; làm cha mẹ của dân, thi hành chính sự, mà không tránh được cho dân khỏi chết
đói bị thú hoang ăn thịt, như vậy có phải điều tàn ác đến từ bậc cha mẹ của dân
không ? Trọng Ni nói: những kẻ làm điều tàn ác thì sẽ tuyệt tự không nối dõi được
tông đường. Để dân đói khổ mà chết bị
thú hoang ăn thịt há không phải tàn ác sao? Vì bởi nhà vua dùng những kẻ hình
người dạ thú trong việc cai trị. Cai trị
thế nào để đến nỗi dân đói mà chết vậy?
五
梁惠王曰:「晉國,天下莫強焉,叟之所知也。及寡人之身,東敗於齊,長子死焉;西喪地於秦七百里;南辱於楚。寡人恥之,願比死者壹灑之,如之何則可?」
Lương Huệ vương viết: Tấn quốc, thiên hạ mạc cường yên, dữ
chi sở tri dã. Cập quả nhân chi thân, đông bại ư Tề, trưởng tử tử yên; Tây táng
địa ư Tần thất bách lý; Nam nhục ư Sở. Quả nhân sỉ chi, nguyện tỷ tử giả nhất tẩy
(sái) chi, như chi hà tắc khả?
孟子對曰:「地,方百里而可以王。王如施
仁政於民,省刑罰,薄稅斂,深耕易耨;壯者以暇
日修其孝悌忠信,入以事其父兄,出以事其長
上,可使制梃以撻秦楚之堅甲利兵矣。
Mạnh tử đối viết: Địa, phương bách lý khả dĩ vương. Vương
như thi nhân chính ư dân, tỉnh hình phạt, bạc thuế liễm, thâm canh dị nậu;
tráng giả dĩ hạ nhật tu kỳ hiếu đễ trung
tín, nhập dĩ sự kỳ phụ huynh, xuất dĩ sự kỳ trưởng thượng, khả sử chế đĩnh dĩ
thát Tần Sở chi kiên giáp lợi binh hĩ. 「彼奪其民時,使不得耕耨以養其父母。父母凍餓,兄弟妻子離散。彼陷溺其民,王往而征之,夫誰與王敵?故曰:『仁者無敵。』王請勿疑!」
Bỉ đoạt kỳ dân thời,
sử bất đắc canh nậu dĩ dưỡng kỳ phụ mẫu. Phụ mẫu đống ngạ, huynh đệ phu tử li
tán. Bỉ hãm nịch kỳ dân, Vương vãng nhi chinh chi, phù thùy dữ vương địch? Cố
viết: Nhân giả vô địch. Vương thỉnh vật nghi.
六
孟子見梁襄王,出,語人曰:「望之不似人君,就之而不見所畏焉。卒然問曰:『天下惡乎定?』
Mạnh tử kiến Lương Huệ vương, xuất, ngữ nhân viết: Vọng chi
bất tự nhân quân, tựu chi nhi bất kiến sở
úy yên. Thốt nhiên vấn viết: Thiên hạ ô hồ định?
「吾對曰:『定於一。』
Ngô đối viết: định ư nhất
「『孰能一之?』
Thục năng nhất chi?
「對曰:『不嗜殺人者能一之。』
Đối viết: bất thị sát
nhân giả năng nhất chi .
Dịch nghĩa: vua hỏi ai hay
thống nhất được? Ta thưa rằng ông vua không hay giết người thì thống nhất được
Chú giải: Thị = là thích, là
ưa muốn, Bất thị sát nhân = Không thích giết người, là nói ông vua có nhân đức
biết thương dân
「『孰能與之?』
Thục năng dữ
chi ?
「對曰:『天下莫不與也。王知夫苗乎?七
八月之間旱,則苗槁矣。天油然作雲,沛然下雨,
則苗浡然興之矣。其如是,孰能御之?
Đối viết: Thiên hạ mạc
bất dữ dã. Vương tri phu miêu hồ? Thất bát nguyệt chi gian hạn, tắc miêu kiều
hĩ. Thiên do nhiên tác vũ, phái nhiên hạ vũ, tắc miêu bột nhiên dư chi hĩ. Kỳ
như thị, thục năng ngự chi.
今夫天下之人牧,未有不嗜殺人者也。如有不嗜殺人者,則天下之民皆引領而望之矣。誠如是也,民歸之,由水之就下,沛然誰能御之?』」
Kim phu thiên hạ chi
nhân mục, vị hữu bất thị sát nhân giả dã. Như hữu bất thị sát nhân giả,
tắc thiên hạ chi dân giai dẫn lĩnh nhi vọng chi hĩ. Thành như thị dã, dân quy
chi, do thủy chi tựu hạ, phái nhiên thùy năng ngự chi?
Dịch nghĩa: “Vua lại hỏi: Ai
chịu theo về với mình? – Ta lại thưa rằng: Thiên hạ chẳng ai là chẳng theo về
mình. Vua biết giống lúa mạ không? Khoảng tháng bảy, tháng tám nắng thì lúa
khô, trời mà đùn đùn bốc mây, ào ào đổ mưa, thì lúa mơn mởn tốt bật ngay lên,
như thế thì, ai có thể ngăn lại được. Này như các ông nhân mục trong thiên hạ đời
nay, chưa có ông nào là chẳng thích giết người. Nếu có ông vua nào không thích
giết người thì dân thiên hạ đều nghển cổ mà mong cả đó, thật như thế vậy, dân
theo về, cũng như nước chảy xuống chỗ trũng, ầm ầm đổ xuống, ai ngăn lại được”
Chú giải:Dữ = cũng như chữ
qui, nghĩa là theo về, Du nhiên = Dáng mây đùn. Bái nhiên = dáng mưa đổ xuống
và nước chảy mạnh. Bột nhiên = Dáng lúa bốc tốt lên. Mục = nghĩa là chăn nuôi.
