陳臻問曰:「前日於齊,王饋兼金一百而不受;於宋,饋七十鎰而受;於薛,饋五十鎰而受。前日之不受是,則今日之受非也;今日之受是,則前日之不受非
也;夫子必居一於此矣。」孟子曰:「皆是也。
Dịch âm: Trần Trăn vấn viết: Tiền nhật ư Tề, vương quỹ kiêm
kim nhất bách, nhi bất thụ; ư Tống, quỹ thất thập dật nhi thụ; ư Tiết, quỹ ngũ
thập dật nhi thụ. Tiền nhật chi bất thụ thị, tắc kim nhật chi thụ phi dã; kim
nhật chi thụ thị, tắc tiền nhật chi bất thụ phi dã; phu tử tất cư nhất ư thử
hĩ. Mạnh tử viết: Giai thị dã
Dịch nghĩa:Trần Trăn hỏi
rằng: Ngày trước thầy ở nước Tề, vua cho vàng tốt một trăm dật mà chẳng lấy;
khi ở nước Tống cho bảy mươi dật mà lấy; khi ở nước Tiết cho năm mươi dật mà lấy.
Ngày trước chẳng lấy là phải, thì ngày nay lấy là chẳng phải; ngày nay lấy là
phải, thì ngày trước chẳng lấy là chẳng phải; nhà thầy tất có một điều chẳng phải
ở đó. Thầy Mạnh nói: Đều là phải cả.
Chú giải: Trần Trăn =
học trò thầy Mạnh. Kiêm kim = vàng tốt, cái giá kiêm bộ hơn vàng thường. Dật =
Cái số đóng vào cân đời xưa là 20 lạng
當在宋也,予將有遠行;行者必以贐,辭曰『饋贐』,予何為不受?
Dịch âm: Đương tại Tống dã, dư tương hữu viễn hành, hành giả
tất dĩ tẫn. Từ viết quỹ tẫn, dư hà vi bất thụ?
Dịch nghĩa: Đương khi ở
nước Tống, ta sắp sửa có việc phải đi xa, tiễn người đi xa vẫn có lễ đưa tiền
ăn đường. Lời nói rằng đưa tặng tiền ăn đường, ta sao lại chẳng lấy.
Chú giải: Tẫn= Món lễ
vật tiễn tống người đi đường. Từ = Lờin nói, trỏ về lời nói của người đưa tiễn.
Quỹ = đưa tặng. Từ tiết này trở xuống là nói rõ ra cái lẽ nhân lấy vàng với
không nhận lấy vàng đều là phải cả
當在薛也,予有戒心,辭曰『聞戒故為兵饋 之』,予何為不受?
Dịch âm: Đương tại Tiết dã, dư hữu giới tâm, Từ viết văn giới,
cố vị binh quỹ chi, dư hà vi bất thụ.
Dịch nghĩa: Đương khi ở
nước Tiết, ta có sự phải cảnh giới trong tâm. Lời nói rằng; nghe có sự phải cảnh
giới, nên vì việc binh mà đưa tặng, ta sao lại chẳng lấy.
Chú giải: Giới tâm= có
sự nguy hiểm phải răn sợ ở trong tâm, mà làm cách phòng bị trước. Nghe đâu khi
bấy giờ có kẻ muốn làm hại thầy Mạnh, cho nên thầy Mạnh đi qua cõi nước Tiết,
phải dùng đến binh lính để giữ mình, vua nước Tiết đưa vàng là giúp cho thầy Mạnh
dùng về việc binh bị
若於齊則未有處也。無處而饋之,是貨之也;焉有君子而可以貨取乎?」
Dịch âm: nhược ư Tề, tắc vị hữu xử dã, vô xử nhi quỹ chi, thị
hoá chi dã; yên hữu quân tử nhi khả dĩ hoá thủ hồ.
Dịch nghĩa: Đến như
khi ở nước Tề, thì chưa có sự gì xử về lễ giao tế, không xử về lễ gì mà đem
cho, thế là lấy của đem cho đấy; đâu lại có người quân tử mà có thể lấy của vời
đến được.
Chú giải: Xử = có sự
mà xử về lễ gì, như có sự viễn hành, thì lấy lễ đưa tiền ăn đường mà xử; có sự
giới tâm, thì lấy lễ giúp về việc binh mà xử. Thầy Manh ở nước Tề thì không có
sự viễn hành giới tâm gì cả, nên không xử về lễ gì được. Thủ = vời đến. Hoá thủ
= đem của vời đến, nghĩa là lấy của mà lung lạc được người quân tử. Đây là kể
ra người quân tử khi từ chối của người, hoặc khi nhận lấy của người, đều thích
hợp với cái lẽ phải đó mà thôi.
IV
孟子之平陸,謂其大夫曰:「子之持戟之士,一日而三失伍,則去之否乎?」曰:「不待三。」「
Mạnh Tử chi Bình lục, vị kỳ đại phu viết: Tử chi trì kích
chi sĩ, nhất nhật nhi tam thất ngũ, tắc khử chi phủ hồ? Viết: bất đãi tam.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh
đi sang đất Bình lục, bảo quan Đại phu đất ấy rằng: Người chiến sĩ cầm giáo của
nhà ngươi, một ngày mà ba lần sai bỏ hàng ngũ, thì giết nó đi hay không? Quan đại
phu nói: Chẳng đợi đến ba lần
Chú giải: Bình lục =
tên cái ấp của nước Tề. Đại phu = quan cai trị trong ấp. Kích = Cái giáo có ngạnh.
Chấp kích = cầm giáo, tức là phận sự người ngũ trưởng, lúc hành quân phải cầm
giáo. Ngũ = hàng liệt trong đám quân. Khử = tức là giết đi
然則子之失伍也亦多矣。兇年饑歲,子之民,老羸轉於溝壑,壯者散而之四方者幾千人矣。」曰:「此非距心之所得為也。」
Nhiên tắc tử thất ngũ dã diệc đa hĩ. Hung niên cơ tuế, tử
chi dân, lão lôi chuyển ư câu hác, tráng giả tán nhi chi tứ phương giả kỉ thiên
dân hĩ. Viết: thử phi Cự Tâm chi sở đắc vi dã.
Dịch nghĩa: Thầy nói:
Thế thì nhà ngươi sai bỏ hàng ngũ cũng nhiều lắm: Năm mất mùa, khi kém đói, dân
nhà ngươi, người già yếu chết lăn xuống ngòi hang, người khoẻ mạnh thì tan tác
đi bốn phương kể có mấy nghìn người đấy. Quan đại phu nói: Những sự ấy nào phải
Cự Tâm này được tự chuyên mà làm đâu.
Chú giải: Thất ngũ =
Đây là nói quan Đại phu bỏ mất chức việc mình, cũng như kẻ chiến sĩ sai bỏ hàng
ngũ. Nuy = gầy còm yêu. Cự Tâm = tên quan đại phu.
Đây là ý Cự Tâm muốn đổ
lỗi tại vua làm thất chính nên đến nỗi thế, chớ như việc cứu tế có phải tự mình
được chuyên làm đâu. Thế là Cự Tâm cũng chưa biết tội mình vậy
曰:「今有受人之牛羊而為之牧之者,則必為之求牧與芻矣。求牧與芻而不
得,則反諸其人乎?抑亦 立而視其死與?」曰:「此則距心之罪也。」
Viết: Kim hữu thụ nhân chi ngưu dương nhi vi chi mục chi giả, tắc tất vi chi cầu mục dữ sô hĩ.
Cầu mục dữ sô nhi bất đắc, tắc phản chư kỳ nhân hồ? Ức diệc lập nhi thị kỳ tử
dư? Viết: thử tắc Cự Tâm chi tội dã.
Dịch nghĩa: Thầy nói: Nay có kẻ nhận lấy trâu
dê của người mà vì người đem chăn, thì hẳn vì người cầu lấy chỗ đất chăn và cỏ;
cầu chỗ đất chăn và cỏ mà chẳng được, thì đem trâu dê trả người ta chăng, hay
là cứ đứng mà trông trâu dê nó chết đấy ư? Quan Đại phu nói: Thế thì là tội Cự
Tâm này vậy
Chú giải: Chữ Mục trên
nghĩa là chăn nuôi, chữ mục dưới nghĩa là đất chăn (cái vùng đất cỏ rộng rãi,
có thể chăn trâu dê được) Sô = cỏ. Đây là nói ra cái ý nếu không cứu được dân,
thì sao chẳng từ quan mà về.