Nhân mục cũng như nhân quân, là trỏ người chăn nuôi nhân dân.
Đây là nói tình người ta ai
là chẳng yêu sự sống, ghét sự chết, nếu đương đời Chiến quốc tranh giết nhau
như thế, mà có ông vua nào biết thương người xuất hiện ra, thì thiên hạ người
ta đều bằng lòng mà theo về cả, ví như lúa khô gặp mưa, nước chảy chỗ trũng, thật
là cái thế rất mạnh, mà cũng là cái lẽ tự nhiên.
七
齊宣王問曰:「齊桓、晉文之事可得聞乎?」
Tề tuyên vương vấn viết: Tề Hoàn, Tấn văn chi sự hà khả đắc
văn hồ?
Dịch nghĩa: Tuyên
vương nước Tề hỏi rằng: Những việc vua Hoàn nước Tề; vua Văn nước Tấn, có thể
nói cho nghe được không?
Chú giải: Tề Hoàn, Tấn
Văn = đời Xuân Thu có năm ông vua thay đổi nhau làm bá trưởng chư hầu. Tề Hoàn
công, Tấn Văn công Tống tương công, Tần Mục công và Sở Trang vương, gọi là năm
đời bá, duy có Tề Hoàn, Tấn văn là công nghiệp lừng lẫy hơn cả
孟子對曰:「仲尼之徒,無道桓、文之事者,是以後世無傳焉;臣未之聞也。無以,則王乎?」
Mạnh Tử đối viết: Trọng Ni chi đồ, vô đạo Hoàn, văn chi sự
giả, thị dĩ hậu thế vô truyền yên; thần vị chi văn dã. Vô dĩ, tắc vượng hồ?
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh
thưa: “Môn đồ ông Trọng Ni không nói đến sự vua Hoàn vua Văn, bởi thế đời sau
không thấy truyền lại, sự đó tôi chưa được nghe. Vua muốn cho tôi nói nữa, thì
nói cái đạo vượng thiên hạ được không
Chú giải: Thống trị
thiên hạ là vượng. Tôn hiện ba đời vua: Hạ, Thơng, Châu là đời tam vương. Đây
nên để nguyên âm là vương, để trái với đạo bá của Tề Hoàn, Tấn Văn. Ý là nói
không thôi thì nói đạo vương, chứ không bàn đạo bá
Trọng Ni = tên tự đức Khổng
phu tử, đạo = nói Dĩ 以= thông dụng với
chữ dĩ nghĩa là thôi. Vô dĩ nói nữa không thôi
曰:「德何如則可以王矣?」
Viết: Đức hà như tắc
khả dĩ vượng hĩ?
曰:「保民而王,莫之能禦也。」
Viết: Bảo dân nhi vượng,
mạc chi năng ngự dã.
Dịch nghĩa: Vua hỏi: “Đức ông vua như thế nào thì vượng
được thiên hạ”
- “Đức ông vua hay biết giữ gìn được dân, thì cái thế
vượng thiên hạ, không ai ngăn được”
Chú giải: Bảo= Giữ gìn, chữ bảo gồm có bốn nghĩa: bảo
dưỡng, bảo toàn, bảo tuất và bảo hộ. Ngữ = Ngăn lại, chống lại
曰:「若寡人者,可以保民乎哉?」
Viết: Nhược quả nhân
giả, khả dĩ bảo dân hồ tai ?
曰:「可。」
Viết: Khả .
曰:「何由知吾可也?」
Viết: Hà do tri ngô khả dã ?
曰:臣聞之胡齕曰,王坐於堂上,有牽牛而過堂下者,王見之,曰:牛何之
Viết: Thần văn chi Hồ Hột viết, vương tọa ư đường thượng, hữu
khiên ngưu quá đường hạ giả , viết: ngưu hà chi
?
對曰:『將以釁鐘。』王曰:『舍之!吾不忍其觳觫,若無罪而就死地。』
Đối viết: Tương dĩ hấn chung. Vương viết: Xả chi! Ngô bất
nhẫn kỳ hộc tốc , nhược vô tội nhi tựu tử địa
對曰:『然則廢釁鐘與?』曰:『何可廢也?以羊易之!』—不識有諸?」
Đối viết: Nhiên tắc
phế hấn chung dư? Viết: Hà khả phế dã? Dĩ dương dịch chi! - bất thức hữu chư?
Dịch nghĩa: vua hỏi
Như cái đước quả nhân này đủ giữ giàn được dân không
- Thầy nói Được, Vua hỏi
Bởi sao biết tôi có thể được. Thầy nói: Tôi có nghe ngươi Hồ hột nói chuyện với
tôi rằng: “Một hôm, vua ngồi ở trên thềm, có đứa dắt trâu đi ở dưới thềm. Vua
trông thấy, vua hỏi: Dắt trâu đi đâu? Đứa dắt trâu thưa: Toan đem giết nó để lấy
máu bôi chuông. Vua nói: Tha nó ra, ta không nỡ trông thấy nó hộc tốc, bằng dường
vô tội mà phải tới chỗ chết. Đứa dắt trâu thưa: Thế thì bỏ việc bôi chuông ư?