他日見於王曰:「王之為都者,臣知五人焉。知其罪者,惟孔距心。為王誦之。」王曰:「此則寡人之罪也。」
Tha nhật kiến ư vương viết: Vương chi vi đô giả, thần tri
ngũ nhân yên. Tri kỳ tội giả, duy Khổng Cự Tâm. Vi vương tụng chi. Vương viết:
thử tắc quả nhân chi tội dã.
Dịch nghĩa: Ngày khác
thầy Mạnh vào yết kiến vua, nói rằng: Những người cai trị đô ấp của vua, tôi được
biết năm người, nhưng người biết tội mình chỉ có Khổng Cự Tâm. Vì vu thuật lại
câu chuyện mới rồi. Vua nói rằng: Thế thì là tội quả nhân này vậy..
Chú giải: Vi = quản trị.
Đô = cái ấp có miếu thờ đấng tiên quân gọi là đô. Vi đô = quản trị một đô ấp. Tụng
= kể lại lời nói. Đây là thầy Mạnh đi sang đất nước Tề, trông thấy cái quang cảnh
mất mùa dân đói, nên thầy mới hiện ra mọi lẽ, để khiến cho vua tôi nước Tề đều
phải nhận lấy tội mà cứu lấy dân
V
孟子謂蚔蛙曰:「子之辭靈丘而請士師,似也,為其可以言也。今既數月矣,未可以言與?」
Mạnh tử vị Trì oa viết: Tử chi từ Linh khâu nhi thỉnh Sĩ tư,
tự dã, vị kỳ khả dĩ ngôn dã. Kim ký sổ nguyệt hĩ, vị khả dĩ ngôn dư?
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh
bảo Trì oa rằng: Thầy từ chối không làm quan ở đất Linh khâu, mà xin làm quan
Sĩ sư, bằng dường có lẽ vậy, vì chức ấy gần vua, có thể can nói được mọi việc
hình phạt sai lầm. Nay đã vài tháng rồi, chưa có điều gì nên nói dư?
Chú giải: Trì oa = tên
quan Đại phu nước Tề . Linh khâu = Tên cái ấp của nước Tề. Sĩ sư = Chức quan giữ
việc hình. Tự = Bằng đường có lẽ
蚔蛙諫於王而不用,致為臣而去。
Trì oa gián ư vương nhi bất dụng, trí vi thần nhi khứ
Dịch nghĩa: Trì Oa can
vua mà vua không dùng, liền trả lại chức làm tôi mà đi
Chú giải: Trí = trả lại.
Trí vi thần = Trả lại chức làm tôi, nghĩa là cáo quan về
齊人曰:「所以為蚔蛙,則善 矣;所以自為,則吾不知也。」
Tề nhân viết: Sở dĩ vị Trì Oa tắc thiện hĩ, sở dĩ tự vị tắc
ngô bất tri dã.
Dịch nghĩa: Người nước
Tề nói rằng: Thầy Mạnh sở dĩ vì người Trì Oa thì phải, còn sở dĩ vì mình thì ta
chẳng biết có phải không?
Chú giải: Đây là người
nước Tề có ý chê Thầy Mạnh khi ở nước Tề, đã không thi hành cái đạo mình ra được,
mà chẳng biết đi, thế là chỉ biết vì người bảo người lấy cái nghĩa nên ở nên
đi, mà không biết vì mình bảo lấy mình vậy.
公都子以告。Công Đô tử dĩ cáo.
Dịch nghĩa: Công Đô tử
đem lời ấy mách bảo thầy Mạnh
Chú giải: Công đô tử =
Học trò thầy Mạnh
曰:「吾聞之也:有官守者,不得其職則去;有言責者,不得其言則去。我無官守,我無言責也,則吾進退豈不綽綽然 有餘裕哉?」
Viết: Ngô văn chi dã: Hữu quan thủ giả, bất đắc kỳ chức tắc
khứ; hữu ngôn trách giả, bất đắc kỳ ngôn tắc khứ. Ngã vô quan thủ, ngã vô ngôn
trách dã, tắc ngô tiến thoái khởi bất xước xước nhiên hữu dư dụ tai!
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh
nói: Ta nghe đấy rằng: Người có chức phận làm quan, mà chẳng được làm hết chức
phận mình thì đi; người có chức trách phải nói, mà nói chẳng được đắt lời thì
đi. Chứ như ta không giữ chức quan nào không có chức trách phải nói, thì ta tới
lui tự tiện, há chẳng thung dung thư thái lắm thay!
Chú giải: Quan thủ= Giữ
về một chức quan gì mà có chuyên trách. Ngôn trách = giữ trách nhiệm về việc
can ngăn. Xước xước nhiên = dáng bộ thung dung, Dư dụ = rộng rãi không phải bó
buộc.
Đây là nói thầy Mạnh
khi ở nước Tề, ở về cái địa vị làm khách làm thầy, chửa từng chịu nhận bổng lộc,
nên nói thì nói, muốn đi thì đi, khi ở khi đi tự mình vẫn có một cách tiến
thoái thung dung, không có bó buộc như người có quan thủ, có ngôn trách, để rõ
ra cái địa vị và cái đạo lý của thầy Mạnh đối với nước Tề khác với người Trì Oa
VI
孟子為卿於齊,出吊於滕,王使蓋大夫王驩為輔行。王驩朝暮見,反齊、滕之路,未嘗與之言行事也。
Mạnh tử vi Khanh ư Tề, xuất điếu ư Đằng. Vương sử cáp đại phu
Vương Hoan vi phụ hành. Vương Hoan chiêu mộ hiện; phản Tề Đằng chi lộ. Vị thường
dữ chi ngôn hành sự dã
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh
làm quan Khanh ở nước Tề, vì vua Tề đi ra viếng thăm vua nước Đằng. Vua Tề sai
quan đại phu đất Cáp là Vương Hoan làm người đi phụ tá. Vương Hoan buổi sớm buổi
chiều vào yết kiến thầy; từ lúc đi đến lúc trở về, trong quãng đường nước Tề nước
Đằng, thầy chưa từng cùng với ngươi Hoan bàn nói đến việc đi sứ.
Chú giải: Cáp = Tên ấp
nước Tề. Vương Hoan = người bày tôi thân yêu của vua tề. Phụ hành = Người đi
giúp việc, tức là người phó sứ Tề公孫丑曰:「齊卿之位,不為小矣;齊、滕之路,不為近矣。反之而未嘗與言行事,何也?」曰:「夫既或治之,予何言哉?」
Công Tôn Sửu viết: Tề Khanh chi vị, bất vi tiểu hĩ; Tề, Đằng
chi lộ, bất vi cận hĩ; phản chi nhi vị thường dữ ngôn hành sự, hà dã? Viết: Phù
ký hoặc trị chi, dư hà ngôn tai.
Dịch nghĩa: Công Tôn Sửu
hỏi rằng: Ngôi quan Khanh nước Tề, chẳng phải là nhỏ; quãng đường nước Tề nước
Đằng, chẳng phải là gần; từ lúc đi đến lúc viề, mà thầy chưa từng cùng với hắn
bàn nói đến việc đi sứ, là ý sao? Thầy nói: Kia đã có kẻ sắp sửa đâu vào đấy cả
rồi, ta còn phải nói gì nữa
Chú giải: Tề Khanh = bấy
giờ người Hoan quyền nhiếp chức quan Khanh để đi với thầy Mạnh, cho nên cũng gọi
là chức quan Khanh nước Tề. Trị = sửa sang sắp đặt.
Đây là thầy Mạnh đối
đãi với kẻ tiểu nhân, có một cách không ác mà nghiêm, thầy không thèm nói chuyện
với Vương Hoan, ý là không muốn đồng sự với kẻ tiểu nhân vậy. Nhưng không tiện
nói rõ ta, nên mới nói thác ra rằng đã có người sắp sửa cả rồi, mình không phải
nói nữa
VII
孟子自齊葬於魯。反於齊,止於嬴。充虞請曰:「前日不知虞之不肖,使虞敦匠事;嚴,虞不敢請。今愿竊有請也:木若以美然。」
Mạnh tử tự Tề táng ư Lỗ, phản ư Tề, chỉ ư Doanh. Sung Ngu thỉnh
viết: Tiền nhật bất tri ngu chi bất tiếu, sử Ngu đôn tượng sự, nghiêm; Ngu bất
cảm thỉnh. Kim nguyện thiết hữu thỉnh dã, mộc nhược dĩ mĩ nhiên?