Vua nói: Sao bỏ được, đem dê thay cho nó. Chẳng biết chuyện ấy có chăng
Chú giải: Hồ Hột =
quan nước Tề, Hấn = chỗ nứt nẻ. Chuông mới đúc nhiều chỗ nứt nẻ phải dùng máu
loài súc sinh để bôi vào cho liền. Hộc tốc = nhơ nhác run sợ. Đây là thầy Mạnh
thuật lại lời Hồ Hột nói chuyện với mình mà hỏi lại vua
曰:「有之。」
Viết: hữu chi .
曰:「是心足以王矣。百姓皆以王為愛也。臣固知王之不忍也。」
Viết: Thị tâm túc dĩ vượng hĩ. Bách tính giai dĩ vương vị ái
dã. Thần cố tri vương chi bất nhẫn dã.
Dịch nghĩa: Vua nói
Chuyện ấy có – Thầy nói Cái lòng bất nhẫn ấy đủ vượng được thiên hạ. Bách tính
đều cho vua là tiếc của đấy, tôi thực biết vua là bất nhẫn vậy
Chú giải: Bách tính=
trăm họ, là trỏ nhân dân, Ái = nghĩa là tiếc.
王曰:「然;誠有百姓者。齊國雖褊小,吾何愛一牛?即不忍其觳觫,若無罪而就死地,故以羊易之也。」
Vương viết: Nhiên, thành hữu bách tính giả. Tề quốc tuy biển
tiểu, ngô hà ái nhất ngưu ? Tức bất nhẫn kỳ hộc tốc, nhược vô tội nhi tựu tử địa,
cố dĩ dương dịch chi dã.
Dịch nghĩa: Vua nói: “
Phải! Thực có như lời bách tính họ chê đó, nhưng nước Tề tuy nhỏ hẹp, ta có tiếc
gì một con trâu. Chỉ là không nỡ trông thấy nó hộc tốc bằng dường vô tội mà tới
chỗ chết, cho nên bảo đem con dê thay cho nó đấy thôi”
曰:「王無異於百姓之以王為愛也。以小易大,彼惡知之?王若隱其無罪而就死地,則牛羊何擇焉?」
王笑曰:「是誠何心哉?我非愛其財而易之以羊也。宜乎百姓之謂我愛也。
Viết: Vương vô dị ư bách tính chi dĩ vương vi ái dã. Dĩ tiểu dịch đại, bỉ ô tri
chi? Vương nhược ẩn kỳ vô tội nhi tựu tử địa,
tắc ngưu dương hà trạch yên.
Vương tiếu viết: Thị thành hà tâm tai? Ngã phi ái kỳ tài nhi
dịch chi dĩ dương dã. Nghi hồ bách tính
chi vị ngã ái dã.
Dịch nghĩa: Thầy nói:
“Vua cũng chẳng lạ gì bách tính họ cho vua là tiếc của, vì đem con nhỏ thay con
lớn, họ biết đâu là vì bụng bất nhẫn. Vua nếu thương nó vô tội mà tới chỗ chết,
thì con trâu con dê khác gì nhau” Vua cười mà rằng: Chẳng hay lúc ây bụng ta
nghĩ sao? Nếu ta không phải là tiếc của, thì sao lại đổi ra con dê, bách tính họ
bảo ta là tiếc, cũng phải
Chú giải: Ẩn = Thương
xót, trạch = Phân biệt, Hà trạch = Không phân biệt gì.
Đây là Thầy Mạnh cố đặt
ra lời biện nạn muốn để cho vua tự xét hỏi lại bản thân, nhưng vua chưa tự giải
rõ ra được.
曰:「無傷也,是乃仁術也,見牛未見羊也。君子之於禽獸也,見其生,不忍見其死;聞其聲,不忍食其肉。是以君子遠庖廚也。」
Viết: vô dương dã, thị cập nhân thuật dã, hiện ngưu vị hiện
dương dã. Quân tử chi ư cầm thú dã, kiến kỳ sinh bất nhẫn kiến kỳ tử. Văn kỳ
thanh, bất nhẫn thực kỳ nhục. Thị dĩ quân tử viễn bào trù dã.
Dịch nghĩa: Thầy nói:
Không hại gì, ấy chính là cái mẹo làm nhân đó, bởi vì trông thấy con trâu chửa
trông thấy con dê vậy. Người quân tử xử với loài cầm thú, trông thấy nó sống
không nỡ trông thấy nó chết, nghe tiếng nó kêu không nỡ ăn thịt nó, cho nên
quân tử thường xa nơi lò bếp vậy
Chú giải: Thuật = Mẹo
khôn khéo. Gặp việc khó xử thì phải có mẹo để xử trí sao cho toàn, mà vẫn không
hại đến việc làm nhân. Đây là thầy Mạnh nói giải cái lẽ thay trâu ra dê không
phải là tiếc của. Bởi vì trông thấy trâu, thì cái lòng bất nhẫn đã phát hiện ra
rồi, dê chưa trông thấy thì cái lòng bất nhẫn chưa hiện, thế thì tha cho trâu
là đạt được lòng nhân; mà dê dẫu bị giết cũng không hại gì lòng bất nhẫn, ấy
chính là cái mẹo khéo khôn trong sự làm nhân đó. Người quân tử sở dĩ thường xa
nơi lò bếp không muốn trông thấy những sự sát sinh, là để bảo dưỡng lấy cái
lòng bất nhẫn, mà mở rộng ra cái thuật làm nhân vậy.