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh
tự nước Tề đưa tang mẹ về nước Lỗ, lại trở về nước Tề, nghỉ ở đất Doanh. Sung
Ngu hỏi rằng: Ngày trước nhà thầy chẳng biết Ngu này là bất tiếu, sai Ngu này sửa
sang việc quan quách, bấy giờ thầy đang thương xót bối rối, Ngu này chẳng dám hỏi.
Nay xin trộm hỏi một điều rằng: Gỗ làm quan tài bằng dường tốt quá vậy?
Chú giải: Doanh = tên ấp
nước Tề. Sung Ngu = Học trò thầy Mạnh. Thỉnh = Nghĩa là xin hỏi. Bất tiếu = chẳng
hiển, trỏ người hư hèn; đây là lời nói nhún mình. Đôn = đốc thúc sửa sang. Tượng
sự = việc thợ mộc làm quan quách. Nghiêm = Cấp bách, là ý bối rối vội vàng.
Bấy giờ thầy Mạnh làm
quan ở nước Tề mà đưa tang mẹ về nước Lỗ
曰:「古者棺槨無度,中 古棺七寸、槨稱之,自天子達於庶人。非
直為觀美也,然後盡於人心。
Viết: Cổ giả qua quách vô độ; trung cổ quan thất thốn, quách
xứng chi; tự thiên tử đạt ư thứ nhân, phi trực vi quan mĩ dã, nhiên hậu tận tư
nhân tâm
Dịch nghĩa: Thầy nói:
Đời thượng cổ quan quách không có nhất định; đời trung cổ đặt ra phép cái quan
dầy bảy tấc, các quách cũng xứng như cái quan; tự ông vua suốt đến người dân ai
cũng thế, chẳng phải những là làm ra tốt đẹp, để người xem đâu, như thế mới là
hết lòng con người ta
Chú giải: Quan = quan
tài làm bằng gỗ. Quách = gỗ bọc ở ngoài cái quan. Trung cổ = Trỏ về đời ông
Châu công chế ra lễ. Thất thốn = bảy tấc, cái tấc thuộc về chế cổ, khác với chế
kim. Đây là nói cái ý cổ giả dùng quan quách dầy và bền, là muốn làm cho chắc
chắn lâu dài, thì mói thoả lòng con đối với cha mẹ, chứ không phải chỉ làm cho
đẹp mắt người
不得,不可以為悅;無財,不可以為悅。得之為有財。古之人皆用之,
吾何為獨不然?
Bất đắc, bất khả dĩ vi duyệt, vô tài, bất khả dĩ vi duyệt; đắc
chi vi hữu tài, cổ chi nhân giai dụng chi, ngô hà vi độc bất nhiên.
Dịch nghĩa: Chẳng được
phép làm cho thật hậu, thì không thể làm cho hả lòng được; không có của không
thể làm cho hả lòng được; được phép làm mà lại có của, người đời xưa đều dùng hậu
táng cả đấy, ta cớ gì lại chẳng làm như thế.
Chú giải: Chữ vi ở
câu: Đắc chi vi hữu tài, chữ vi ấy nên làm chữ nhi, nghĩa là vừa được phép làm
lại vừa có của. Đây là nói cổ giả làm con người ai cũng muốn làm quan tài tốt đẹp
để hậu táng cho cha mẹ. chỉ vì pháp chế hạn cấm, hoặc vì tiền tài thiếu thốn,
không thể làm cho hết lòng được. Nếu có của mà lại được làm, thì ai là chẳng
làm cho hết lòng
且比化者,無使土親膚,於人心獨無恔乎?
Thả tị hoá, vô sử thổ thân phu, ư nhân tâm độc vô hiệu hồ.
Dịch nghĩa: Vả vì người
chết, không để cho đất gần với da, trong lòng người con lại không thoả ư?
Chú giải: Ti = vì. Hoá
giả = người chết, trỏ về cha mẹ. Thân = gần vào. Phu = da người, Hiệu = sướng,
lấy làm thoả lòng mà không ân hận gì
吾聞之君子:不以天下儉其親。」
Ngô văn chi dã, quân tử bất dĩ thiên hạ kiệm kỳ thân
Dịch nghĩa: Ta nghe đấy
rằng người quân tử chẳng vì thiên hạ tiếc của mà hà tiện với cha mẹ mình.
Chú giải: Đây là nói
người con đối với cha mẹ lúc tống chung phải cho hết lòng; so sánh cái lễ trên
đời với cái của nhà mình nếu làm được đến đâu thì cứ hết lòng mà làm đến đấy.
Không nên tiếc của đời mà hà tiện với cha mẹ. Thế thì thầy Mạnh làm áo quan tốt
để hậu táng mẹ là phải
VIII
沈同以其私問曰:「燕可伐與?」孟子曰:「可。子噲不得與人燕,子之不得受燕於子噲。有仕於此,而子悅之,不告於王,而私與之吾子之祿爵;
夫士也, 亦無王命而私受之於子,則可乎?何以異於是?」
Thẩm Đồng dĩ kỳ tư vấn viết: “Yên khả phạt dư?” Mạnh tử viết:
Khả, Tử Khoái bất đắc dữ nhân Yên, Tử Chi bất đắc thụ Yên ư Tử Khoái. Hữu sĩ ư
thử, nhi tử duyệt chi, bất cáo ư vương, nhi tư dữ chi ngô tử chi lộc tước. Phù
sĩ dã diệc vô vương mệnh, nhi tư thụ chi ư tử, tắc khả hồ. hà dĩ dị ư thị.
Dịch nghĩa: Ngươi Thẩm
Đồng lấy ý riêng mình hỏi thầy Mạnh rằng: Nước Yên, có nên đánh không? Thầy Mạnh
nói rằng: Nên đánh. Vì rằng Tử Khoái không có lẽ được đem nước yên cho người, Tử
Chi cũng không có lẽ được nhận nước Yên ở Tử Khoái. Ví như có người lại làm
quan ở đây, mà ngươi bằng lòng người ấy, ngươi chẳng thưa với vua, mà đem cho
riêng người ấy lộc tước của ngươi, Ôi người sĩ kia cũng không có mệnh vua, mà
chịu riêng cái lộc tước ấy ở ngươi, thì so với kẽ có nên không? Sự vua tôi nước
Yên khác gì sự ấy.
Chú giải: Thẩm Đồng =
Người bề tôi nước Tề. Tử Khoái = vua nước Yên. Tử Chi = tướng nước Yên. Tử
Khoái nghe lời xui siểm mà nhường nước cho Tử Chi, trong nước Yên đại loạn, nước
Tề bấy giờ muốn thừa loạn đánh lấy nước Yên. Đây là thầy Mạnh nói ra cái lẽ nên
đi đánh nước Yên, vì vua tôi nước Yên đều có lỗi, là vì thổ địa nhân dân của nước
Yên, là tự đấng tiên quân truyền lại, vua tôi nước Yên không được tự tiện mà
truyền thụ lẫn cho nhau
齊人伐燕。或問曰:「勸齊伐燕,有諸?」曰:「未也。沈同問:『燕可伐與?』吾應之曰:『可。』彼然而伐之也。彼如曰:『孰可以伐之?』則將應之曰:『為天吏則可以伐之。』今有殺人者,或問之曰:『人可殺與?』則將應之曰:『可。』彼如曰:『孰可以殺之?』則 將應之曰:『為士師
則可以殺之。』今以燕伐燕,何為勸之哉?」
Tề nhân phạt Yên. Hoặc vấn viết: Khuyến Tề phạt Yên, hữu
chư? Viết: Vị dã. Thẩm Đồng vấn Yên khả phạt dư, ngô ứng chi viết khả, bỉ nhiên
nhi phạt chi dã. Bỉ như viết thục khả dĩ phạt chi? Tắc tương ứng chi viết vi
thiên lại tắc khả dĩ phạt chi. Kim hữu sát nhân giả, hoặc vấn chi viết, nhân khả
sát dư; tắc tương ứng chi viết khả. Bỉ như viết thục khả dĩ sát chi? Tắc tương ứng
chi viết vi Sĩ si tắc khả dĩ sát chi. Kim dĩ Yên phạt Yên, hà vi khuyến chi tai
Dịch nghĩa: Người nước
Tề đi đánh nước Yên. Hoặc có kẻ hỏi rằng: “Nhà thầy khuyên người nước Tề đi
đánh nước Yên đấy phải không? Thầy Mạnh mói: Ta chưa từng khuyên họ bao giờ.