王說曰:《詩》云:『他人有心,予忖度之。』夫子之謂也。夫我乃行之,反而求之,不得吾心。夫子言之,於我心有戚戚焉。此心之所以合於王者,何也?」
Vương thuyết viết: Thi vân: Tha nhân hữu tâm, dư thốn đạc
chi. Phu tử chi vị dã. Phù ngã cập hành chi, phản nhi cầu chi, bất đắc ngô tâm.
Phu tử ngôn chi, dư ngã tâm thích thích yên. Thử tâm chi sở dĩ hiệp ư vương giả,
hà dã?
Dịch nghĩa: Vua hả
lòng, mà rằng: “Kinh thi có câu: “Cái tâm người khác, ta hay lường đạc” Nhà thầy
chính như thế đấy. Này như sự ta làm ra đó, mà ta xét lại tâm ta, ta không tự
giải ra được. Nay thầy nói rõ ra, tự nhiên cái lòng bất nhẫn của ta, lại sinh
ra áy náy cảm động nhưng cái lòng ấy sở dĩ hợp với cái lẽ vượng thiên hạ được,
là sao vậy.
Chú giải: Thi = Thơ xảo
ngôn thiên Tiểu nhã. Thỗn đạc = suy lường đo xét. Thích thích = Áy náy thương
xót
曰:「有復於王者曰:『吾力足以舉百鈞,而不足以舉一羽;明足以察秋毫之末,而不見輿薪。』則王許之乎?」
曰:「否。」
「今恩足以及禽獸,而功不至於百姓者,獨何與?然則一羽之不舉,為不用力焉;輿薪之不見,為不用明焉;百姓之不見保,為不用恩焉。故王之不王,不為也,非不能也。」
Viết: Hữu phục ư vương giả viết: ngô lực túc dĩ cử bách
quân, nhi bất túc dĩ cử nhất vũ; minh
túc dĩ sát thu bạc chi mạt, nhi bất kiến dữ tân. Tắc vương hứa chi hồ ? Viết: Phủ.
Kim ân túc dĩ cập cầm thú, nhi công bất chí ư bách tính giả,
độc hà dư? Nhiên tắc nhất vũ chi bất cử, vi bất dụng lực yên; dư tân chi bất kiến,
vị bất dụng minh yên; bách tính chi bất kiến bảo, vị bất dụng ân yên; cố vương
chi bất vượng, bất vi dã, phi bất năng dã”
Dịch nghĩa: Thầy nói:
Có kẻ tâu với vua rằng: “Tôi cái sức có thể nhắc nổi trăm quân, mà không có thể
nhắc nổi một cái lông; cái sáng có thể xét thấu ngọn lông mùa thu, mà không
trông thấy cái xe củi” Thì vua tin lời ấy không?” Vua nói “Không” Thầy nói: Nay
vua ơn đủ kịp đến con cầm con thú, mà công đức chẳng gia được đến bách tính, là
tại sao? Thế thì một cái lông chẳng nhắc nổi là vì chẳng dùng sức đấy; cái xe củi
chẳng trông thấy, là vì chẳng dùng sáng đấy; bách tính mà không giữ gìn được là
vị chẳng dùng ơn đấy; cho nên vua chẳng vượng được thiên hạ, là chẳng chịu làm
đấy không phải là chẳng làm được đâu”
Chú giải: Phục, nghĩa
là tâu. Quân, ba mươi cân là một quân; trăm quân là cái vật rất nặng khó nhắc.
Vũ = Lông, một cái lông là cái vật rất nhẹ dễ nhắc. Phàm lông đến mùa thu thì
nó tước nhỏ ra, nên gọi là thu hao. Mạt = Ngọn, vút ngọn cái lông mùa thu là
cái vật rất nhỏ khó trông thấy. Dư tân = cái xe chở củi, là cái vật lớn dễ
trông thấy. Hứa =tin cho, nghĩa là cho lời ấy là phải mà khá tin
Phàm người ta ai cũng
có cái lòng thương xót; duy thương xót dân là đồng loại thì thuộc về phần thiết
và dễ; thương xót vật là dị loại thì thuộc về phần hoãn và khó. Nay vua biết
thương đến con trâu, mà không biết thương đến trăm họ; không phải vua là người
không có ân, chỉ vì vua không chịu suy quảng cái ân để thực hành lấy sự nhân đó
thôi; khác nào những người không chịu dùng cái sáng, thì không trông thấy cái
xe củi.
曰:「不為者與不能者之形何以異?」
曰:「挾太山以超北海,語人曰,『我不能。』是誠不能也。為長者折枝,語人曰,『我不能。』是不為也,非不能也。故王之不王,非挾太山以超
北海之類也;王之不王,是折枝之類也。
Viết: Bất vi giả dữ bất năng giả chi hình hà dĩ dị?
Viết: Hiệp Thái sơn dĩ siêu Bắc hải, ngữ nhân viết: ngã bất
năng. Thị thành bất năng dã. Vi trường giả chiết chi, ngữ nhân viết ngã bất
năng. Thị bất vi dã, phi bất năng dã. Cố vương chi bất vương, phi hiệp Thái sơn
dĩ siêu Bắc hải chi loại dã; Vương chi bất vương, thị chiết chi chi loại dã .
Dịch nghĩa: Vua hỏi:
“Cái hình trạng chẳng chịu làm vơi cái hình trạng chẳng làm được nó khác nhau
thế nào?” Thầy nói “Như cái việc cắp núi Thái sơn để vượt bể bắc, bảo người rằng:
Tôi không làm được, sự đó thực là không làm được. Vì trên bẻ cành cây, bảo người
rằng: Tôi không làm được, sự đó là chẳng chịu làm đấy, không phải là không làm
được đâu. Cho nên vua chẳng vượng được thiên hạ, không phải là cái loài cắp núi
vượt bể đâu; vua chẳng vượng được, là cái loài bẻ cành cây đấy
Chú giải: Đây là kể ra
hai cái hình trạng, một cái là sự rất khó và một sự rất dễ, để rõ ra cái hình
trạng không làm được, và cái hình trạng làm được mà không chịu làm
「老吾老,以及人之老;幼吾幼,以及人之幼,天下可運於掌。《詩》云:『刑於寡妻,至於兄弟,以御於家邦。』言舉斯心加諸彼而已。故推恩足以
保四海,不推恩無以保妻子。古之人所以大過人者,無他焉,善推其所為而已矣。今恩足以及禽獸,而功不至於百姓者,獨何與?」
Lão ngô lão, dĩ cập
nhân chi lão; ấu ngô ấu, dĩ cập nhân chi ấu, thiên hạ khả vận ư chưởng. Thi
vân: Hình ư quả thê, chí ư huynh đệ, dĩ ngự ư gia bang. Ngôn cử tư tâm gia chư
bỉ nhi dĩ. Cố thôi ân túc dĩ bảo tứ hải, bất thôi ân vô dĩ bảo thê tử. Cổ chi
nhân sở dĩ đại quá nhân giả, vô tha yên, thiện thôi kỳ sở vi nhi dĩ hĩ. Kim ân
túc dĩ cập cầm thú, nhi công bất cập bách tính giả, độc hà dư?
Dịch nghĩa: “Kính người
già mình, suy ra để kịp đến kẻ già của người; nuôi trẻ mình, suy ra để kịp đến
trẻ của người; làm thế thì việc trong thiên hạ có thể vận dụng ở bàn tay. Kinh
Thi có nói: “Làm phép cho quả thê trước, rồi đến người anh em, sau thống trị cả
đến nhà nước”. Là nói đem cái lòng nhân ái nọ mà thi ra đến người kia đấy thôi.
Cho nên biết suy ân ra thì có thể giữ gìn được bốn bể; không biết suy ân ra thì
không giữ gìn được vợ con. Các vua đời xưa, công nghiệp sở dĩ hơn người ấy, có
cớ gì khác đâu, chỉ khéo suy cái ơn của mình làm ra đấy thôi. Nay vua, ân đủ kịp
đến chim muông, mà công đức chẳng gia được đến trăm họ, là tại sao?
Chú giải: Kinh thi là
thơ Tư trai thiên Đại nhã. Hình = khuôn phép, Quả thê = người vợ kém đức, là
cái lời khiêm xưng vợ mình Ngự = Thống trị.
Tiết này là nói cái lẽ
làm nhân, phải do từ mối thân – thân là yêu người đồng bào thân hơn trước, rồi
mới kịp đến mối nhân dân là yêu người đồng loại, lại suy rộng ra nữa mới đến
yêu vật; đó là thi ân có thứ tự, tự gần mà dễ trước rồi mới đến xa mà khó sau.
Nay Tuyên vương trái mất lẽ ấy, cho nên ân cần với cầm thú thì có, mà công với
bách tính thì không
「權,然後知輕重;度,然後知長短。物皆然,心為甚。王請度之!」
Quyền, nhiên hậu tri khinh trọng, đạc nhiên hậu tri trường
đoản. Vật năng nhiên, tâm vi thậm. Vương
thỉnh đạc chi.
Dịch nghĩa: Cân lên rồi
mới biết nhẹ nặng, thước đo rồi mới biết dài ngắn; phàm vật gì cũng vậy, cái
tâm lại càng nên cân đo lắm. Xin vua cân đo lấy.
Chú giải: Quyền=cái quả
cân. Độ = cái mực đo, như từng trượng từng thước, vv. Đạc = đo, lượng đạc, gồm
cả nghĩa cân đo
Đây nói cái tâm người
ta, khi ứng ra mọi việc cũng có mối nhẹ nặng, có mối ngắn dài, cốt xử làm sao
cho đều đặn, cho có thứ tự, mà không sai, thế thì lại cần phải cân phản đo hơn
là các thứ vật, phải nhờ cái cân cái thước vô hình, là cái lẽ chính đáng đương
nhiên, mà cân nhắc đo lường thì mới biết được. Nay Tuyên vương cái lòng yêu vật
thì nặng và dài, mà cái lòng yêu dân thì nhẹ và ngắn, thế là vua làm sai cái trật
tự đương nhiên, nên phải khuyên vua đem cái cân cái thước vô hình ra để mà cân
đo lấy cái tâm vậy.
「抑王興甲兵,危士臣,構怨於諸侯,然後快於心與?」
Ức vương dữ giáp binh, nguy sĩ thần, cấu oán ư chư hầu,
nhiên hậu khoái ư tâm dư?
Dịch nghĩa: Hay là vua
muốn động việc giáp binh, làm nguy cho kẻ võ thần chiến sĩ, gây oán với các nước
chư hầu, rồi mới sướng lòng vua dư?
王曰:「否!吾何快於是?將以求吾所大欲也。」
曰:「王之所大欲,可得聞與?」王笑而不言。
Vương viết: Phủ, ngô hà khoái ư thị? Tương dĩ cầu ngô sở đại
dục dã. Viết: Vương chi sở đại dục, khả đắc văn dư? Vương tiếu nhi bất ngôn.
Dịch nghĩa: Vua rằng:
Không, ta sướng gì những điều ấy, toan để cầu những điều đại dục của ta đấy
thôi
曰:為肥甘不足於口與,輕暖不足於體與?抑為采色不足視於目與?聲音不足聽於耳與?便嬖不足使令於前與?王之諸臣,皆足以供之,而王豈為是哉?」
曰:「否!吾不為是也。」
曰:「然則王之大欲可知已,欲闢土地,朝秦楚,蒞中國而撫四夷也。以若所為,求若所欲,猶緣木而求魚也。」
Viết: Vi phì cam bất túc ư khẩu dư, khinh noãn bất túc ư thể dư? Ức vi thái ấp
bất túc thị ư mục dư? Thanh âm bất túc thính ư nhĩ dư? Tiện bế bất túc sử lệnh
ư tiên dư? Vương chi chư thần, năng túc
dĩ cung chi, nhi vương khởi vi thị tai?
Viết: Phủ! Ngô bất vi thị dã. Viết:
Nhiên tắc vương chi đại dục khả tri dĩ, dục tịch điền địa, triều Tần Sở, lị
Trung quốc nhi phủ tứ Di dã. Dĩ nhược sở vi, cầu nhược sở dục, do duyên mộc nhi
cầu ngư dã
Dịch nghĩa: Thầy nói:
Những điều vua đại dục, có thể được nghe chăng? Vua cười mà không nói. Thầy
nói: Vì đồ ngon béo chẳng đủ thích ở miệng chăng? Đồ nhẹ ấm chẳng đủ thích ở
thân chăng? Hay là đồ thái sắc chẳng đu coi ở mắt chăng? Đồ thanh âm chẳng đủ
nghe ở tai chăng? Kẻ hầu hạ chẳng đủ sai khiến ở trước mặt chăng? Chư thần nhà
vua đều đủ cung vua cả, vua há vì những điều ấy đâu”. Vua rằng: “Không, ta chẳng
vì những điều đó”. Thầy nói: Thế thì những điều đại dục của vua tôi biết rồi,
là muốn mở mang thổ địa, bắt nước Tần nước sở lại chầu, ngự lâm trung quốc mà vỗ
về cả tứ di đấy. Đem điều sở vi thế nọ, cầu điều sở dục thế kia, khác nào như
leo cây mà tìm cá vậy”
Chú giải: Biền bế= Những
kẻ hầu hạ thân yêu, tịch = mở rộng, lị = trị vì, ngự lâm. Tứ di = các rợ ở bốn
phương. Sở vi = Trỏ những điều hưng động giáp binh … Sở dục=Trỏ những điều mở
mang, thổ địa … Leo cây tìm cá = Thí dụ cái lẽ không thể nào được
王曰:「若是其甚與?」
曰:「殆有甚焉。緣木求魚,雖不得魚,無後
災;以若所為,求若所欲,盡心力而為之,後必有災。」
曰:「可得聞與?」
曰:「鄒人與楚人戰,則王以為孰勝?」
曰:「楚人勝。」
曰:「然則小固不可以敵大,寡固不可以敵眾,弱固不可以敵強。海內之地方千里者九,齊集有其一。以一服八,何以異於鄒敵楚哉?蓋亦反其本矣。
Vương viết: Nhược thị kỳ thậm dư ?
Viết: Đãi hữu thậm
yên. Duyên mộc cầu ngư, tuy bất đắc ngư, vô hậu tai; Dĩ nhược sở vi, cầu nhược sở dục, tận tâm lực
nhi vi chi, hậu tất hữu tai. Viết: Khả đắc văn dư? Viết: Trâu nhân dữ Sở nhân
chiến, tắc vương dĩ vi thục thắng? Viết: Sở nhân thắng. Viết: nhiên tắc tiểu cố
bất khả dĩ địch đại, quả cố bất khả dĩ địch chúng, nhược cố bất khả dĩ địch cường.
Hải nội chi địa phương thiên lý giả cưu, Tề tập hữu kỳ nhất. Dĩ nhất phục bát,
hà dĩ dị ư Trâu địch Sở tai? Cái diệc phản kỳ bản hĩ.
Dịch nghĩa: Vua nói:
“Thậm đến như thế dư?” Thầy nói: “Lại còn thậm tệ hơn nữa, leo cây tìm cá, tuy
chẳng được cá, không hại gì về sau. Nếu đem điều sở vi thế nọ, cầu điều sở dục
thế kia, hết lòng hết sức mà làm, về sau chắc có hại” vua hỏi: “Cái hại có thể
được nghe chăng?” Thầy hỏi: “Người nước châu đánh nhau với người nước Sở, thì
vua cho là bên nào được”? Vua nói: “Người nước Sở được”. Thầy nói: “Thế thì nước
nhỏ vẫn không địch được nước lớn, nước ít người vẫn không địch được nước nhiều
người, nước yếu vẫn không địch được nước mạnh. Hiện nay đất trong thiên hạ
vuông nghìn dặm có chín phần, nước Tề hợp cả lại mới được có một phần, nước Tề
hợp cả lại mới được có một phần; đem một phần ít chinh phục tám phần, có khác gì
lấy nước Châu địch với nước Sở đâu, thôi cũng nên cầu lại điều gốc là hơn.
Chú giải: Châu, Sở là
tên hai nước ở về đời Chiến quốc, Châu là nước nhỏ, Sở là nước lớn
「今王發政施仁,使天下仕者皆欲立於王之朝,耕者皆欲耕於王之野,商賈皆欲藏於
王之市,行旅皆欲出於王之途,天下之欲疾其君者皆欲赴愬於王。其若是,孰能御之?」
Kin vương phát chính ư nhân, sử thiên hạ sĩ giả giai dục lập
ư vương chi triều, canh giả giai dục
canh ư vương chi dã, thương cổ giai dục tàng ư vương chi thị, hành lữ giai dục xuất ư vương chi đồ, thiên hạ chi dục tật
kỳ quân giả giai dục phó tố ư vương. Kỳ
nhược thị, thục năng ngự chi?
Dịch nghĩa: “Nay vua
phát ra chính lệnh để thi hành nhân ân; khiến cho thiên hạ kẻ làm quan đều muốn
đứng ở triều vua; kẻ đi cày đều muốn cày ở đồng vua; kẻ thường cổ đều muốn chứa
của ở chợ vua; kẻ hành lữ đều muốn đi ra ở đường vua; trong thiên hạ những người
họ ghét vua họ đều muốn đến kêu với vua, nếu đã như thế, ai hay ngăn lại được”
Chú giải: Thương = Vận
của đi buôn bán mọi nơi gọi là thương. Cổ = chứa hàng hoá ở một chỗ để bán gọi
là cổ. Hành lữ = Hành khách đi đường. Phó tố = đến kêu cầu. Đây nói nhân chính
là cái gốc để vượng thiên hạ, vua có nhân chính thì kẻ gần yêu, kẻ xa cũng mến,
thiên hạ người ta quy phụ cả, những điều mình sở dục, không phải cầu mà tự
nhiên được, còn cái thế lực lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, có kể chi.
王曰:「吾惛,不能進於是矣。願夫子輔吾志,明以教我。我雖不敏,請嘗試之。」
Vương viết: Ngô hôn, bất năng tiến ư thị hĩ. Nguyện phu tử bổ
ngô chí, minh dĩ giáo ngã. Ngã tuy bất mẫn, thỉnh thường thí chi
Dịch nghĩa:Vua nói:
“Ta tư chất tối tăm, chưa có thể tiến ngay lên đạo ấy được, xin nhà thầy giúp
chí ta, rõ ràng bảo ta; ta tuy chẳng siêng xin cũng thử làm
曰:「無恆產而有恆心者,惟士為能。若民,則無恆產,因無恆心。苟無恆心,放辟邪侈無不為已。及陷於罪,然後從而刑之,是罔民也。焉有仁人在位罔民而可為也?
Viết: vô hằng sản nhi vô hằng tâm giả, duy sĩ vi năng. nhược
dân, tắc vô hằng sản, nhân vô hằng tâm. Cẩu vô hằng tâm, phóng tích tà xỉ vô bất
vi dĩ. Cập hãm ư tội nhiên hậu tùng nhi hình chi, thị võng dân dã. Yên hữu nhân
nhân tại lập võng dân nhi khả vi dã?
Dịch nghĩa: Thầy nói:
“Không nghiệp thường mà có lòng thường ấy, chỉ người sĩ là được thế thôi; đến
như dân mà không có nghiệp thường, rồi vì đó không lòng thường, rồi vì đó không
lòng thường; nếu không lòng thường, thì dông dài càn giở, điều gì là chẳng dám
làm; đến lúc mắc phải tội, lại liền theo mà bắt tội, thế là đánh lưới dân đấy.
Có lẽ đâu người nhân làm vua, lại chịu làm cái sự lừa dân mắc lưới đó.
Chú giải: Hằng = thường,
hằng sảng = cái sinh nghiệp làm ăn thường. Hằng tâm = cái thiện tâm người ta sẵn
có. Sĩ = Những người có học vấn biết nghĩa lý, Phóng tích = Dông giỡ cong queo,
Tà xỉ = Mếch lệch càn giở, võng = tức là la võng nghĩa là lưới là ý lừa dân mắc
lưới.
Đây là nói nuôi dân mà
không cho có nghiệp thường thì là làm hãm hại dân đó.
是故明君制民之產,必使仰足以事父母,俯足以畜妻子,樂歲終身飽,凶年免於死亡;然後驅而之善,故民之從之也輕。
Thị cố minh quân chế dân
chi sản, tất sử ngưỡng túc dĩ sự phụ mẫu, phủ túc dĩ súc thê tử, lạc tuế
chung thân bão, hung niên miễn ư tử vong; nhiên hậu khu nhi chi thiện, cố dân
chi tùng chi dã khinh.
Dịch nghĩa: Cho nên đấng
minh quân đặt ra những cách thường sản cho dân, phải khiến cho dân trôn lên đủ
để cung cha mẹ, cúi xuống đủ để nuôi vợ con; năm được mùa suốt đời ăn no, năm mất
mùa khỏi đến nỗi chết đói, rồi mới xua bảo dân đi làm điều thiện, thời dân theo
về đường thiện đó dễ
Chú giải: Đây là nói
nuôi dân cho có hằng sản thì dân mới giữ được hằng tâm
「今之制民之產,仰不足以事父母,俯不足以畜妻子;樂歲終身苦,凶年不免於死亡。此惟救死而恐不贍,奚暇治禮義哉?
Kim nhật chế dân chi sản, ngưỡng bất túc dĩ sự phụ mẫu, phủ
bát túc dĩ súc thê tử; lạc tuế chung thân khổ, hung niên bất miễn ư tử vong. thử
duy cứu tử nhi
khủng bất thiệm, hề hạ trị lễ nghĩa tai?
Dịch nghĩa: Nay đặt ra
những cách thường sản cho dân, trông lên không đủ để cung cha mẹ, cúi xuống
không đủ để nuôi vợ con, năm được mùa vẫn suốt đời khổ sở, năm mất mùa thì chết
đói ngay, thế thì dân còn lo về cứu sự chết không xong, còn lúc nào rỗi rãi mà
sửa sang lễ nghĩa nữa.
Chú giải: Thiệm cũng
như chữ Túc nghĩa là đủ. Bất thiệm = Không đủ, không xong. Trì = sự gì còn
đương sửa sang là trì, sự gì đã thành hiệu rồi gọi là trị.
Đây là nói dân đã
không có hằng sản thì khó lòng giữ được hằng tâm. 「王欲行之,則盍反其本矣
Vương dục hành chi, tắc hạp phản kỳ bản hĩ:
Dịch nghĩa: Vua muốn
thực hành cái đạo bảo dân, thì sao chẳng trở lại mà cầu lấy điều gốc đó.
Chú giải: Điều gốc =
trỏ những điều đặt ra cho dân có thường sản tức là gốc việc nhân chính đó 五畝之宅,樹之以桑,五十者可以衣帛矣。雞豚狗彘之畜,無失其時,七十者可以食肉矣。百畝之田,勿奪其時,八口之家可以無饑矣。謹詳序之教,申之以孝悌之義,頒白者不負戴於道路矣。老者衣帛食肉,黎民不饑不寒,然而不王者,未之有也。」
ngũ mẫu chi trạch, thụ chi dĩ tang, ngũ thập giả dĩ ý bạch
hĩ. Kê đồn cẩu trệ chi súc, vô thất kỳ thời, thất thập giả dĩ thực nhục hĩ.
Bách mẫu chi điền, vật đoạt kỳ thời, bát khẩu chi gia khả dĩ vô cơ hĩ. Cẩn tường
tự chi giáo, thân chi dĩ hiếu đễ chi nghĩa, ban bạch giả bất phụ đới ư đạo lộ
hĩ. Lão giả ý bạch thực nhục, lê dân bất cơ bất hàn, nhiên nhi bất vương giả, vị
chi hữu dã.
Dịch nghĩa: Khu đất ở
năm mẫu, bảo dân trồng lấy dâu, thì người năm mươi tuổi có thể được lụa mà mặc;
những loài gia súc như: kê, đồn, cẩu, trệ chó làm hại cái thời sinh đẻ của nó,
thì người bảy mươi tuổi có thề được thịt mà ăn; khu ruộng trăm mẫu chớ cướp mất
cái mùa cấy gặt của dân, thì trong nhà tám miện ăn, có thể không đến nỗi đói.
Thận trọng về sự giáo dục trong nhà Tường, nhà Tự, dạy dỗ dân lấy nghĩa hiếu đễ,
thì những người đầu đã hoa râm, không đến nỗi phải vác đội vất vả ở đường sá;
người già được mặc áo lụa, ăn cơm thịt, người trẻ không đến nỗi đói rét; thế mà
nước không hưng vượng chưa có lẽ thế bao giờ.
TỔNG BÌNH:
Tôn chỉ trong sách Mạnh
tử đại để cho cái sự nghiệp bá giả là hèn mà không thèm nói đến; cho cái sự
nghiệp vương giả là quý, mà khuyên vua các nước nên làm. Ôi! Nói đến sự nghiệp vương
giả, mới nghe thì tưởng là cao xa lắm nhưng có cao xa gì đâu, chỉ cốt thi hành
những điều nhân chính là những việc giáo dưỡng cho dân mà thôi. Song lại phải cốt
ở ông vua biết suy xét đem cái lòng bất nhẫn suy ra mà làm chính sự bất nhẫn,
thì mới có thành hiệu được. Nếu như Tề Tuyên vương chỉ có cái lòng bất nhẫn mà
thôi, trông thầy con trâu nó sắp sửa tới chốn chết thì biết thương, mà nay đi
đánh Tần, mai đi đánh Sở, tự mình đem dân mình vào chỗ chết, thì không biết
thương như vậy thì mong gì làm được vương nghiệp.
bổ ích/ cám ơn chủ nhà/ kính
Trả lờiXóaCó chỗ dịch nghĩa còn hiểu chút chút.. còn nhiều chỗ toàn âm hán việt... đọc không hiểu gì hết luôn ạ. Trót thương thương cho trót sao viết rồi dịch ra mâ hán mà không dịch ra nghĩa việt hết bài giúp luôn vậy ạ. A Di Đà Phật
Trả lờiXóaThầy Nhượng sang tập bản dịch cho mọi người tham khảo,như vậy là dễ hiểu rồi đấy. Tôi nhờ tham khảo bản dịch của thầy nên học được một ít chữ Hán. Mọi người muốn hiểu tương đối thì phải học chữ Hán. Tải ứng dụng học chữ Hán Nôm và tham khảo bằng chữ Hán. Ví dụ như trang web chineseclassic. Com, có phần tập chú bằng chữ Hán cho mọi người tham khảo. 首 頁/ 四 書 句 集 注 /孟 子 集 注 .Và mọi người có thể xem tứ thư, ngũ kinh trên đấy.
Trả lờiXóa