Ngươi Thầm Đồng có hỏi rằng nước Yên có nên đánh không? Ta trả lời rằng nên
đánh, người kia lấy làm phải mà đi đánh vậy. Người kia nếu lại hỏi rằng ai có
thể đánh được? thì hẳn phải trả lời rằng làm kẻ thiên lại mới có thể đánh được.
Nay có đứa giết người, hoặc có kẻ hỏi rằng đứa giết người ấy có nên giết không?
Thì phải trả lời rằng nên giết. Người kia nếu hỏi lại rằng ai có thể giết được?
Thì hẳn phải trả lời rằng làm quan Sĩ sư mới có thể giết được. Nay lấy nước Yên
đi đánh nước Yên, ai lại khuyên làm gì.
Chú giải: Thiên lại =
Cái kẻ có đức mà phụng mệnh trời đi đánh kẻ có tội. Sĩ sư = Quan giữ việc hình
luật. Dĩ Yên phạt Yên = Nói nước Tề cũng vô đạo chẳng khác gì nước Yên, mà đi
đánh nước Yên
IX
燕人畔,王曰:「吾甚慚於孟子。」
Yên nhân bạn, Vương viết: Ngô thậm tàm ư Mạnh tử.
Dịch nghĩa: Người nước
Yên làm phản nước Tề, vua Tề nói rằng: Ta thẹn với thầy Mạnh lắm!.
Chú giải: Bạn, nghĩa
là không phục mà cự lại. Đây là vua Tề thẹn vì trước kia không nghe lời thầy Mạnh
khoan đãi nước Yên, quả nhiên dân nước Yên khởi lên phản lại nước Tề, nên vua
nước Tề có ý thẹn, cũng là bởi lòng lương tâm biết hối ngộ vậy
陳賈曰:「王無患焉,王自以為與周公,孰仁且智?」王曰:「惡!是何言也!」曰:「周公使管叔監殷,管叔以殷畔。知而使之,是不仁也;不知而使之,是不智也。仁智,周公未之盡也,而況於王乎?賈請見而解之。」
Trần Giả viết: Vương vô hoạn yên; vương tự dĩ vi dữ châu
công thục nhân thả trí? Vương viết : Ô! Thị hà ngôn dã? Viết: Châu công sử Quản
thúc giám Ân, Quản thúc dĩ Ân bạn. Tri nhi sử chi, thị bất nhân dã; bất tri,
nhi sử chi, thị bất trí dã; nhân trí, Châu công vị chi tận dã, nhi huống ư
vương hồ. Giả thỉnh kiến nhi giải chi.
Dịch nghĩa: Trần Giả
nói rằng: Vua chớ lo có cái thẹn ấy vậy; vua tự nghĩ so với ông Châu công ái
nhân và trí hơn? Vua nói rằng: Ôi! Sao lại nói thế, đâu dám ví với ông Châu
công. Giả nói: Ông châu công sai ngươi Quản thúc coi giữ nước Ân, Quản thúc lấy
nước Ân làm phản. Nếu Châu công biết Quản thúc tất thế nào cũng làm phản mà cứ
sai đi, thế tà bất nhân; nếu không biết, lầm mà sai đi, thế là bất trí. Điều
nhân điều trí, Châu công còn chưa gồm hết được cả hai, nữa là vua ư. Giả này
xin đến yết kiến thầy Mạnh mà nói giải thuyết đi.
Chú giải: Trần Giả =
Quan Đại phu nước Tề, Quản thúc = em ông Vũ vương, anh ông Châu công. Ông Vũ
vương nhà Châu khi đánh được nhà Ân giết chúa Trụ đi rồi, có lập người con ông
Trụ là Vũ Canh cho ở đất Ân làm một nước chư hầu. Khi ông Châu công làm chủng tể
có sai Quản thúc cùng với Vũ Canh làm phản nhà Châu. Châu công phải thân chinh
đi đánh mà giết đi, Đây là Trần Giả nịnh nọt vua Tề, mới viện ra lấy một lec mà
xin đi cãi với thầy Mạnh, để gỡ lấy cái thẹn cho vua Tề
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét