Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2011

LUẬN NGỮ 3

THIÊN XIX - TỬ TRƯƠNG -子張第十九
[19.1]
子張曰:「士見危致命,見得思義,祭思敬,喪思哀,其可已矣。」
XIX.1
Tử Trương viết: “Sĩ kiến nguy trí mệnh, kiến đắc tư nghĩa, tế tư kính, tang tư ai, kì khả dĩ hĩ.
Dịch. – Tử Trương nói: “Kẻ sĩ mà thấy nguy thì không tiếc sinh mạng, thấy được giàu sang thì nghĩ đến nghĩa lí, khi tế tự, nghĩ đến thành kính, gặp việc tang, nghĩ đến sót thương, như vậy là khá rồi”.
[19.2]
子張曰:「執德不弘,信道不篤,焉能為有?焉能為亡?」
XIX.2
Tử Trương viết: “Chấp đức bất hoằng, tín đạo bất đốc, yên năng vi hữu? Yên năng vi vô?”.
Dịch. – Tử Trương nói: “Người giữ đức mà không kiên cường[1], tin nghĩa lí (đạo) mà không dốc lòng, thì đời có họ hay không có họ cũng vậy thôi”.
[19.3]
子夏之門人,問「交」於子張。子張曰:「子夏云何?」對曰:「子夏曰:『可者與之,其不可者拒之。』」子張曰:「異乎吾所聞:『君子尊賢而容眾,嘉善而矜不能。』我之大賢與,於人何所不容。我之不賢與,人將拒我,如之何其拒人也!」
XIX.3
Tử Hạ chi môn nhân vấn giao ư Tử Trương. Tử Trương viết: “Tử Hạ vân hà?”. Đối viết: “Tử Hạ viết: “Khả giả dữ chi, kì bất khả giả, cự chi”. Tử Trương viết: “Dị hồ ngô sở văn: Quân tử tôn hiền nhi dong chúng, gia thiện nhi căng bất năng. Ngã chi đại hiền dư, ư nhân hà sở bất dung? Ngã chi bất hiền dư, nhân tương cự ngã, như chi hà, kì sự nhân dã”.
Dịch. – Học trò Tử Hạ hỏi Tử Trương về việc kết bạn. Tử Trương hỏi: “Thầy Tử Hạ dạy như thế nào?”. Đáp: “Thầy Tử Hạ bảo: “Nếu là người khá thì mình kết bạn. Không khá thì nên cự tuyệt”. Tử Trương nói: “Tôi nghe khác vậy: Người quân tử tôn trọng người hiền mà dung nạp mọi người, khen người lương thiện mà thương kẻ bất tài. Ta là bậc đại hiền ư thì ai mà không dung nạp được? Còn như ta mà bất hiền thì người ta cự tuyệt ta, chứ đâu cự tuyệt được người?”.
[19.4]
子夏曰:「雖小道,必有可觀者焉;致遠恐泥,是以君子不為也。」
XIX.4
Tử Hạ viết: “Tuy tiểu đạo, tất hữu khả quan giả yên. Trí viễn khủng nệ, thị dĩ quân tử bất vi dã”.
Dịch. – Tử Hạ nói: “Tuy làm nghề nhỏ, cũng đáng xem xét. Nhưng nếu đi sâu vào nghề đó thì e hoá ra câu nệ, cho nên người quân tử không làm”.
[19.5]
子夏曰:「日知其所亡,月無忘其所能,可謂好學也已矣!」
XIX.5
Tử Hạ viết: “Nhật tri kì sở vô, nguyệt vô vong kì sở năng, khả vị hiếu học dã dĩ hĩ”.
Dịch. – Tử Hạ nói: “Mỗi ngày biết thêm được điều chưa biết, mỗi tháng không quên những điều mình đã biết, như vậy có thể gọi là ham học”.
[19.6]
子夏曰:「博學而篤志,切問而近思;仁在其中矣。」
XIX.6
Tử Hạ viết: “Bác học nhi đốc chí, thiết vấn nhi cận tư, nhân tại kì trung hĩ”.
Dịch. – Tử Hạ nói: “Học rộng mà vẫn giữ chí hướng, hỏi điều thiết thực mà nghĩ đến việc gần (việc thực hành những điều đó), đạo nhân ở trong đó”.
[19.7]
子夏曰:「百工居肆以成其事;君子學以致其道。」
XIX.7
Tử Hạ viết: “Bách công cư tứ dĩ thành kì sự, quân tử học dĩ trí kỳ đạo”. 
Dịch. – Tử Hạ nói: “Thợ trăm nghề phải ở tại chợ (chỗ có xưởng thợ) mới làm được đồ vật. (Cũng vậy) người quân tử phải học tập rồi mới thấy được đạo”.
[19.8]
子夏曰:「小人之過也必文。」
XIX.8
Tử Hạ viết: “Tiểu nhân chi quá dã tất văn”.
Dịch. – Tử Hạ nói: “Kẻ tiểu nhân tất dùng văn sức bề ngoài để che lỗi của mình”.
[19.9]
子夏曰:「君子有三變:望之儼然;即之也溫;聽其言也厲。」
XIX.9
Tử Hạ viết: “Quân tử hữu tam biến: Vọng chi nghiễm nhiên, tức chi dã ôn, thính kì ngôn dã lệ”.
Dịch. – Tử Hạ nói: “Người quân tử có ba vẻ biến hoá: Ở xa thì có vẻ trang trọng, đến gần thì có vẻ ôn hoà, nghe lời nói thấy nghiêm”.
[19.10]
子夏曰:「君子信而後勞其民;未信,則以為厲己也。信而後諫;未信,則以為謗己也。」
XIX.10
Tử Hạ viết: “Quân tử tín nhi hậu lao kì dân, vị tín tắc dĩ vi lệ kỉ dã. Tín nhi hậu gián, vị tín, tắc dĩ vi báng kỉ dã”.
Dịch. – Tử Hạ nói: “Người quân tử phải được dân tin rồi sau mới bắt dân làm việc khó nhọc được, nếu chưa được dân tin thì họ cho là làm khổ họ. Phải được người trên tin rồi mới can ngăn, nếu chưa được người trên tin thì họ cho là huỷ báng họ”.
[19.11]
子夏曰:「大德不踰閑;小德出入可也。」
XIX.11
Tử Hạ viết: “Đại đức bất du nhàn, tiểu đức xuất nhập khả dã”.
Dịch. – Tử Hạ nói: “Không được vượt qua đại tiết[2], còn tiểu tiết thì tuỳ tiện, ở trong phạm vi hay ra ngoài cũng được” (vì không phạm đến đại tiết).
[19.12]
子游曰:「子夏之門人小子,當洒掃,應對,進退,則可矣。抑末也;本之則無,如之何?」子夏聞之曰:「噫!言游過矣!君子之道,孰先傳焉?孰後倦焉?譬諸草木,區以別矣。君子之道,焉可誣也?有始有卒者,其惟聖人乎!」
XIX.12
Tử Du viết: “Tử Hạ chi môn nhân tiểu tử đương sái tảo, ứng đối, tiến thoái, tắc khả hĩ, ức mạt dã, bổn chi tắc vô, như chi hà?”. Tử Hạ văn chi, viết: “Y! Ngôn du quá hĩ. Quân tử chi đạo, thục tiên truyền yên? Thục hậu quyện yên? Thí chư thảo mộc, khu dĩ biệt hĩ. Quân tử chi đạo, yên khả vu dã? Hữu thủy hữu tốt giả, kì duy thánh nhân hồ?”.
Dịch. – Tử Du nói: “Học trò thầy Tử Hạ, làm việc vẩy nước, quét tước, ứng đối, tới lui thì được, nhưng đó chỉ là cái ngọn, còn gốc không có, thì sao học nên được?”. Tử Hạ nghe vậy, bảo: “Ngôn Du (Tử Du) nói sai rồi. Đạo của người quân tử, cái gì nên dạy trước? Cái gì để sau mà không dạy[3]? Ví như cây cỏ, có nhiều loại khác nhau. Đạo của người quân tử đâu có thể vu hoặc được?”. (giấu điều chánh mà dạy điều phụ). Biết theo thứ tự, điều nào dạy trước, điều nào dạy sau, chứ nếu cùng dạy một lúc cả ngọn lẫn gốc thì chỉ thánh nhân mới theo được[4]”.
[19.13]
子夏曰:「仕而優則學;學而優則仕。」
XIX.13
Tử Hạ viết: Sĩ nhi ưu tắc học, học nhi ưu tắc sĩ”.
Dịch. – Tử Hạ nói: “Làm quan mà thừa thì giờ, sức khoẻ thì nên học, học mà thừa thì giờ, sức khoẻ thì nên làm quan”.
[19.14]
子游曰:「喪致乎哀而止。」
XIX.14
Tử Du viết: “Tang trí hồ ai nhi chỉ”.
Dịch. – Tử Du nói: “Tang lễ mà (biểu lộ) hết lòng thương xót là đủ rồi”.
Chú thích. – Có thể hiểu là không nên bày vẽ loè loẹt, hoặc không nên thương xót đến mức huỷ hoại thân thể.
[19.15]
子游曰:「吾友張也,為難能也;然而未仁。」
XIX.15
Tử Du viết: “Ngô hữu Trương dã, vi nan năng dã, nhiên nhi vị nhân”.
Dịch. – Tử Du nói: “Bạn tôi là Tử Trương (đức đã cao) khó mà giữ được như anh ấy, nhưng chưa phải là bậc nhân”. (Có lẽ vì tính phóng khoáng, thiên lệch, thái quá – Coi cuốn Khổng tử - chương IV).
[19.16]
曾子曰:「堂堂乎張也!難與並為仁矣。」
XIX.16
Tăng Tử viết: “Đường đường hồ Trương dã. Nan dữ tịnh vi nhân hĩ”.
Dịch. – Tăng tử nói: “Tử Trương thật có vẻ đàng hoàng, nhưng khó làm chung việc nhân với anh ấy được”.
[19.17]
曾子曰:「吾聞諸夫子:『人未有自致者也必也,親喪乎!』」
XIX.17
Tăng Tử viết: “Ngô văn chư phu tử: Nhân vị hữu tự trí giả dã, tất dã thân tang hồ?”.
Dịch. – Tăng tử nói: “Ta nghe thầy ta nói: Người ta trong các việc khác chưa biểu lộ được hết tình cảm tự nhiên, chỉ trong việc tang cha mẹ là biểu lộ được hết thôi”.
[19.18]
曾子曰:「吾聞諸夫子:『孟莊子之孝也,其他可能也,其不改父之臣與父之政,是難能也。』」
XIX.18
Tăng Tử viết: “Ngô văn chư phu tử: Mạnh Trang tử chi hiếu dã, kì tha khả năng dã; kì bất cải phụ chi thần dữ phụ chi chính, thị nan năng dã”.
Dịch. – Tăng tử nói: “Ta nghe thầy ta nói: Ông Mạnh Trang tử (một đại phu nước Lỗ) có những điều hiếu khác mà người ta làm được, chỉ có điều này là không thay bề tôi và chính trị của cha là khó mà làm được”.
[19.19]
孟氏使陽膚為士師,問於曾子。曾子曰:「上失其道,民散久矣!如得其情,則哀矜而勿喜。」
XIX.19
Mạnh thị sử Dương Phu vi sĩ sư, vấn ư Tăng tử. Tăng tử viết: “Thượng thất kì đạo, dân tán cửu hĩ. Như đắc kì tình, tắc ai căng nhi vật hỉ”.
Dịch. – Họ Mạnh dùng Dương Phu (một môn sinh của Tăng tử) làm pháp quan. Dương Phu đến hỏi Tăng tử. Tăng tử bảo: “Người trên bỏ chính đạo, dân chúng đã phóng túng, không giữ phép từ lâu rồi. Nếu xét được thực tình của người phạm tội thì nên thương xót họ chứ đừng nên mừng” (về tài minh quyết của mình).
[19.20]
子貢曰:「紂之不善,不如是之甚也。是以君子惡居下流,天下之惡皆歸焉。」
XIX.20
Tử Cống viết: “Trụ chi bất thiện, bất như thị chi thậm dã. Thị dĩ quân tử ố cư hạ lưu, thiên hạ chi ác giai qui yên”.
Dịch. – Tử Cống nói: “Những tội ác của vua Trụ không đến nỗi quá lắm như người ta truyền. Sở dĩ người quân tử không muốn ở chung với đám hạ lưu (mà mang tiếng) vì bao nhiêu tội ác trong thiên hạ đều dồn về đó”.
[19.21]
子貢曰:「君子之過也,如日月之食焉。過也,人皆見之;更也,人皆仰之。」
XIX.21
Tử Cống viết: “Quân tử chi quá dã, như nhật nguyệt chi thực yên: Quá dã, nhân giai kiến chi; canh dã nhân giai ngưỡng chi”.
Dịch. – Tử Cống nói: “Người quân tử có lỗi thì như nhật thực, nguyệt thực: có lỗi thì ai cũng thấy, mà khi sửa lỗi thì ai cũng ngưỡng vọng”.
[19.22]
衛公孫朝問於子貢曰:「仲尼焉學?」子貢曰:「文武之道,未墜於地,在人。賢者識其大者,不賢者識其小者,莫不有文武之道焉。夫子焉不學,而亦何常師之有!」
XIX.22
Vệ Công tôn Triều vấn ư Tử Cống, viết: “Trọng Ni yên học?”. Tử Cống viết: “Văn Võ chi đạo, vị trụy ư địa, tại nhân. Hiền giả chí kì đại giả, bất hiền giả, chí kì tiểu giả, mạc bất hữu Văn Vũ chi đạo yên. Phu tử yên bất học? Nhi diệc hà thường sư chi hữu?”.
Dịch. – Công tôn Triều (đại phu nước Vệ) hỏi Tử Cống: “Ông Trọng Ni học với ai?”. Tử Cống đáp: “Đạo của vua Văn vua Võ (nhà Chu) chưa mất, còn có người bảo tồn được. Người hiền ghi được những điều trọng đại, người bất hiền nhớ được những điều nhỏ nhặt, không đâu không có đạo của vua Văn vua Võ. Thầy tôi gặp đâu mà không học, hà tất phải học riêng một thầy nào?”.
[19.23]
叔孫武叔語大夫於朝曰:「子貢賢於仲尼。」子服景伯以告子貢。子貢曰:「譬之宮牆:賜之牆也及肩,窺見屋家之好;夫子之牆數仞,不得其門而入,不見宗廟之美,百官之富。得其門者或寡矣!夫子之云,不亦宜乎!」
XIX.23
Thúc tôn Võ Thúc ngứ đại phu ư triều viết: “Tử Cống hiền ư Trọng Ni”. Tử Phục Cảnh Bá dĩ cáo Tử Cống. Tử cống viết: “Thí chi cung tường. Tứ chi tường dã cập kiên khuy kiến thất gia chi hảo. Phu tử chi tường sổ nhận, bất đắc kì môn nhi nhập, bất kiến tôn miếu chi mĩ, bách quan chi phú. Đắc kì môn giả hoặc quả hĩ. Phu tử chi vân, bất diệc nghi hồ?”.
Dịch. – Thúc tôn Võ Thúc (một đại phu nước Lỗ) nói với các quan đại phu ở triều: “Ông Tử Cống tài giỏi hôn ông Trọng Ni”. Tử Phục Cảnh Bá thuật lại lời đó với Tử Cống. Tử Cống nói: “Lấy bức tường cung thất làm thí dụ. Bức tường của Tứ tôi cao tới vai, nên người ở ngoài thấy được những cái đẹp trong nhà. Bức tường của thầy tôi cao mấy nhận (mỗi nhận thời đó bảy tám thước, mỗi thước một gang tay), nếu không qua cửa mà vào thì không thấy được những cái đẹp trong tôn miếu, sự kiến trúc các điện phong phú ra sao. Hoặc giả ít người qua được cửa. Vậy lời của ông Thúc tôn Võ Thúc không hợp rồi (sai rồi)”.
[19.24]
叔孫武叔毀仲尼。子貢曰:「無以為也!仲尼不可毀也。他人之賢者,丘陵也,猶可踰也;仲尼,日月也,無得而踰焉。人雖欲自絕,其何傷於日月乎?多見其不知量也!」
XIX.24
Thúc tôn Võ Thúc hủy Trọng Ni. Tử Cống viết: “Vô dĩ vi dã. Trọng Ni bất khả hủy dã. Tha nhân chi hiền giả, khâu lăng dã, do khả du dã. Trọng Ni nhật nguyệt dã, vô đắc nhi du yên. Nhân tuy dục tự tuyệt, kì hà thương ư nhật nguyệt hồ? Đa. Kiến kì bất tri lượng dã”.
Dịch. – Thúc tôn Võ Thúc chê Trọng Ni. Tử Cống nói: “Đừng nên làm vậy. Thầy Trọng Ni không thể huỷ báng được. Tài đúc của người khác cao như cái gò, cái đống, còn có thể qua được. Người ta dù muốn tự cách tuyệt (mà huỷ báng) thì có hại gì cho mặt trời, mặt trăng đâu! Chỉ tỏ rằng mình không biết lượng cao thấp mà thôi”.
[19.25]
陳子禽謂子貢曰:「子為恭也,仲尼豈賢於子乎?」子貢曰:「君子一言以為知,一言以為不知,言不可不慎也!夫子之不可及也,猶天之不可階而升也。夫子之得邦家者。所謂『立之斯立,道之期行,綏之期來,動之斯和。其生也榮,其死也哀』;如之何其可及也?」
XIX.25
Trần Tử Cầm vị Tử Cống viết: “Tử vi cung dã? Trọng Ni khởi hiền ư tử hồ?”. Tử Cống viết: “Quân tử nhất ngôn dĩ vi trí, nhất ngôn dĩ vi bất trí, ngôn bất khả bất thận dã. Phu tử chi bất khả cập dã, do thiên chi bất khả giai nhi thăng dã. Phu tử chi đắc bang gia giả, sở vị lập chi tư lập, đạo chi kì hành, tuy chi tư lai, động chi tư hòa. Kì sinh dã vinh, kì tử dã ai, như chi hà kì khả cập dã?”.
Dịch. – Trần Tử Cầm (Trần Cang) nói với Tử Cống: “Anh khiêm cung đấy thôi. Thầy Trọng Ni làm sao tài đức hơn anh được?”. Tử Cống bảo: “Người quân tử nói ra một lời mà người ta cho mình là khôn, hay không khôn, cho nên không thể không thận trọng lời nói. Thầy chúng ta không ai bì kịp được, cũng như trời không thể bắt thang mà lên được. Nếu thầy chúng ta được cầm quyền một nước hay một nhà (ấp của đại phu), thì như người xưa nói, gây dựng cho dân, dân sẽ tự lập, dắt dẫn dân, dân sẽ biết đường mà đi, vỗ yên dân, dân sẽ qui phụ, cổ võ dân, dân sẽ hiệp lực với nhau. Khi sống được mọi người tôn kính. Khi chết được mọi người thương xót. Ai có thể bì kịp với thầy chúng ta được?”.

THIÊN XX - NGHIÊU VIẾT-堯曰第二十
[20.1]
堯曰:「咨!爾舜!天之曆數在爾躬,允執其中!四海困窮,天祿永終。」舜亦以命禹。曰:「予小子履,敢用玄牡,敢昭告于皇皇后帝:有罪不敢赦,帝臣不蔽,簡在帝心!朕躬有罪,無以萬方;萬方有罪,罪在朕躬。」「周有大賚,善人是富。」「雖有周親,不如仁人;百姓有過,在予一人。謹權量,審法度,修廢官,四方之政行焉。興滅國,繼絕世,舉逸民,天下之民歸心焉。所重民:食、喪、祭。寬則得眾,信則民任焉。敏則有功,公則說。」
XX.1
Nghiêu viết: “Tư! Nhĩ Thuấn, thiên chi lịch số tại nhĩ cung, doãn chấp kì trung. Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung”. Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ. 
Viết: “Dư tiểu tử Lí, cảm dụng huyền mẫu, cảm chiêu cáo vu hoàng hoàng hậu Đế: Hữu tội bất cảm xá. Đế thần bất tế, giản tại Đế tâm. Trẫm cung hữu tội, vô dĩ vạn phương; vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung”.
*
Chu hữu đại lại, thiện nhân thị phú. Tuy hữu chu thân, bất như nhân nhân. Bách tính hữu quá, tại dư nhất nhân”. 
Cẩn quyền lượng, thẩm pháp độ, tu phế quan, tứ phương chi chính hành yên. Hưng diệt quốc, tu phế quan, kế tuyệt thế, cử dật dân, thiên hạ chi dân qui tâm yên. Sở trọng: Dân, thực, tang, tế. Khoan tắc đắc chúng, tín tắc dân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, công tắc duyệt”. 
Dịch. – (Khi nhường ngôi cho ông Thuấn) vua Nghiêu bảo: “Hỡi ông Thuấn, mệnh trời tuần hoàn, nay ngôi vua về ông; ông nên thành thực giữ đạo trung chính. Nếu dân trong bốn bể khốn cùng, thì lộc trời (ban cho ông) sẽ mất hẳn đấy. (Về sau) vua Thuấn lại truyền những lời đó cho vua Vũ.
Chú thích. – Vua Nghiêu, nhà Đào Đường: 2356-2255; vua Thuấn, nhà Hữu Ngu: 2255-2205; vua Vũ: 2205-2197, sáng lập nhà Hạ, (cho nên cũng gọi ông là Hạ Vũ). Sau, nhà Hạ suy, bị chư hầu ông Lí đánh đuổi, lên ngôi, hiệu là Thành Thang (1766-1753), lập nhà Thương (cũng gọi là nhà Ân: 1766-1122). Chúng ta nhận thấy câu đầu có vần: cung, trung, cùng, chung; chắc viết khá trễ vào giữ thời Chiến Quốc.
*
(Khi lên ngôi – có sách giảng là nhân một lần đảo vũ) vua Thành Thang cáo với Trời: “Đứa tiểu tử (con nhỏ) này tên là Lí, mạo muội dùng con bò đực đen để tế, mạo muội cáo bạch với Thượng Đế chí tôn chí cao rằng: “Kẻ có tội (có sách bảo đây ám chỉ vua Kiệt), tiểu tử không dám tha. Nhưng kẻ bề tôi của Thượng Đế ai thiện, ai ác, tiểu tử không dám giấu, vì lòng Thượng Đế rõ rồi. Bản thân trẫm[1]
*
(Sau khi Võ vương diệt Trụ) nhà Chu được trời thưởng lớn, nên có nhiều người thiện[2]. (Và những người này được Võ vương phong làm vua chư hầu). Khi phong Tề Thái công[3]) Võ vương bảo: “Tuy có người thân thích rất gần, cũng không bằng có người nhân đức. Trăm họ có lỗi, đều tại một mình ta (không biết giáo hoá).
(Võ vương) định lại cẩn thận cái cân và đồ đo lường, chế định pháp độ, không phục lại những quan chức đã bị (vua Trụ) bãi bỏ, chính lệnh trong thiên hạ được thi hành. Ông phục hưng những nước chư hầu đã bị diệt, cho người nối tiếp những dòng họ đã bị tuyệt, đề bạt những người ẩn dật có tài đức nên nhân dân khắp nơi qui phục. Ông coi trọng những việc này nhất: Thương dân[4], lương thực, tang lễ, tế tự. Ông khoan hậu nên được lòng người, thành thực nên được trăm họ tín nhiệm, cần mẫn nên thành công, công bình nên mọi người vui vẻ.
Chú thích. – Bài này có thể là ý của Khổng tử, người sau chép lại, thiếu liên lạc mà đoạn cuối có mấy câu: “Khoan tắc đắc chúng, tín đắc dân nhiệm, mẫn tắc hữu công” trùng với bài XVII.6.
[20.2]
子張問於孔子曰:「何如,斯可以從政矣?」子曰:「尊五美,屏四惡,斯可以從政矣。」子張曰:「何謂五美?」子曰:「君子惠而不費;勞而不怨;欲而不貪;泰而不驕;威而不猛。」子張曰:「何謂惠而不費?」子曰:「因民之所利而利之,斯不亦惠而不費乎?擇可勞而勞之,又誰怨!欲仁而得仁,又焉貪!君子無眾寡,無小大,無敢慢,斯不亦泰而不驕乎!君子正其衣冠,尊其瞻視,儼然人望而畏之,斯不亦威而不猛乎!」子張曰:「何謂四惡?」子曰:「不教而殺謂之虐;不戒視成謂之暴;慢令致期謂之賊;猶之與人也,出納之吝,謂之有司。」
XX.2
Tử Trương vấn ư Khổng Tử viết: “Hà như, tư khả dĩ tòng chính hĩ”. Tử viết: “Tôn ngũ mĩ, bính tứ ác, tư khả dĩ tòng chính hĩ”. Tử trương viết: “Hà vị ngũ mĩ?”. Tử viết: “Quân tử huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán, dục nhi bất tham, thái nhi bất kiêu, uy nhi bất mãnh”. Tử Trương viết: “Hà vị huệ nhi bất phí?”. Tử viết: “Nhân dân chi sở lợi nhi lợi chi, tư bất diệc huệ nhi bất phí hồ? Trạch khả lao nhi lao chi, hựu thùy oán? Dục nhân nhi đắc nhân, hựu yên tham? Quân tử vô chúng quá, vô tiểu đại, vô cảm mạn, tư bất diệc thái nhi bất kiêu hồ? Quân tử chính kì y quan, tôn kì chiêm thị, nghiễm nhiên nhân vọng nhi uy chi, tư bất diệc uy nhi bất mãnh hồ?”. Tử Trương viết: “Hà vị tứ ác?”. Tử viết: “Bất giáo nhi sát, vị chi ngược; bất giới thị thành, vị chi bạo; mạn lệnh trí kì, vị chi tặc; do chi dữ nhân dã, xuất nạp chi lận, vị chi hữu ti”.
Dịch. – Tử Trương hỏi Khổng tử: “Thế nào thì có thể tòng chính (gánh việc được) được?”. Khổng tử đáp: “Phải trọng năm điều tốt, trừ bốn điều xấu thì có thể tòng chính được”. Tử Trương hỏi: “Thế nào là năm điều tốt?”. Khổng tử đáp: “Người quân tử ban ân huệ cho dân mà không hao tốn, khiến dân làm việc khó nhọc mà dân không oán, có lòng muốn mà dân không tham, thư thái mà không kiêu căng, uy nghiêm mà không dữ tợn”. Tử Trương hỏi: “Thế nào mà ban ân huệ cho dân mà không hao tốn?...”. Khổng tử đáp: “Nhân cái lợi của dân mà làm lợi cho dân (chẳng hạn dân ở miền núi, miền biển… cái lợi của núi, của biển, khuếch trương những lợi đó cho dân) thì chẳng phải là ban ân huệ cho dân mà không hao tốn ư? Chọn việc phải làm và lúc nào đáng làm mà khiến cho dân làm, như vậy thì ai oán? Muốn có điều nhân mà được điều nhân thì còn gì mà tham? Người quân tử đối với dân, chẳng kể là đám đông hay ít, người lớn hay người nhỏ (có người dịch là chẳng kể việc lớn hay việc nhỏ), không dám khinh thường, trễ biếng, như vậy chẳng phải là thư thái mà không kiêu căng ư? Người quân tử mũ áo chỉnh tề, nhìn ngó đoan chính, dáng mạo trang trọng, ai trông thấy cũng kính sợ, như vậy chẳng phải uy nghiêm mà không dữ tợn ư?”. Tử Trương hỏi: “Thế nào là bốn điều xấu?”. Khổng tử đáp: “Không giáo hoá dân, để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược; không cắt đặt, răn bảo trước mà muốn có thành tích, như vậy là hung bạo; khi ra lệnh thì không bảo là cấp bách rồi đột nhiên bắt dân phải làm xong trong một kì hạn gấp, như vậy là hại dân; khi cho dân cái gì mà so đo bỏn xẻn với dân, như vậy là có thói nhỏ nhen của một viên chức thấp (hữu ti)”
[20.3]
子曰:「不知命,無以為君子也。不知禮,無以立也。不知言,無以知人也。」
XX.3
Tử viết: “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã; bất tri lễ, vô dĩ lập dã; bất tri ngôn, vô dĩ tri nhân dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Không biết mệnh trời thì không phải là người quân tử; không biết lễ thì không biết cách đi đứng ở đời (hoặc không biết lập thân trong chính đạo); không biết phân biệt lời nói của người thì không hiểu người”.

NHỮNG CÂU THƯỜNG DẪN
I
1. Hữu bằng tự viễn phương lai…

3. xảo ngôn lệnh sắc.

4. nhất nhật tam tĩnh ngô thân.

14. thực vô cầu bão…

16. bất hoạn nhân chi bất kỉ tri.

II.

1. vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần…

2. tư vô tà

3. thập ngũ chí ư học…

11. ôn cố tri tân

12. quân tử bất khí

15. học nhi bất tư tắc võng…

17. Tri chi vi tri chi…

24. kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã.

III.

1. thị khả nhẫn, thục bất khả nhẫn (bát dật)

4. lễ dữ kì xa ninh kiệm.

7. quân tử vô sở tranh, tất dã xạ hồ.

12. tế như tại.

13. hoạch tội ư thiên, vô sở cầu đảo.

14. Ngô tòng Chu.

21. Kí vãng bất cữu.

IV.

8. triêu văn đạo, tịch tử khả hĩ.

14. bất hoạn mạc tri kỉ.

15. ngô đạo nhất dĩ quán chi.

16. quân tử dụ ư nghĩa.

19. phụ mẫu tại, bất viễn du.

25. đức bất cô, tất hữu lân.

V.

9. hủ mộc bất khả điêu dã.

14. bất sỉ hạ vấn.

19. tam tư nhi hậu hành? Tái tư khả hĩ.

25. lão giả an chi.

VI.

19. trung nhân dĩ hĩ thượng khả hĩ ngứ thượng.

20. kính nhi viễn chi.

21. trí giả nhạo thuỷ…

23. cô bất cô…

28. kỉ dục lập nhi lập nhân năng cận thủ thí.

VII.

1. thuật nhi bất tác.

8. cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản.

11. tòng ngô sở hiếu.

15. phú quí như phù vân.

16. gia ngã sổ niên…

18. bất tri lão chi tương chí.

19. sinh nhi tri chi.

21. tam nhân hành tất hữu ngã sư.

34. Khâu chi đảo dã cửu dĩ hĩ.

36. quân tử thản đãng đãng.

VIII.

4. nhân chi tương tử, kì ngôn dã thiện.

9. dân khả sử do chi.

13. nguy bang bất nhập – bang vô đạo phú thả quí yên sỉ dã.

14. bất tại kì vị bất mưu kì chính.

IX.

4. Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã.

12. cầu thiện giá nhi cô chư.

13. hà lậu chi hữu.

16. thệ giả như tư phù.

17. vị kiến hiếu đức như hiếu sắc.

22. hậu sinh khả uý.

25. thất phu bất khả đoạt chí.

27. tri tùng bách chi hậu điêu.

XI.

11. vị năng sự nhân yên năng sự quỉ.

14. thăng đường, vị nhập thất…

15. quá do bất cập.

XII.

2. kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân.

5. tử sinh hữu mệnh – tứ hải chi nội giai huynh đệ.

7. dân vô tín bất lập.

8. tứ bất cập thiệt (như: nhất ngôn kí xuất tứ mã nan truy).

9. bách tín bất túc, quân thục dữ túc?

13. tất dã sử vô tụng hồ.

24. dĩ văn hữu hội, dĩ hữu phụ nhân.

XIII.

3. danh chính ngôn thuận.

15. nhất ngôn khả dĩ hưng bang.

17. dục tốc bất đạt, kiến tiểu lợi…

23. hoà nhi bất đồng.

XIV.

33. kí bất xưng kì lực, xưng kì đức dã.

39. tri kì bất khả vi nhi vi chi.

XV.

1. quân tử cố cùng.

2. vô vi nhi trị.

7. thất nhân thất ngôn.

8. sát thân dĩ thành nhân.

11. vô viễn lự tất hữu cận ưu.

19. tật một thế nhi danh bất xưng.

23. kỉ sở bất dục.

26. tiểu bất nhẫn tất loạn đại mưu.

28. nhân năng hoằng đạo…

38. hữu giáo vô loại.

39. đạo bất đồng bất tương vi mưu.

40. từ đạt nhi dĩ hĩ.

XVI.

1. bất hoạn quả nhi hoạn bất quân – dục chi nhi tất vi chi từ.

7. lão giới chi tại đắc.

9. sinh nhi tri chi.

13. bất học Thi vô dĩ ngôn.

XVII.

1. nhật nguyệt thệ hĩ, tuế bất ngã dư.

2. tính tương cận, tập tương viễn.

3. thượng trí, hạ ngu bất di.

4. cát kê, yên dụng ngưu đao.

14. vô sở bất chí.

19. thiền hà ngôn tai.

25. nữ tử nan dưỡng.

XVIII.

7. đạo chi bất hành dĩ tri chi hĩ.

8. vô khả vô bất khả.

10. vô cầu bị.

XIX.

20. quân tử ố cư hạ lưu.

25. quân tử nhất ngôn dĩ vi trí.

XX.

1. doãn chấp kì trung; vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung.

2. huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán. Bất giáo nhi sát, vị chi ngược.
__________________

Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

LUẬN NGỮ 2

THIÊN IX - TỬ HÃN - 子罕第九
[9.1]
子罕言,利,與命,與仁。
Tử hãn ngôn lợi dữ mệnh dữ nhân.
Dịch. – Khổng tử ít nói tới lợi, với mệnh và đạo nhân.
Chú thích. – Chu Hi hiểu như Trình tử và dẫn lời của Trình: “Tính tới lợi thì hại nghĩa, lí của mệnh huyền vi, mà đạo nhân rộng lớn, nên Khổng tử ít nói đến”. Nhưng nhiều người thắc mắc điều này: Trong Luận ngữKhổng tử nói về lợi đến sáu lần, về mệnh mười lần, về nhân cả trăm lần, sao bảo ít nói về nhân được?
1. Có người giảng: chữ “ngôn” (nói) ở đây không phải là lời Khổng tử nói trong khi dạy học (dạy thì ông nói rất nhiều về nhân – cả trăm chỗ); mà là “tự ngôn”, có nghĩa là lời ông nói trong đời sống hằng ngày, trong khi xử sự, hoặc lời ông nói về ông, ông ít xét tới lợi, vì ông chỉ theo nghĩa; ít nói tới thiên mệnh vì ông chủ trương sửa đổi xã hội là việc không thể làm được mà ông vẫn làm (tri kì bất khả vi nhi chi), chính Tử Cống cũng bảo không được nghe ông nói về đạo trời (bài V.12); còn ông ít nói tới nhân, nghĩa là ông không tự cho mình là nhân mà cũng ít khen ai là nhân. 
2. Vũ Đồng trong Trung Quốc triết học đại cương (Thương vụ ấn quán) và Triệu Thông (sách đã dẫn) giảng khác: Khổng tử ít nói về nhân trong dạy học, nhưng vì môn đệ coi đức nhân là quan trọng, nên lần nào thầy nói tới cũng ghi đủ, vì vậy mà trong Luận ngữ chúng ta mới thấy nhiều. Hai thuyết trên có thể tạm chấp nhận được. Ngoài ra còn những thuyết này nữa:
3. Chữ dữ ở đây phải hiểu là kèm với. Khổng tử ít nói lợi kèm với mệnh, với nhân.
4. Chữ dữ có nghĩa là rồi đến. Khổng tử ít nói tới lợi, rồi đến mệnh (nói đến mệnh nhiều hơn lợi) sau cùng đến nhân (nói đến nhân nhiều hơn cả).
5. Chữ dữ có nghĩa là hợp với. Khổng tử ít nói rằng lợi hợp với mệnh, với nhân, mà cho rằng lợi thường trái với mệnh, với nhân. Có người chấm câu sau chữ “lợi”, và dịch là: mà theo (dữ) mệnh trời theo điều nhân. Chữ “dữ” đó dùng như trong câu: “Ngô dữ Điểm” (Ta muốn theo anh Điểm, muốn như anh Điểm) trong bài XI.25.
6. Lại có người bảo chữ hãn ở đây phải đọc là hiên, nghĩa là rõ ràng, Khổng tử nói minh bạch về lợi, mệnh và nhân. Sai. Khổng tử có nói gì minh bạch về lợi, về nhân đâu.
[9.2]
達巷黨人曰,「大哉孔子,搏學而無所成名。」子聞之,謂門弟子曰,「吾何執?執御乎,執射乎?吾執御矣。」
Đạt hạng đảng nhân viết: “Đại tai Khổng tử! Bác học nhi vô sở thành danh. Tử văn chi, vị môn đệ tử viết: Ngô hà chấp”. Chấp ngự hồ? Chấp xạ hồ? Ngô chấp ngự hĩ”.
Dịch. – Có người trong đảng Đạt Hạng (thời đó 500 nhà là một đảng – cũng như làng xóm) bảo: “Ông Khổng tử thật là vĩ đại! Học vấn quảng bác, nhưng chẳng chuyên về một môn gì cả”. Khổng tử nghe được, nói với các đệ tử: “Ta chuyên về môn nào đây? Môn đánh xe, hay môn bắn cung? Ta sẽ chuyên về môn đánh xe”.
Chú thích. – Đánh xe cũng là một trong lục nghệ, nhưng chuyên đánh xe cho người là nghề thấp hèn nhất. Khổng tử nói đùa với môn sinh như vậy vì trong bài XIII.4 ông chê Phàn Trì “nhỏ nhen” khi xin ông dạy cho nghề nông, (nghề này cao hơn nghề đánh xe).
[9.3]
子曰:「麻冕,禮也。今也,純儉,吾從眾。拜下,禮也。今拜乎上,泰也,雖遠眾,吾從下。」
Tử viết: “Ma miện, lễ dã, kim dã thuần, kiệm, ngô tòng chúng. Bái Hạ, lễ dã, kim bái hồ thượng, thái dã; tuy vi[1] chúng, ngô tòng hạ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Đội mũ gai là theo lễ xưa, nay dùng mũ tơ rẻ hơn (vì đỡ tốn công hơn), nên ta theo số đông. Bề tôi bái yết vua thì mới đầu đứng ở dưới thềm mà bái, (rồi lên trên thềm rồi lại bái nữa), đó là lễ xưa; ngày nay lên đến trên thềm rồi mới bái, như vậy là kiêu mạn; cho nên tuy trái với số đông, ta vẫn bái từ dưới thềm”.
[9.4]
子絕四,毋意,毋必,毋固,毋我。
Tử tuyệt tứ, vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã.
Dịch. – Khổng tử bỏ hẳn bốn tật này: “vô ý” là xét việc gì thì không đem ý riêng (hoặc tư dục) của mình vào mà cứ theo lẽ phải; “vô tất”, tức không quyết rằng điều đ1 tất đúng, việc đó tất làm được; “vô cố”, tức không cố chấp; “vô ngã”, tức quên mình đi, không cho cái ta làm mờ ám (hoặc không ích kỉ mà phải chí công vô tư).
Chú thích. – Có nhà bàn thêm: vô ý là trí, vô tất là nghĩa, vô cố là lễ, vô ngã là nhân. Đúng.
[9.5]
子畏於匡。曰:「文王既沒,文不在茲乎。天之章喪斯文也。後死者不得與於斯文也。天之未喪斯文也。匡人其如予何。」
Tử úy ư Khuông, viết: “Văn vương kí một, văn bất tại tư hồ! Thiên chi tương táng tư văn dã, hậu tử giả bất đắc dữ ư tư văn dã. Thiên chi vị táng tư văn dã, Khuông nhân kì như dư hà?”
Dịch. – Khổng tử bị vây ở thành Khuông (nước Vệ), bảo: “Vua Văn vương mất rồi, lễ nhạc, chế độ của ông chẳng truyền lại cho ta sao! Trời mà muốn huỷ diệt văn hóa đó thì người sau đâu được thừa hưởng văn hóa đó; Trời mà chưa muốn huỷ diệt văn hóa đó thì người đất Khuông làm gì được ta?”. 
Chú thích. – Chuyện này chép trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Người đất Khuông ghét Dương Hổ (Luận ngữ gọi là Dương Hoá), gia thần họ Quí, thấy tướng mạo Khổng tử giống Dương Hổ nên muốn hãm hại; khi họ biết là lầm thì xin lỗi và thả ông ra.
[9.6]
大宰問於子貢曰:「夫子聖者與!何其多能也?」子貢曰:「固天縱之將聖,又多能也。」子聞之曰:「大宰知我乎?吾少也賤,故多能鄙事。君子多乎哉?不多也!」
牢曰:「子云:『吾不試,故藝。』
Thái tể vấn ư Tử Cống, viết: “Phu tử thánh giả dư? Hà kì đa năng dã?” Tử Cống viết: Cố thiên túng chi tương thánh, hựu đa năng dã”. Tử văn chi, viết: “Thái tể tri ngã hồ? Ngô thiểu dã tiện, cố đa năng bỉ sự. Quân tử đa hồ tai? Bất đa dã”. Lao viết: “Tử vân: “Ngô bất thí, cố nghệ”.
Dịch. – Một quan thái tể hỏi Khổng tử: “Phu tử (tức Khổng tử) phải là thánh chăng? Sao mà đa tài thế?” Tử Cống đáp: “”Trời rộng rãi muốn cho người làm thánh nhân, lại cho người nhiều tài”. Khổng tử nghe được, bảo: “Quan thái tể biết ta chăng? Ta hồi nhỏ nghèo hèn nên học được nhiều nghề bỉ lậu. Người quân tử có cần biết nhiều nghề không? Không cần”. Lao bảo: “Thầy ta có lần nói: “Ta vì không được dùng (được làm quan) cho nên học được nhiều nghề”.
Chú thích. – Lao là học trò Khổng tử, không biết họ gì.
[9.7] 子曰:「吾有知乎哉?無知也。有鄙夫問於我,空空如也;我叩其兩端而竭焉。」
Tử viết: “Ngô hữu tri hồ tai? Vô tri dã. Hữu bỉ phu vấn ư ngã, không không như dã, ngã khấu kì lưỡng đoan nhi kiệt yên”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Ta có biết rộng không? Không. Có người nhà quê nào lại hỏi ta, ta vốn không biết gì cả, nhưng ta hỏi đầu đuôi (hoặc mặt phải mặt trái) mối nghi ngờ của người đó, (do đó mà hiểu được) mà giảng giải hết cho”.
[9.8]
子曰:「鳳鳥不至,河不出圖,吾已矣乎!」
Tử viết: “Phượng điểu bất chí, hà bất xuất đồ, ngô dĩ hĩ phù[2]!”
Dịch. – “Chim phượng chẳng đến, bức đồ chẳng hiện trên sông Hoàng Hà, ta hết hi vọng rồi!”.
Chú thích. – Người Trung Hoa tin phượng là một linh điểu, vua Thuấn được người ta dâng một con, rồi tới đời Văn vương có chim phượng hót ở núi Kì. Bức đồ là bức có hình bát quái; thời Phục Hi, có con long mã đội nó trên lưng, hiện trên sông Hoàng Hà. Đó là những điềm thánh nhân xuất hiện. Khổng tử không thấy hai vật đó, cho rằng thánh vương không ra đời và đạo của ông không thể thi hành được.
[9.9]
子見齊衰者,冕衣裳者,與瞽者,見之雖少必作;過之必趨。」
Tử kiến tư thôi giả, miện y thường giả dữ cổ giả, kiến chi, tuy thiểu, tất tác, quá chi tất xô.
Dịch. – Khổng tử thấy người bận đồ sô gai (đồ tang), người bận lễ phục với người mù, thì những người đó dù nhỏ tuổi, ông cũng đứng dậy; đi qua mặt những người ấy thì ông rảo bước.
[9.10]
顏淵喟然歎曰:「仰之彌高,鑽之彌堅,瞻之在前,忽焉在後!夫子循循然善誘人:搏我以文,約我以禮。欲罷不能,既竭吾才,如有所立,卓爾;雖欲從之,末由也已!」
Nhan Uyên vị nhiên thán viết: “Ngưỡng chi di cao, toàn chi di kiên, chiêm chi tại tiền, hốt yên tại hậu. Phu tử tuần tuần nhiên thiện dụ nhân. Bác ngã dĩ văn, ước ngã dĩ lễ, dục bãi bất năng. Kí kiệt ngô tài, như hữu sở lập trác nhĩ, tuy dục tòng chi, mạt do dã dĩ”.
Dịch. – Nhan Uyên bùi ngùi khen: “Đạo (thầy ta) càng ngửng lên trông càng thấy cao, càng đục càng cứng, mới thấy ở trước mặt, bỗng hiện ở sau lưng. Thầy tuần tự mà khéo dẫn dụ người. Thầy dùng thư tịch mà mở rộng tri thức ta, dùng lễ tiết ước thúc hành vi ta, dù ta có muốn thôi cũng không được. Ta tận dụng năng lực mà cơ hồ vẫn thấy có cái gì cao lớn sừng sững ở phía trước, ta muốn theo lên tới cùng mà không sao theo cho nổi”.
[9.11]
子疾病,子路使門人為臣,病聞,曰:「久矣哉,由之行詐也!無臣而為有臣,吾誰欺?欺天乎?且予與其死於臣之手也,無甯死於二三子之手乎!且予縱不得大葬,予死於道路乎?」
Tử tật bệnh. Tử Lộ sử môn nhân vi thần. Bệnh gián. Viết: “Cửu hĩ tai, Do chi hành trá dã. Vô thần nhi vi hữu thần. Ngô thùy khi? Khi thiên hồ? Thả dư dữ kì tử ư thần chi thủ dã, vô ninh tử ư nhị tam tử chi thủ hồ? Thả dư túng bất đắc đại táng, dư tử ư đạo lộ hồ?”.
Dịch. – Khổng tử đau nặng. Tử Lộ bảo anh em đồng môn làm gia thần (hộ tang nếu Khổng tử mãn phần). Khi bệnh giảm, Khổng tử (mới hay truyện đó) bảo: “Lâu[3] rồi, anh Do làm chuyện lừa dối đó! Nay ta không có gia thần[4] mà làm như có gia thần. Như vậy là dối ai, dối Trời chăng? Vả lại, ta chết trong tay gia thần, đâu bằng chết trong tay các trò?” Vả lại, không được đại táng, chẳng hơn chết dọc đường dọc xá ư?”[5]
[9.12]
子貢曰:「有美玉於斯,韞匵而藏諸?求善賈而沽諸?」子曰:「沽之哉!沽之哉!我待賈者也!」
Tử Cống viết: “Hữu mĩ ngọc ư tư, uẩn độc nhi tàng chư? Cầu thiện cổ[6] nhi cô chư? Tử viết: “Cố chi tai, cố chi tai, ngã đãi cổ giả dã”.
Dịch. – Tử Cống nói: “Có viên ngọc đẹp ở đây, nên bỏ vào hộp mà cất đi chăng? Hay cầu có thương nhân tốt mà bán đi?” Khổng tử đáp: “Bán đi chứ, bán đi chứ! Ta đợi có thương nhân đây”.
[9.13]
子欲居九夷。或曰:「陋,如之何?」子曰:「君子居之,何陋之有!」
Tử dục cư cửu di. Hoặc viết: “Lậu, như chi hà?” Tử viết: “Quân tử cư chi, hà lậu chi hữu?”
Dịch. – Khổng tử (chán ngán) muốn qua các dân tộc kém văn minh miền Đông. Có người bảo: “Các nơi đó bỉ lậu, làm sao ở được?” Ông đáp: “Người quân tử lại ở (giáo hoá họ) thì còn gì bỉ lậu nữa?”
[9.14]
子曰:「吾自衛反魯,然後樂正,雅頌,各得其所。」
Tử viết: Ngô tự Vệ phản Lỗ, nhiên hậu nhạc chính Nhã, Tụng các đắc kỳ sở”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Ta từ Vệ trở về Lỗ, rồi mới đính chính lại nhạc, mà nhạc Nhã và Tụng được diễn tấu đúng âm luật”.
Chú thích. – Hồi này Khổng tử trên 69 tuổi. Nhã, Tụng là những loại thi trong Kinh Thi, mà cũng là những nhạc điệu. Có người hiểu là Khổng tử sắp đặt lại những thiên Nhã, Tụng trong Kinh Thi, hoặc định lại trong trường hợp nào nên tấu những nhạc Nhã, Tụng.
[9.15]
子曰:「出則事公卿,入則事父兄,喪事不敢不勉,不為酒困;何有於我哉!」
Tử viết: “Xuất tắc sự công khanh, nhập tắc sự phụ huynh, tang sự bất cảm bất miễn, bất vi tửu khốn, hà hữu ư ngã tai?”
Dịch. – Khổng tử nói: “Ra làm quan thì thờ bậc công khanh (các đại thần chấp chính), ở nhà thì thờ cha mẹ, việc tang không dám không làm tròn lễ, không để cho rượu làm loạn tính, bốn điều đó ta làm được điều nào không?”
[9.16]
子在川上曰:「逝者如斯夫!不舍晝夜。」
Tử tại xuyên thượng viết: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ”.
Dịch. – Khổng tử đứng trên bờ sông, nói: “Nước chảy đi hoài, ngày đêm không ngừng”.
Chú thích. – Có thể hiểu là thời gian trôi đi hoài, đừng nên bỏ lỡ; hoặc: đạo trời, vạn vật biến hoá hoài.
[9.17]
子曰:「吾未見好德,如好色者也。」
Tử viết: “Ngô vị kiến hiếu đức nhi hiếu sắc giả dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Ta chưa thấy ai hiếu đức bằng hiếu sắc”.
[9.18]
子曰:「譬如為山,未成一簣;止,吾止也!譬如平地,雖覆一簣;進,吾往也!」
Tử viết: “Thí như vi sơn, vị thành nhất quĩ, chỉ, ngô chỉ dã. Thí như bình địa, tuy phác nhất quĩ, tiến, ngô tiến[7] dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Ví như đắp núi, chỉ còn thiếu một sọt nữa là ngừng, là tại ta muốn ngừng vậy. Ví như tại trên đất bằng[8], tuy mới đổ xuống một sọt, mà tiếp tục đổ nữa, lại tại ta muốn tiếp tục vậy”.
[9.19]
子曰:「語之而不惰者,其回也與?」
Tử viết: “Ngữ chi nhi bất nọa giả, kì Hồi dã dư?”
Dịch. – Khổng tử nói: “Giảng dạy cho mà thi hành không trễ nhác, thì chỉ có anh Nhan Hồi chăng?”
[9.20]
子謂顏淵曰:「惜乎!吾見其進也,吾未見其止也!」
Tử vị Nhan Uyên viết: “Tích hồ! Ngô kiến kì tiến dã, vị kiến kì chỉ dã”.
Dịch. – Khổng tử nói về Nhan Uyên: “Tiếc thay (vì Nhan Uyên yểu)! Ta chỉ thấy anh ấy tiến (trên đường đạo lí) mà chưa hề thấy ngừng”.
[9.21]
子曰:「苗而不秀者,有矣夫!秀而不實者,有矣夫!」
Tử viết: “Miêu nhi bất tú giả, hữu hĩ phù! Tú nhi bất thực giả, hữu hĩ phú!”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Lúa mọc lên mà chẳng trổ bông, đã có như vậy rồi! Trổ bông mà không thành hạt, cũng có như vậy rồi!”
[9.22]
子曰:「後生可畏,焉知來者之不如今也?四十五十而無聞焉,斯亦不足畏也已!」
Tử viết: “Hậu sinh khả úy, yên tri lai giả chi bất như kim dã? Tứ thập, ngũ thập nhi vô văn yên, tư diệc bất túc úy dã dĩ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Đừng sợ bọn trẻ, biết đâu sau này họ chẳng hơn mình bây giờ? Nhưng khi họ bốn chục, năm chục tuổi mà không có chút danh vọng gì, thì chẳng đáng sợ nữa”.
[9.23]
子曰:「法語之言,能無從乎?改之為貴!巽與之言,能無說乎?繹之為貴!說而不繹,從而不改,吾末如之何也已矣!」
Tử viết: “Pháp ngữ chi ngôn, năng vô tòng hồ? Cải chi vi quí. Tốn dữ chi ngôn, năng vô duyệt hồ? Dịch chi vi quí. Duyệt nhi bất dịch, tòng nhi bất cải, ngô mạt như chi hà dã dĩ hĩ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người ta lấy lời phải nghiêm chính răn mình thì làm sao không nghe cho được? Nhưng nghe để tự sửa đổi mới là quí. Người ta lấy lời kính thuận tán thành mình, thì làm sao mà không vui lòng được? Nhưng nghe rồi mà suy xét người ta có hàm ý gì (nghĩa là lời khen có đúng không) thì mới là quí. Vui lòng mà không suy xét, nghe mà không sửa mình, hạng người đó ta chẳng biết dạy cách nào nữa”.
[9.24]
子曰:「主忠信。毋友不如己者。過,則勿憚改。」
Bài này trùng với bài I.8[9].
[9.25]
子曰:「三軍可奪師也,匹夫不可奪志也。」
Tử viết: “Tam quân khả đoạt soái dã, thất phu bất khả đoạt chí dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Có thể (dùng sức mạnh) bắt được một vị nguyên soái, chứ chí hướng của một thường dân thì không (dùng sức mạnh mà) đoạt nổi”.
[9.26]
子曰:「衣敝縕,與衣孤貉者立,而不恥者,其由也與!『不忮不求,何用不臧?』」子路終身誦之。子曰:「是道也,何足以臧!」
Tử viết: “Y tệ uẩn bào, dữ y hồ hạc giả lập, nhi bất sỉ giả, kì Do dã dư! Bất chí bất cầu, hà dụng bất tang?” Tử Lộ chung thân tụng chi. Tử viết: “Thị đạo dã, hà túc dĩ tang”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Bận áo bằng vải cũ đứng chung với người bận áo bào bằng da con chồn (hồ), con lạc[10] mà không xấu hổ, đó là anh Do chăng?”[11]. “Chẳng đố kị, chẳng tham cầu, làm việc gì (trong hoàn cảnh nào) mà chẳng tốt?”[12]. Tử Lộ ngâm hoài câu đó. Khổng tử bảo: “Cái đại đạo đó, đã đủ gì mà gọi là (hoàn toàn) tốt?”.
[9.27]
子曰:「歲寒,然後知松柏之後彫也。」
Tử viết: “Tuế hàn, nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Tới mùa đông lạnh lẽo, mới biết loài tùng, bách còn đủ cành lá”.
[9.28]
子曰:「知者不惑;仁者不憂;勇者不懼。」
Tử viết: “Trí giả bất hoặc, nhân giả bất ưu, dũng giả bất cụ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người trí thì không mê hoặc, người nhân thì không lo, người dũng thì không sợ”.
[9.29]
子曰:「可與共學,未可與適道;可與適道,未可與立;可與立,未可與權。」
Tử viết: “Khả dữ cộng học, vị khả dữ thích đạo; khả dữ thích đạo, vị khả dữ lập; khả dữ lập, vị khả dữ quyền”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Có hạng người mình có thể cùng học với họ, mà vị tất đã có thể cùng đi vào chính đạo với họ; có thể cùng đi vào chính đạo với họ, mà vị tất đã có thể đứng vững trong chính đạo với họ; có thể đứng vững trong chính đạo với họ, mà vị tất đã có thể theo phép quyền biến với họ”.
[9.30]
「唐棣之華,偏其反而;豈不爾思?室是遠而。」子曰:「未之思也,未何遠之有?」
“Đường lệ chi hoa, thiên kì phiên nhi. Khởi bất nhĩ ti, thất thị viễn nhi”. Tử viết: “Vị chi tư dã, phù hà viễn chi hữu”.
Dịch. – “Những đoá hoa trên cây đường lệ, nghiêng ngả, lung lay. Tôi há chẳng nhớ em sao? Ngặt nỗi tôi ở xa quá (không tới được)”[13]. Khổng tử đọc bốn câu đó và bảo: “Như vậy là chưa thật là tưởng nhớ, (nếu thật là tưởng nhớ) thì có ngại gì xa?”.

THIÊN X -HƯƠNG ĐẢNG - 鄉黨第十
[10.1]
孔子於鄉黨,恂恂如也,似不能言者。其在宗廟朝廷,便便然;唯謹爾。
Khổng tử ư hương đảng, tuân tuân như dã, tự bất năng ngôn giả; kì tại tôn miếu, triều đình, biền biền ngôn, duy cẩn nhĩ.
Dịch. – Khổng tử ở làng xóm thì cung thuận, tựa như không biết ăn nói; ở tại tôn miếu, triều đình thì biện luận rành rẽ mà rất cẩn thận.
[10.2]
朝與下大夫言,侃侃如也;與上大夫言,誾誾如也。君在,踧踖如也,與與如也。
Triều, dữ hạ đại phu ngôn, khản khản như dã; dữ thượng đại phu ngôn, ngân ngân như dã. Quân tại, thúc tích như dã, dư dư như dã.
Dịch. – Khổng tử nói: Ở triều đình, nói với các quan hạ đại phu thì hoà nhã vui vẻ; nói với các quan thượng đại phu thì nghiêm túc, chính trực. Khi vua lâm triều thì ông cung kính, có vẻ như không an tâm, không mất vẻ uy nghi.
Chú thích. – Thiên này nhiều từ cổ: tuân tuân, biền biền, khản khản, ngân ngân, dư dư… mỗi sách giảng mỗi khác. Đại khái chúng tôi theo Chu Hi.
[10.3]
君召使擯,色勃如也。足躩如也,揖所與立,左右手,衣前後,檐如也。趨進,翼如也。賓退,必復命,曰:「賓不顧矣。」
Quân triệu sử tẫn, sắc bột như dã, túc quắc (hoặc giác) như dã. Ấp sở dữ lập, tả hữu thủ, y tiền hậu xiêm như dã. Xô tiến, dực như dã. Tân thoái, tất phục mệnh viết: “Tân bất cố hĩ”.
Dịch. – Khi vua (Lỗ) triệu ông tiếp khách (nước ngoài) thì ông biến sắc, chân bước run run, khách cùng đứng với ông thì ông chấp tay vái người bên tả, người bên hữu; vạt trước, vạt sau của áo phiêu động khi ông cúi, ngửng, ông rảo bước tiến tới (có sách dịch là khi đưa khách vào, ông đi mau), hai cánh tay đưa ra thẳng như cánh chim. Khách lui rồi, ông tất vào tâu với vua: “Khách không quay đầu lại (đã đi rồi).
[10.4]
入公門,鞠躬如也,如不容。立不中門,行不履閾。過位,色勃如也,足躩如也,其言似不足者。攝齊升堂,鞠躬如也,屏氣似不息者。出降一等,逞顏色,怡怡如也;沒階趨進,翼如也;復其位,踧踖如也。
Nhập công môn, cúc cung như dã, như bất dung. Lập bất trung môn, hành bất lí vực. Quá vị, sắc bột như dã, túc quắc như dã, kì ngôn tự bất túc giả. Nhiếp tư thăng đường, cúc cung như dã, bình khí tự bất tức giả. Xuất giáng nhất đẳng, sính nhan sắc, di di như dã. Một giai, xô tiến, xô dực như dã, phục kì vị, túc tích như dã.
Dịch. – Khi vô cửa lớn của triều đình, ông khom khom như cửa thấp quá. Ông không đứng ở giữa cửa, khi đi, không dẫn lên ngạch cửa. Đi ngang qua ngai vua (ngai trống), ông biến sắc, chân bước run run, nói chẳng ra lời. Khi ông vén áo bước lên thêm, ông khom khom, nín hơi như nín thở. Khi lui, bước xuống một bực, sắc mặt ông lại hoà hoãn vui vẻ. Xuống đến bực cuối, ông đi mau, hai cánh tay đưa thẳng ra như cánh chim. Trở về chỗ cũ thì ông lại cung kính, có vẻ như không yên tâm.
[10.5]
執圭,鞠躬如也;如不勝。上如揖,下如授,勃如戰色,足蹜蹜如有循。享禮,有容色;私覿,愉愉如也。
Chấp khuê, cúc cung như dã, như bất thắng, thượng như ấp, hạ như thụ, bột như chiến sắc, túc súc súc như hữu tuần. Hưởng lễ, hữu dong sắc, tư địch (hoặc tịnh) du du như dã.
Dịch. – Khi đi sứ nước ngoài, cầm thẻ ngọc khuê thì ông khom khom như bưng chẳng nổi, đưa ngọc lên tới đầu như vái chào, hạ xuống tới ngực như trao cho ai. Ông biến sắc như sợ sệt, chân ren rén bước từng bước như noi theo một vật gì. Khi dâng lễ vật, thì dáng mạo ôn hoà. (Lễ xong rồi) lấy tư cách tư nhân yết kiến vua quan nước ngoài thì vẻ mặt thoải mái, vui vẻ.
[10.6]
君子不以紺緅飾,紅紫不以為褻服;當暑,袗絺綌,必表而出之。緇衣羔裘,素衣麑裘,黃衣狐裘。褻裘長,短右袂。(必有寢衣,長一身有半。)厚以居去。喪無所不佩。非帷裳,必殺之。羔裘玄冠,不以弔。吉月,必朝服而朝。
Quân tử bất dĩ cám tru[1] sức, hồng tử bất dĩ vi tiết phục. Đương thử, chẩn hi khích, tất biểu nhi xuất chi. Truy y cao cừu, tố y nghê cừu, hoàng y hồ cừu. Tiết cừu trường, đoản hữu duệ. Tất hữu tẩm y, trường nhất thân hữu bán[2]. Hồ lạc chi hậu dĩ cư. Khứ tang, vô sở bất bội. Phi duy thường, tất sái chi, cao cừu, huyền quan, bất dĩ điếu. Cát nguyệt, tất triều phục nhi triều .
Dịch. – Người quân tử (trỏ Khổng tử) không dùng đồ trang sức (y phục) màu “cám” và màu “tru” (cả hai màu đó đều xanh đậm pha màu hồng, màu tru tối hơn và đều giống màu huyền, màu của lễ phục, vì vậy nên tránh để dùng trang sức); y phục thường ngày không dùng màu hồng và màu tía (vì giống với màu đỏ (xích), không phải chính sắc). Mùa nực, bận áo đơn bằng vải mỏng ở ngoài áo lót. Mùa rét, mặc áo đen ở ngoài với áo lông nghê (hưu con, lông trắng) ở trong; hoặc áo dài vàng ở ngoài với áo lông chồn màu vàng ở trong. Áo lông tuy dài, nhưng tay áo bên phải ngắn hơn bên trái (để dễ làm việc). Phải có áo ngủ (mềm nhỏ) dài gấp rưỡi thân người. Có nệm ngồi bằng da con chồn, con lạc dày. Cởi bỏ tang phục rồi, thì những đồ lặt vặt dắt vào dây lưng. Không phải là lễ phục, thì quần cắt ngắn bớt đi. Đi điếu tang, không bận áo lông dê đen, không đội mũ đen. Ngày nguyên đán (nguyên văn là cát nguyệt[3], có người dịch là ngày mùng một mỗi tháng), mặc trào phục để chầu vua.
[10.7]
齊,必有明衣,布;必有寢衣,長一身有半。
Trai, tất hữu minh y, bố, tất biến thực, cư tất thiên tọa.
Dịch. – Lúc trai giới, tất dùng áo tinh khiết, bằng vải, tất đổi thức ăn, đổi chỗ ở.
[10.8]
食不厭精,膾不厭細。食饐而餲魚餒而肉敗,不食。色惡不食,臭惡不食。失飪不食,不時不食。割不正不食,不得其醬不食。肉雖多,不使勝食氣;唯酒無量,不及亂。沽酒,市脯,不食。不撤薑食。不多食。祭於公,不宿肉。祭肉,不出三日;出三日,不食之矣。食不語,寢不言。雖疏食,菜羹,瓜祭,必齊如也。
Tự bất yếm tinh, khoái bất yếm tế. Tự ế nhi ái, ngư nỗi nhi nhục bại bất thực. Sắc ác bất thực, xú ác bất thực. Thất nhẫm bất thực, bất thời bất thực. Cát bất chính bất thực, bất đắc kì tương bất thực. Nhục tuy đa, bất sử thắng tự khí. Duy tửu vô lượng, bất cập loạn. Cô tửu, thị bô, bất thực. Bất triệt khương thực. Bất đa thực. Tế ư công, bất túc nhục. Tế nguyệt bất xuất tam nhật, xuất tam nhật, bất thực chi hĩ. Thực bất ngữ, tẩm bất ngôn. Tuy sơ tự, thái canh, tất tế[4], tất trai như dã.
Dịch. – Cơm càng trắng tinh càng tốt, (càng thích), gỏi thái còn nhỏ càng tốt. Cơm hẩm và thiu, cá ươn mà thịt đã nhão thì không ăn. (Thức ăn mà) sắc đã biến, hư rồi, không ăn; mùi hôi cũng không ăn. (Có sách dịch là những vật trái mùa). Cắt không ngay ngắn (hoặc không đúng cách), không ăn. Nước chấm không thích hợp, không ăn. Dù có thịt, (Khổng tử) cũng ăn ít thịt hơn cơm. Duy có rượu là không hạn chế, nhưng không uống tới say. Rượu bán ở cửa hàng, không uống, thịt mua ở chợ, không ăn. Bữa nào cũng ăn gừng. Không ăn tới quá no. Tế ở công miếu rồi, được phần thịt thì ông phân phát ngay, không để cách đêm. (Vì thịt tế vào buổi sáng thì làm vào hôm trước, nếu để cách đêm nữa, qua ngày hôm sau là ba ngày, thịt ôi đi). Thịt cúng tổ tiên, không để quá ba ngày, quá ba ngày thì không ăn. Khi ăn, không đàm luận, khi ngủ không nói chuyện. Tuy là cơm thô, canh rau, mà trước khi ăn cũng cung kính cúng vái như lúc trai giới.
[10.9]
席不正不坐。
Tịch bất chính bất tọa.
Dịch. – Chiếu trải không ngay, không ngồi.
[10.10]
鄉人飲酒,杖者出,斯出矣。鄉人儺,朝服而立於阼階。
Hương nhân ẩm tửu, trượng giả xuất, tư xuất hĩ. Hương nhân na, triều phục nhi lập ư tạc giai.
Dịch. – Dự tiệc với người làng, ông đợi các ông lão chống gậy bước ra rồi mới ra. Trong làng làm lễ “na” (lễ tống ôn dịch) ông bận triều phục đứng ở trên thêm phía đông mà dự lễ.
[10.11]
問人於他邦,再拜而送之。康子饋藥,拜而受之,曰:「丘未達,不敢嘗。」
Vấn nhân ư tha bang[5], tái bái nhi tống chi. Khang tử quĩ dược, bái nhi thụ chi. Viết: “Khâu vị đạt, bất cảm thường”. 
Dịch. – Nhắn ai hỏi thăm bạn ở nước ngoài thì khi tiễn hành, ông vai hai vái. (một: vái người ông nhắn, hai: vái bạn ở xa). (Quí) Khang tử tặng thuốc uống, ông vái, nhận, rồi nói với người đem thuốc: “Khâu tôi chưa hiểu tính chất của thuốc này, không dám uống”.
[10.12]
廄焚,子退朝,曰:「傷人乎?」不問馬。
Khải phần. Tử thoái triều, viết: “Thương nhân hồ?”, bất vấn mã”.
Dịch. – Chuồng ngựa cháy. Khổng tử ở triều về, hỏi: “Có ai bị thương không?”, chứ không hỏi ngựa.
[10.13]
君賜食,必正席先嘗之。君賜腥,必熟而薦之。君賜生,必畜之。侍食於君;君祭,先飯。疾,君視之,東首加朝服拖紳. 君命召,不俟駕行矣。
Quân tứ thực, tất chính tịch tiên thường chi. Quân tứ tinh, tất thục nhi tiến chi. Quân tứ sinh, tất súc chi. Thị thực ư quân, quân tế, tiên phạn. Tật, quân thị chi, đông thủ, gia triều phục, đà thân. Quân mệnh triệu, bất sĩ giá hành hĩ.
Dịch. – Vua ban cho thức ăn đã nấu chín là lên ngồi giữa chiếu mà nếm trước. Vua ban cho thịt tươi thì cho nấu chín, cúng tổ tiên rồi mới ăn. Vua ban cho động vật còn sống thì nuôi. Hầu cơm vua, khi vua rót rượu vái tổ tiên, ông nếm thử thức ăn trước, như mình có trách nhiệm săn sóc món ăn. Ông đau, vua đến thăm thì ông quay đầu về hướng đông, đắp triều phục, đặt chiếc đai (thắc lưng) lên mình. Vua có lệnh vời, ông không đợi thắng xe mà đi bộ ngay.
Chú thích.- Thời đó, ở trong nhà thì lấy hướng tây làm trọng, ông quay mặt về hướng đông, tức để vua quay mặt về hướng tây mà hỏi thăm ông[6].
[10.14]
入大廟,每事問。
(Bài này trùng với bài III.15, nên không dịch lại)[7].
[10.15]
朋友死,無所歸,曰:「於我殯。」朋友之饋,雖車馬,非祭肉,不拜。
Bằng hữu tử, vô sở qui, viết: “Ư ngã tẫn”. Bằng hữu chi quĩ, tuy xa mã, phi tế nhục, bất bái”
Dịch.- Bạn bè mất mà không có người thân thích lo cho, thì ông bảo: “Đem về nhà tôi tẩm liệm”. Bạn bè tặng vật gì nếu không phải là thịt tế, thì dù là vật quí như xe, ngựa, ông cũng không vái khi nhận.
[10.16]
寢不尸,居不容。見齊衰者,雖狎必變。見冕者與瞽者,雖褻必以貌。凶服者式之;式負版者,有盛饌,必變色而作。迅雷、風烈必變。
Tẩm bất thi, cư bất dung[8]. Kiến tư thôi giả, tuy hiệp, tất biến, kiến miện giả dữ cổ giả, tuy tiết tất dĩ mạo. Hưng phục giả, thức chi. Thức phụ bản giả. Hữu thịnh soạn, tất biến sắc nhi tác. Tấn lôi, phong liệt, tất biến.
Dịch.- Ngủ thì không nằm ngửa duỗi tay chân như người chết. Ở nhà, không có dung nghi (như ở triều), mà rất tự nhiên. Thấy người mặc đồ tang, dù quen biết, cũng đổi sắc diện (tỏ vẻ thượng xót). Thấy người đội mão lễ và người mù, tuy thường gặp, cũng tỏ ra lễ mạo. Ngồi xe, thấy người đi đưa ma, ông vịn vào cây ngang ở trước xe mà cúi đầu chào; thấy người mang bản đồ quốc gia và sổ hộ khẩu, ông cũng làm như vậy. Khi thấy (chủ nhân dọn) tiệc lớn (đãi mình) ông đổi sắc (tỏ vẻ cảm động) đứng dậy cảm tạ. Khi sấm to gió lớn, ông biến sắc.
[10.17]
升車,必正立,執綏。車中不內顧,不疾言,不親指。
Thăng xa, tất chính lập, chấp tuy. Xa trung bất nội cố, bất tật ngôn, bất thân chỉ.
Dịch.- Khi lên xe thì đứng ngay ngắn, rồi nắm lấy sợi dây để bước lên. Ngồi xe, không quay đầu lại, không nói nhanh và không chỉ trỏ.
[10.18]
色斯舉矣,翔而後集。曰:「山梁雌雉,時哉時哉!」子路共之,三嗅而作。
Sắc tư cử hĩ, tường nhi hậu tập. Viết: “Sơn lương thư trĩ, thời tai, thời tai! Tử Lộ củng[9] chi, tam khứu nhi tác.
Dịch.- Con chim thấy người, kinh sợ bay đi (có người giảng là: thấy người có vẻ dữ tợn, nên bay đi); nó liệng mấy vòng (xem chừng) rồi mới xuống. (Khổng tử) nói: “Con trĩ mái đậu ở trên cầu Sơn cốc kia, biết thời cơ lắm, biết thời cơ lắm!” Tử lộ chấp tay hướng về nó, nó kêu ba tiếng bay đi.
THIÊN XI - TIÊN TIẾN -  先進第十一
[11.1]
子曰:「先進於禮樂,野人也;後進於禮樂,君子也。如用之,則吾從先進。」
Tử viết: “Tiên tiến ư lễ nhạc, dã nhân dã; hậu tiến ư lễ nhạc, quân tử dã. Như dụng chi, tắc ngô tòng tiên tiến”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Về lễ nhạc, người đời xưa bị người đời nay coi là quê mùa; về lễ nhạc, người đời xưa được người đời nay khen là quân tử (toàn thiện). Dùng lễ nhạc thì ta theo người xưa”.
Chú thích. – Chúng tôi theo cách hiểu của Trình tử và Chu tử mà dịch như trên. “Tiên tiến” trỏ người đầu đời Chu, thời đó theo Khổng tử nhạc có văn lẫn chất (tức như nội dung lẫn hình thức tốt). “Hậu tiến” trỏ người thời Chu đã suy, nhạc trọng văn hơn chất. Người thời Khổng tử thích văn hơn chất, nên cho lễ nhạc ngày xưa là quê mùa, mà khen lễ nhạc đời sau đẹp đẽ. Khổng tử ngược lại, thích văn hơn chất, nên theo lễ nhạc của người xưa. Có thuyết cho rằng “tiên tiến” trỏ[1] người học lễ nhạc rồi mới làm quan, tức hạng bình dân, như đa số các môn sinh của Khổng. “Hậu tiến”, trỏ giới quí tộc do đặc quyền mà làm quan sớm, rồi sau mới học lễ nhạc. Khổng tử có dùng nhân tài thì dùng hạng trên (bình dân) tức kẻ sĩ, chứ không dùng hạng dưới (quí tộc). Hai chữ dụng chi [用之] thuyết này hiểu là dùng người, chứ không phải dùng lễ nhạc như Trình, Chu giải thích. Thuyết này mới mẻ, cũng chấp nhận được.
[11.2]
子曰:「從我於陳蔡者,皆不及門也。」德行:顏淵、閔子騫、冉伯牛、仲弓;言語:宰我、子貢;政事:冉有、李路;文學:子游、子夏。
Tử viết: “Tòng ngã ư Trần, Thái giả, giai bất cập môn dã”. Đức hạnh: Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung; ngôn ngữ: Tể Ngã, Tử Cống; chính sự: Nhiễm Hữu, Quí Lộ; văn học: Tử Du, Tử Hạ.
Dịch.- Khổng tử nói: “Những môn sinh theo ta (chịu khốn) ở nước Trần, nước Thái, nay không còn học ta nữa”. Đức Hạnh (đáng khen nhất) có Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung; giỏi ăn nói, từ lệnh có Tể Ngã, Tử Cống; giỏi về chính trị có Nhiễm Hữu, Quí Lộ; giỏi về văn học có Tử Du, Tử Hạ.
Chú thích. – Đoạn sau từ “Đức hạnh…” không phải là lời Khổng tử. Mười môn sinh kể trong đoạn đó chưa chắc đều đã theo Khổng tử qua Trần và Thái.
[11.3]
子曰:「回也,非助我者也!於吾言,無所不說。」
Tử viết: “Hồi dã, phi trợ ngã giả dã, ư ngô ngôn vô sở bất duyệt”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Anh Hồi không giúp ta được điều gì, lời giảng nào của ta, anh ấy cũng thích”. (Ý nói Nhan Hồi không nghi hoặc, chất vấn gì cả, không gợi thêm ý gì cho Khổng tử cả).
[11.4]
子曰:「孝哉閔子騫,人不間於其父母皆弟之言。」
Tử viết: “Hiếu tai Mẫn Tử Khiên! Nhân bất gian ư kì phụ mẫu, côn đệ chi ngôn”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Anh Mẫn Tử Khiên thật là hiếu thuận! Cha mẹ, anh em trong nhà đều khen anh hiếu thuận mà người ngoài cũng nhận vậy là đúng”.
[11.5]
南容三復白圭,孔子以其兄之子妻之。
Nam Dung tam phục Bạch Khuê. Khổng tử dĩ kì huynh chi tử thê chi”.
Dịch.- Nam Dung ưa đọc đi đọc lại thư Bạch Khuê. Khổng tử đem con gái anh mình gả cho.
Chú thích. – Thơ Bạch Khuê trong thiên Đại nhãKinh Thi, đại ý bảo: “Cái vết trong ngọc Khuê trắng, có thể mài bỏ đi, chứ điểm xấu trong lời nói, không thể chữa được”. Khổng tử khen Nam Dung biết giữ gìn lời nói. Coi thêm bài V.1.
[11.6]
李康子問:「弟子孰為好學?」孔子對曰:「有顏回者好學,不幸短命死矣!今也則亡。」
Quí Khang tử vấn: “Đệ tử thục vi hiếu học?” Khổng tử đối viết: “Hữu Nhan hồi giả hiếu học, bất hạnh đoản mệnh tử hĩ, kim dã tắc vô”. 
Chú thích. – Bài này như hệt bài VI.2, chỉ khác bài VI.2 chép là Ai công hỏi, và có thêm mấy chữ “bất nộ, bất nhị quá” ở sau: “Hữu Hồi giả hiếu học”, và mấy chữ: “vị văn hiếu học dã” ở cuối bài. Vì vậy không cần phải dịch lại.
[11.7]
顏淵死,顏路請子之車以為之椁。子曰:「才不才,亦各言其子也。鯉也死,有棺而無椁;吾不徒行,以為之椁,以吾從大夫之後,不可徒行也。」
Nhan Uyên tử, Nhan Lộ thỉnh tử chi xa dĩ vi chi quách. Tử viết: “Tài bất tài, diệc các ngôn kì tử dã. Lí dã tử hữu quan nhi vô quách. Ngô bất đồ hành dĩ vi chi quách. Dĩ ngô tòng đại phu chi hậu, bất khả đồ hành dã”.
Dịch.- Nhan Uyên chết, Nhan Lộ (cha Nhan Uyên, mà cũng là học trò Khổng tử) xin chiếc xe của Khổng tử để bán mà mua quách chôn con. Ông bảo: “Nó có tài hay bất tài thì cũng chỉ là con thôi. Con ruột của ta là Lí (tự là Bá Ngư) chết, cũng chỉ dùng quan (ở trong) mà không dùng quách cho nó (ở ngoài). Không lẽ ta đi bộ, bán xe đi mà mua quách cho nó (Nhan Uyên). Ta theo sau hàng đại phu, nên không lẽ đi bộ”.
Chú thích. – Khổng tử có hồi làm đại phu nước Lỗ, lúc này không làm quan nữa, nhưng vẫn giữ hàm đại phu. Nói “theo sau hàng đại phu” là nói nhũn.
[11.9]
顏淵死,子曰:「噫!天喪予!天喪予!」
Nhan Uyên tử, Tử viết: “Y thiên táng dư, thiên táng dư!”.
Dịch.- Nhan Uyên chết. Khổng tử than: “Ôi! Trời hại ta, trời hại ta!”.
[11.10]
顏淵死,子哭之慟。從者曰:「子慟矣!」曰:「有慟乎!非夫人之為慟而誰為!」
Nhan Uyên tử. Tử khốc chi động. Tòng giả viết: “Tử động hĩ”. Viết: “Hữu động hồ? Phi phù nhân chi vi động nhi thùy vị?”.
Dịch.- Nhan Uyên chết. Khổng tử khóc thảm thiết. Người (đệ tử) theo sau, thưa: “Thầy bi ai thái quá!”. Khổng tử nói: “Bi ai thái quá ư? Ta chẳng vì con người đó bi ai thì vì ai?”.
[11.11]
顏淵死,門人欲厚葬之,子曰:「不可。」門人厚葬之。子曰:「回也,視予猶父也,予不得視猶子也。非我也,夫二三子也。」
Nhan Uyên tử, môn nhân[2] dục hậu táng chi. Tử viết: “Bất khả”. Môn nhân hậu táng chi. Tử viết: “Hồi dã thị dư do phụ dã, dư bất đắc thị do tử dã. Phi ngã dã, phu nhị tam tử dã”.
Dịch.- Nhan Uyên chết, môn nhân muốn mai táng trọng hậu. Khổng tử bảo: “Không nên”. Nhưng môn nhân vẫn mai táng trọng hậu. Khổng tử bảo: “Hồi coi ta như cha, mà ta không coi nó như con được. Đó không phải tại ta, mà tại các trò đây”. 
Chú thích. – Các sách đều chú thích: theo lễ thì tuỳ gia đình nghèo giàu mà mai táng trọng hậu hay không. Nhan Hồi nhà nghèo, mà chôn cất trọng hậu là trái lễ. Ông coi Nhan Hồi như con, chôn Nhan Hồi như chôn Bá Ngư (coi bài 7) nhưng không tiện can thiệp, để cho môn sinh nghe lời Nhan Lộ (cha Nhan Hồi) làm việc trái lễ đó.
[11.12]
李路問事鬼神。子曰:「未能事人,焉能事鬼?」「敢問死?」曰:「未知生,焉知死?」
Quí Lộ vấn sự quỉ thần. Tử viết: “Vị năng sự nhân, yên năng sự quỉ?”. Viết: “Cảm vấn tử”. Viết: “Vị tri sinh, yên tri tử”.
Dịch.- Quí Lộ hỏi đạo thờ quỉ thần. Khổng tử đáp: “Chưa biết đạo thờ người, sao biết được đạo thờ quỉ thần?” Lại hỏi: “Con xin mạo muội hỏi về sự chết”. Đáp: “Sự sống còn chưa biết, sao biết được sự chết?”.
[11.13]
閔子侍側,誾誾如也;子路,行行如也;冉有、子貢,侃侃如也。子樂。「若由也,不得其死然。」
Mẫn Tử (Khiên) thị trắc, ngân ngân như dã; Tử Lộ hãng hãng như dã; Nhiễm Hữu, Tử Cống khản khản như dã. Tử lạc: “Nhược Do dã, bất đắc kì tử nhiên”.
Dịch.- Mẫn Tử (Khiên) đứng hầu ổ bên, vẻ mặt cung kính, chính trực; Tử Lộ có vẻ cương nghị; Nhiễm Hữu và Tử Cống có vẻ ôn hoà. Khổng tử vui vẻ (vì môn sinh nào cũng có tư cách cả). (Nhưng ông nói): “Anh Do (Tử Lộ) e sẽ bất đắc kì tử”.
Chú thích. – Tử Lộ hay cậy sức mạnh của mình nên ông khuyên phải đề phòng. Sau Tử Lộ chết một cách vô nghĩa trong một vụ bạo loạn ở nước Vệ.
[11.14]
魯人為長府。閔子騫曰:「仍舊貫,如之何?何必改作!」子曰:「夫人不言,言必有中。」
Lỗ nhân vi Trường phủ. Mẫn Tử Khiên viết: “Nhưng cựu quán, như chi hà? Hà tất cải tác?” Tử viết: “Phù nhân bất ngôn, ngôn tất hữu trúng”.
Dịch.- Nước Lỗ định cất kho Trường phủ mới. Mẫn Tử Khiên bảo: “Dùng cái kho cũ mà tu bổ lại, không được sao? Hà tất phải cất cái mới (cho phí công, của). Khổng tử khen: “Còn người đó ít nói, nhưng hễ nói thì trúng”.
[11.15]
子曰:「由之瑟,奚為於丘之門?」門人不敬子路。子曰:「由也升堂矣!未入於室也!」
Tử viết: “Do chi sắt hề vi ư Khâu chi môn?”. Môn nhân bất kính Tử Lộ. Tử viết: “Do dã, thăng đường hỉ, vị nhập ư thất dã”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Tiếng đàn sắt của anh Do sao lại nổi lên ở nhà Khâu này?” (Ý nói ông không ưa giọng đàn sát phạt của Tử Lộ). Vì vậy mà môn sinh coi thường Tử Lộ. Khổng tử giải rằng: “Học vấn của anh Do vào hạng lên đến thềm rồi, mà chưa vào nội thất đấy thôi” (nghĩa là khá lắm, chỉ chưa tinh vi thôi). Nhưng có người lại hiểu: “Anh Do chỉ mới gảy đàn ở ngoài thềm chứ không phải ở trong nhà (!), coi “nhập thất” ở bài 19.
[11.16]
子貢問:「師與商也孰賢?」子曰:「師也過,商也不及。」曰:「然則師愈與?」子曰:「過猶不及。」
Tử Cống vấn: “Sư dữ Thương dã thục hiền?”. Tử viết: “Sư dã quá, Thương dã bất cập”. Viết: “Nhiên tắc Sư dũ dư?”. Tử viết: “Quá do bất cập”.
Dịch.- Tử Cống hỏi: “Anh Sư (Tử Trương) và anh Thương (Tủ Hạ) ai hơn?”. Khổng tử đáp: “Sư thái quá mà Thương bất cập”. Lại hỏi: “Như vậy là anh Sư hơn?”. Đáp: “Thái quá cũng như bất cập”.
[11.17]
李氏富於周公,而求也為之聚斂而附益之。子曰:「非吾徒也,小子鳴鼓而攻之可也!」
Quí thị phú ư Chu công, nhi Cầu dã vi chi tụ liễm nhi phụ ích chi. Tử viết: “Phi ngô đồ dã, tiểu tử minh cổ nhi công chi khả dã”.
Dịch.- Họ Quí giàu hơn ông Chu công, thế mà Cầu (Nhiễm Hữu làm gia thần họ Quí) còn thu thuế bóp chẹt dân, làm giàu thêm cho. Khổng tử nói: “Nó không phải là môn đồ của ta nữa, các con nên nổi tiếng (hoặc hùa nhau) mà công kích nó đi”.
[11.18]
柴也愚,參也魯,師也辟,由也喭。
“Sài dã ngu, Sâm dã lỗ, Sư dã tịch, Do dã ngạn”.
Dịch.- (Cao) Sài (Tử Cao) ngu, Sâm (Tăng tử) trì độn, Sư (Tử Trương) thiên lệch, Do (Tử Lộ) thô lậu.
Chú thích. – Câu này cũng là lời của Khổng tử.
[11.19]
子曰:「回也奇庶乎!屢空;賜不受命,而貨殖焉;億則屢中。」
Tử viết: “Hồi dã kì thứ hồ, lũ không. Tứ bất thụ mệnh, nhi hóa thực yên, ức tắc lũ trúng”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Anh Hồi gần đạt được đạo chăng, thường nghèo đói? Anh Tứ (Tử Cống) không an bần lạc đạo mà đi buôn bán, đoán điều chi thường trúng”.
Chú thích. – Ba chữ “bất thụ mệnh” các sách giảng là: Không xin phép nhà nước để buôn bán. (Thời đó buôn bán phải xin phép quan sở tại).
[11.20]
子張問善人之道。子曰:「不踐迹,亦不入於室。」
Tử Trương vấn thiện nhân chi đạo. Tử viết: “Bất tiễn tích, diệc bất nhập ư thất”.
Dịch.- Tử Trương hỏi như thế nào là người thiện. Khổng tử đáp: “Bẩm tính tốt chẳng phải học tập theo cổ nhân mà cũng tốt, nhưng không đạt được mức tinh vi của họ”.
Chú thích. – Có người giảng: Người thiện không hoà mình với kẻ ác, xấu xa (bất tiễn tích) nhưng vì không học nên không thông đạt, không biết quyền biến.
[11.21]
子曰:「論篤是與,君子者乎?色莊者乎?」
Tử viết: “Luận đốc thị dữ, quân tử giả hồ? Sắc trang giả hồ?”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Đàm luận thì kính cẩn, người như vậy đã thực là quân tử chẳng? Hay chỉ là bề ngoài trang trọng thôi?”.
[11.22]
子路問:「聞斯行諸?」
子曰:「有父兄在,如之何其聞斯行之!」
冉有問:「聞斯行諸?」
子曰:「聞斯行之!」公西華曰:「由也問『聞斯行諸?』,子曰:『有父兄在』;求也問,『聞斯行諸?』子曰:『聞斯行之』。赤也感,敢問?」子曰:「求也退,故進之;由也兼人,故退之。」
Tử Lộ vấn: “Văn tư hành chư?”. Tử viết: “Hữu phụ huynh tại, như chi hà kì văn tư hành chi?”. Nhiễm Hữu vấn: “Văn tư hành chư?”. Tử viết: “Văn tư hành chi”. Công Tây Hoa viết: “Do dã vấn: “Văn tư hành chư?”, Tử viết: “Hữu phụ huynh tại…”; Cầu dã vấn: “Văn tư hành chư?”, Tử viết: “Văn tư hành chi”. Xích dã hoặc[3], cảm vấn?”. Tử viết: “Cầu dã thoái, cố tiến chi; Do dã kiêm nhân, cố thoái chi”. 
Dịch.- Tử Lộ hỏi: Nghe (điều phải) rồi thì thi hành liền sao?” Khổng tử đáp: “Còn cha, anh (phải hỏi ý kiến cha, anh) sao có thể nghe rồi làm liền được”. Nhiễm Hữu hỏi: “Nghe (điều phải) rồi thi hành liền sao?” Khổng tử đáp: “Nghe rồi thì làm liền đi”. Công Tây Hoa hỏi: “Anh Do hỏi: “Nghe rồi thi hành liền sao?”, Thầy đáp: “Còn cha, anh…”; anh Cầu hỏi: “Nghe rồi thi hành liền sao?”[4], Thầy đáp: “Nghe rồi thì làm liền đi”. Xích con chưa hiểu, xin thầy giảng cho”. Khổng tử đáp: “Bản tính anh Cầu không tiến thủ nên ta phải thúc cho tiến tới; còn anh Do, bản tính dũng mãnh muốn hơn người nên ta phải kéo lùi lại”.
[11.23]
子畏於匡,顏淵後。子曰:「吾以女為死矣!」曰:「子在,回何敢死!」
Tử úy ư Khuông, Nhan Uyên hậu. Tử viết: “Ngô dĩ nhữ vi tử hĩ”. Viết: “Tử tại, Hồi hà cảm tử”.
Dịch.- Khổng tử bị vây ở thành Khuông (coi bài IX.15), Nhan Uyên lạc phía sau. (Tới khi thầy trò gặp nhau), Khổng tử bảo: “Thầy ngỡ anh chết rồi chứ!”. Nhan Uyên đáp: “Thầy còn sống, con đâu dám chết”.
[11.24]
李子然問:「仲由、冉求,可謂大臣與?」
子曰:「吾以子為異之問,曾由與求之問?所謂大臣者,以道事君,不可則止;今由與求也,可謂具臣矣。」
曰:「然則從之者與?」
子曰:「弒父與君,亦不從也。」
Quí tử Nhiên vấn: “Trọng Do, Nhiễm Cầu khả vị đại thần dư?”. Tử viết: “Ngô dĩ tử vi dị chi vấn, tằng Do dữ Cầu chi vấn. Sở vị đại thần giả, dĩ đạo sự quân, bất khả tắc chỉ. Kim Do dữ Cầu dã, khả vị cụ thần hĩ”. Viết: “Nhiên tắc tòng chi giả dư?”. Tử viết: “Thí phụ dữ quân, diệc bất tòng dã”.
Dịch.- Quí tử Nhiên (một người trong họ Quí ở Lỗ) hỏi: “Trọng Do và Nhiễm Cầu có thể gọi là đại thần được không?” Khổng tử đáp: “Tôi tưởng ông hỏi về ai kia, không ngờ ông hỏi về anh Do và anh Cầu. Gọi là đại thần thì cứ theo đạo lí mà thờ vua, không thi hành đạo lí được thì từ chức. Nhưng anh Do và anh Cầu có thể gọi là bề tôi thường (cho đủ số để làm việc thôi)”. Lại hỏi: “Nhưng hai ông ấy cũng thuận tòng vua chứ?” Khổng tử đáp: “Nếu là giết cha, giết vua thì họ không theo đâu”.
Chú thích. – Lúc đó Tử Lộ và Nhiễm Cầu làm gia thần cho họ Quí.
[11.25]
子路使子羔為費宰。子曰:「賊夫人之子!」子路曰:「有民人焉!有社稷焉,何必讀書,然後為學?」
子曰:「是故惡夫佞者。」
Tử Lộ sử Tử Cao vi Phí tể. Tử viết: “Tặc phù nhân chi tử”. Tử Lộ viết: “Hữu dân nhân yên, hữu xã tắc yên, hà tất độc thư nhiên hậu vi học?”. Tử viết: “Thị cố ố phù nịnh giả”.
Dịch.- Tử Lộ (làm gia thần họ Quí), tiến cử Tử Cao làm quan Tể đất Phỉ. Khổng tử trách: “Như vậy là làm hại con người” (vì Tử Cao chưa học được bao, chưa làm quan được). Tử Lộ bảo: “(Làm chức tể thì) có nhân dân để trị, có thần xã (đất đai), tắc (mùa màng) để thờ, (đó là học), hà tất phải đọc sách rồi mới gọi là học?”. Khổng tử nói: “Vì thế mà ta ghét những lời lội khẩu (cưỡng lí để tự biện hộ)”.
[11.26]
子路、曾晳、冉有、公西華侍坐。子曰:「以吾一日長乎爾,毋吾以也。居則曰:『不吾知也!』如或知爾,則何以哉?」
子路率爾而對,曰:「千乘之國,攝乎大國之間閒,加之以師旅,因之以饑饉,由也為之,比及三年,可使有勇,且知方也。」
夫子哂之。「求,爾何如?」
對曰:「方六七十,如五六十,求也為之,比及三年,可使足民;如其禮樂,以俟君子。」
「赤,爾何如?」
對曰:「非曰能之,願學焉!宗廟之事,如會同,端章甫,願為小相焉。」
「點,爾何如?」鼓瑟希,鏗爾,舍瑟而作。
對曰:「異乎三子者之撰。」
子曰:「何傷乎?赤各言其志也。」
曰:「莫春者,春服既成;冠者五六人,童子六七人,浴乎沂,風乎舞雩,詠而歸。」
夫子喟然歎曰:「吾與點也!」三子者出,曾晳後。
曾晳曰:「夫三子者之言何如?」
子曰:「亦各言其志也已矣!」
曰:「夫子何哂由也?」
曰:「為國以禮,其言不讓,是故哂之。」「唯求則非邦也與?」「安見方六七十,如五六十,而非邦也者。」「唯赤非邦也與?」「宗廟會同,非諸侯而何?赤也為之小,孰能為之大!」
Tử Lộ, Tăng Tích, Nhiễm Hữu, Công Tây Hoa thị tọa. Tử viết: “Dĩ ngô nhất nhật trưởng hồ nhĩ, vô ngô dĩ dã. Cư tắc viết: “Bất ngô tri dã”. Như hoặc tri nhĩ, tắc hà dĩ tai?” Tử Lộ suất nhĩ nhi đối viết: “Thiên thặng chi quốc, nhiếp hồ đại quốc chi gian, gia chi dĩ sư lữ, nhân chi dĩ cơ cận, Do dã vi chi, bí (hoặc tí) cập tam niên, khả sử hữu dũng, thả tri phương dã”. Phu tử thẩn chi. “Cầu, nhĩ hà như?”. Đối viết: “Phương lục thất thập, như ngũ lục thập, Cầu dã vi chi, bí cập tam niên, khả sử túc dân. Như kì lễ nhạc, dĩ sĩ quân tử”. “Xích, nhĩ hà như?”. Đối viết: “Phi viết năng chi, nguyện học yên. Tôn miếu chi sự, như hội đồng, đoan chương phủ, nguyện vi tiểu tướng yên”. “Điểm, nhĩ hà như?”. Cổ sắt hi, khanh nhĩ, xả sắt nhi tác, đối viết: “Dị hồ tam tử giả chi soạn”. Tử viết: “Hà thương hồ? Xích các ngôn kì chí dã”. Viết: “Mộ xuân giả, xuân phục kí thành, quán giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi qui”. Phu tử vị nhiên thán viết: “Ngô dữ Điểm dã”. Tam tử giả xuất, Tăng Tích hậu. Tăng Tích viết: “Phù tam tử giả chi ngôn hà như?”. Tử viết: “Diệc các ngôn kì chí dã dĩ hĩ!”. Viết: “Phu tử hà thẩn Do dã?”. Viết: “Vi quốc dĩ lễ[5], kì ngôn bất nhượng, thị cố thẩn chi”. Viết: “Vi quốc dĩ lễ, kì ngôn bất phương, thị cố thẩn chi”- Duy Cầu tắc phi bang dã dư?” – “An kiến phương lục thất thập như ngũ lục thập, nhi phi bang dã giả!” - “Duy Xích tắc phi bang dã dư?” - “Tôn miếu hội đồng, phi chư hầu nhi hà? Xích dã vi chi tiểu, thục năng vi chi đại?”.
Dịch.- Tử Lộ, Tăng Tích, Nhiễm Hữu và Công Tây Hoa ngồi hầu. Khổng tử bảo: “Các anh cho rằng ta có lớn hơn các anh một ngày[6] mà ngại, nhưng đừng ngại gì cả. Ở nhà, các anh thường nói: “Chẳng ai biết ta”. Nếu có người biết thì các anh đem tài gì ra dùng”. Tử Lộ vội vàng đáp: “Ví như một nước có một ngàn cỗ xe[7], bị ép giữa hai nước lớn, lại có thêm nạn chiến tranh, nhân đó dân chúng đói khổ; Do tôi mà cầm quyền nước ấy thì vừa đầy ba năm có thể khiến cho dân chúng dũng cảm mà biết đạo lí nữa”. Khổng tử mỉm cười. Rồi hỏi: “Cầu, còn anh thế nào?” Đáp: “Như có một nước vuông vức, sáu bảy chục dặm hoặc năm sáu chục dặm[8], Cầu tôi cầm quyền nước ấy thì vừa đày ba năm có thể khiến cho dân chúng được no đủ. Còn về lễ nhạc thì xin đợi bậc quân tử”. – “Xích, còn anh thế nào?”. Đáp: “Về lễ nhạc tôi không phải giỏi, nhưng xin được học. Trong việc tế tự ở tôn miếu hoặc trong hội nghị các chư hầu, Xích tôi mặc áo lễ huyền đoan, đội mũ chương phủ mà xin làm một tiểu tướng[9]”.- “Điểm, còn anh thế nào?”. Lúc đó Tăng Tích gẩy đàn sắt vừa ngớt, đặt đàn xuống – keng! – mà đứng dậy đáp: “Chí của tôi khác hẳn với ba anh đó”. Khổng tử bảo: “Hại gì? Cũng là ai nấy tỏ chí của mình ra mà thôi”. Thưa: “Như bây giờ là cuối tháng xuân, y phục mùa xuân đã may xong[10], năm sáu người vừa tuổi đôi mươi[11] với sáu bảy đồng tử dắt nhau đi tắm ở sông Nghi rồi lên hóng mát ở nền Vũ Vu[12] vừa đi vừa hát, kéo nhau về nhà”. Khổng tử trầm ngâm một chút rồi than: “Ta cũng muốn như Điểm vậy”. Ba môn sinh đi rồi, Tăng Tích ở lại hỏi: “Thầy nghĩ sao về lời nói của ba anh kia?”. Đáp: “Cũng đều là cho biết chí mình vậy thôi”. Hỏi: “Nhưng tại sao nghe anh Do nói, thầy lại mỉm cười”. Đáp: “Người trị nước phải theo lễ, anh Do không biết nhún nhường, nên ta mỉm cười”[13]. Lại hỏi: “Lời anh Cầu nói chẳng phải là việc nước sao?”. Đáp: “Một địa phương vuông vức sáu bảy chục dặm hay năm sáu chục dặm, chẳng phải là một quốc gia thì là gì?”. Lại hỏi: “Thế thì anh Xích chẳng phải là việc trị nước sao?”[14]. “Việc tôn miếu và việc hội nghị chẳng phải là việc chư hầu là gì? Anh Xích khiêm tốn xin dự làm tiểu tướng, vậy chứ ai làm đại tướng?”.
THIÊN XII  - NHAN UYÊN - 顏淵第十二
[12.1]
顏淵問「仁」。子曰:「克己復禮,為仁。一日克己復禮,天下歸仁焉。為仁由己,而由仁乎哉?」顏淵曰:「請問其目?」子曰:「非禮勿視,非禮勿聽,非禮勿言,非禮勿動。」顏淵曰:「回雖不敏,請事斯語矣!
Nhan Uyên vấn nhân. Tử viết: “Khắc kỉ phục lễ vi nhân. Nhất nhật khắc kỉ phục lễ, thiên hạ qui nhân yên. Vi nhân do kỉ, nhi do nhân hồ tai?” Nhan Uyên viết: “Thỉnh vấn kì mục”. Tử viết: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”. Nhan Uyên viết: “Hồi tuy bất mẫn, thỉnh sự tư ngữ hĩ”.
Dịch.- Nhan Uyên hỏi về đức nhân. Khổng tử đáp: “Khắc kỉ (chế thắng tự dục) mà trở về lễ (đạo lí) thì là nhân. Một ngày khắc kỉ trở về lễ, thì khắp thiên hạ sẽ khen đức nhân của mình (có sách giảng là sẽ bị mình cảm hoá mà theo đức nhân). Làm điều nhân là do mình, chứ đâu có do người?” Nhan Uyên hỏi tiếp: “Xin thầy chỉ cho con những điều mục (để thực hành)”. Khổng tử bảo: “Cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, không hợp lễ thì đừng nghe, không hợp lễ thì đừng nói, không hợp lễ thì đừng làm”. Nhan Uyên thưa: “Hồi con tuy không minh mẫn cũng xin theo lời thầy dạy”.
Chú thích. – “Nhân là rất công tâm, hành động theo đạo lí, theo nghĩa, cho nên khắc kỉ phục lễ là nhân.
[12.2]
仲弓問「仁」。子曰:「出門如見大賓;使民如承大祭;己所不欲,勿施於人;在邦無怨,在家無怨。」仲弓曰:「雍雖不敏,請事斯語矣!」
Trọng Cung vấn nhân. Tử viết: “Xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế. Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân. Tại bang vô oán, tại gia vô oán”. Trọng Cung viết: “Ung tuy bất mẫn, thỉnh sự tư ngữ hĩ”.
Dịch.- Trọng Cung hỏi về đức nhân. Khổng tử đáp: “Ra khỏi cửa thì (phải nghiêm trang) như gặp khách quí; sai khiến dân thì phải thận trọng như trong một cuộc lễ lớn, cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người[1]. Trong nước không ai oán mình, trong “nhà” một đại phu[2] không ai oán mình”. Trọng Cung thưa: “Ung con tuy không minh mẫn cũng xin theo lời thầy”.
[12.3]
司馬牛問「仁」。子曰:「仁者,其言也訒。」曰:「斯言也訒,其謂之仁矣乎?」子曰:「為之難,言之得無訒乎?」
Tư Mã Ngưu vấn nhân. Tử viết: “Nhân giả, kì ngôn dã nhẫn”. Viết: “Kì ngôn dã nhẫn, tư vị chi nhân hĩ hồ?” Tử viết: “Vi chi nan, ngôn chi đắc vô nhẫn hồ?”.
Dịch.- Tư Mã Ngưu hỏi về đức nhân. Khổng tử đáp: “Người có đức nhân thì biết nhịn lời”. Lại hỏi: “Biết nhịn lời mà thành người có đức nhân ư?”. Đáp: “Làm thì khó, (nói thì dễ), vậy chẳng nên nhịn khi mình muốn nói sao?”. 
Chú thích. – Tư Mã Ngưu, họ Tư Mã, tên Canh, tự Tử Ngưu, người nước Tống, học trò Khổng tử, có tính hay nói và nóng nảy, cho nên Khổng tử khuyên như vậy. Đó là cách “tuỳ bệnh mà ra toa”.
[12.4]
司馬牛問「君子」。子曰:「君子不憂不懼。」曰:「不憂不懼,斯謂之君子矣乎?」子曰:「內省不疚,夫何憂何懼?」
Tư Mã Ngưu vấn quân tử. Tử viết: “Quân tử bất ưu bất cụ”. Viết: “Bất ưu bất cụ, tư vị chi quân tử hĩ hồ?”. Tử viết: “Nội tỉnh bất cứu, phù hà ưu hà cụ”.
Dịch.- Tư Mã Ngưu hỏi thế nào là quân tử. Khổng tử đáp: “Người quân tử thì không lo, không sợ”. Lại hỏi: “Không lo, không sợ mà thành người quân tử ư”. Đáp: “Tự xét mình không có điều gì đáng xấu hổ thì còn sợ nỗi gì?”
[12.5]
司馬牛憂曰:「人皆有兄弟,我獨亡!」子夏曰:「商聞之矣:『死生有命,富貴在天』。君子敬而無失,與人恭而有禮;四海之內,皆兄弟也。君子何患乎無兄弟也?」
Tư Mã Ngưu ưu viết: “Nhân giai hữu huynh đệ, ngã độc vô”. Tử Hạ viết: “Thương văn chi hĩ: “Tử sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên. Quân tử kính nhi vô thất, dữ nhân cung nhi hữu lễ. Tứ hải chi nội giai huynh đệ dã”. Quân tử hà hoạn hồ vô huynh đệ dã”.
Dịch.- Tư Mã Ngưu rầu rĩ bảo: “Ai cũng có anh em, duy có tôi là không?”. Tử Hạ bảo: “Thương tôi nghe nói: “Sống chết có số, phú quí do trời. Người quân tử nghiêm túc mà không thất thố, giao thiệp với ai mà cung cẩn mà lễ độ. Như vậy thì người trong bốn bể đều là anh em của mình”. Người quân tử lo gì không có anh em”.
Chú thích. – Có sách bảo câu: “Tử sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên” là lời của Khổng tử nên dịch: Thương tôi nghe thầy nói… Thời xưa người Trung Hoa cho rằng nước họ bốn bên là biển bao vây, cho nên gọi Trung Hoa là hải nội, ngoại quốc là hải ngoại.
[12.6]
子張問「明」。子曰:「浸潤之譖,膚受之愬,不行焉,可謂明也已矣。浸潤之譖,膚受之愬,不行焉,可謂遠也已矣。」
Tử Trương vấn minh. Tử viết: “Tẩm nhuận chi trấm, phu thụ chi tố, bất hành yên, khả vị minh dã dĩ hĩ. Tẩm nhuận chi trấm, phu thụ chi tố, bất hành yên, khả vị viễn dã dĩ hĩ”.
Dịch.- Tử Trương hỏi thế nào là sáng suốt. Khổng tử đáp: “Những lời gièm pha thấm nhuần mỗi ngày một chút, những lời vu cáo như đâm vào da thịt, những lời đó nếu không tác động gì đến ta thì có thể gọi là sáng suốt. Những lời gièm pha thấm nhuần mỗi ngày một chút, những lời vu cáo như đâm vào da thịt, những lời đó nếu không tác động gì đến ta thì có thể gọi là biết nhìn xa”.
[12.7]
子貢問「政」。子曰:「足食,足兵,民信之矣。」子貢曰:「必不得已而去,於斯三者何先?」曰:「去兵。」子貢曰:「必不得已而去,於斯二者何先?」曰:「去食;自古皆有死;民無信不立。」
Tử Cống vấn chính. Tử viết: “Túc thực, túc binh, dân tín chi hĩ”. Tử Cống viết: “Tất bất đắc dĩ nhi khứ, ư tư tam giả hà tiên?” Viết: “Khứ binh”. Tử Cống viết : “Tất bất đắc dĩ nhi khứ, ư tư nhị giả hà tiên?” Viết: “Khứ thực, tự cổ giai hữu tử, dân vô tín bất lập”.
Dịch.- Tử Cống hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Lương thực cho đủ, binh bị cho đủ, dân tin chính quyền”. Tử Cống hỏi: “Trong ba điều đó, nếu bất đắc dĩ phải bỏ một, thì bỏ điều nào trước?” Đáp: “Binh bị”. Tử Cống lại hỏi: “Trong hai điều còn lại, nếu bất đắc dĩ phải bỏ một nữa, thì bỏ điều nào trước?” Đáp: “Bỏ lương thực. Từ xưa vẫn có người chết, nếu dân không tin chính quyền thì chính quyền phải đổ”.
[12.8]
棘子成曰:「君子質而已矣,何以文為?」子貢曰:「惜乎,夫子之說君子也,駟不及舌!文猶質也,質猶文也;虎豹之鞟,猶犬羊之鞟。」
Cúc[3] Tử Thành viết: “Quân tử chất nhi dĩ hĩ, hà dĩ văn vi?” Tử Cống viết: “Tích hồ! Phu tử chi thuyết quân tử dã. Tứ bất cập thiệt. Văn do chất dã, chất do văn dã. Hổ báo chi quách do khuyển dương chi quách” .
Dịch.- Cúc Tử Thành (một đại phu nước Vệ) bảo: “Người quân tử chỉ cái chất tốt là đủ, cần chi tới văn?”. Tử Cống nói: “Tiếc thay ngài luận về quân tử (lầm lẫn) như vậy. Một lời thốt ra, bốn ngựa đuổi không kịp. Văn cũng như chất, chất cũng như văn (quan trọng như nhau). Da cọp da beo mà cạo lớp lông đi thì cũng như da chó da cừu vậy thôi”. (Nghĩa là chất (da) mà không có văn (lông) thì kém giá trị). 
Chú thích. – Sách Thuyết văn dịch nghĩa quách [] là da đã cạo lông rồi, vì vậy mà nhiều nhà hiểu như chúng tôi dịch. Nhưng có người bảo quách chỉ có nghĩa là da, dù còn lông hay cạo rồi, và hiểu lời Tử Cống như sau: văn và chất quan trọng như nhau, văn như da con cọp con beo, chất như da con chó con cừu, mấy thứ da đó đều hữu dụng cả. “Tứ bất cập thiệt” – Tứ [] vốn có nghĩa là xe thắng bốn con ngựa.
[12.9]
哀公問於有若曰:「年饑,用不足,如之何?」有若對曰:「盍徹乎!」曰:「二,吾猶不足;如之何其徹也?」對曰:「百姓足,君孰不足?百姓不足,君孰與足?」
Ai công vấn ư Hữu Nhược viết: “Niên cơ, dụng bất túc, như chi hà?” Hữu Nhược đối viết: “Hạp triệt hồ?” Viết: “Nhị, ngô do bất túc, như chi hà kì triệt dã”. Đối viết: “Bá tính túc, quân thục dữ bất túc? Bá tính bất túc, quân thục dữ túc?”.
Dịch.- Vua (Lỗ) Ai công hỏi Hữu Nhược: “Năm nay mất mùa, thuế không đủ tiêu làm sao bây giờ?” Hữu Nhược đáp: “Sao không thu thuế theo pháp triệt (tức mười phần thu một)? Bảo: “Mười phần thu hai còn không đủ tiêu, huống hồ còn thu theo pháp triệt”. Đáp: “Trăm họ no đủ thì làm sao nhà vua thiếu được? Trăm họ thiếu thốn thì làm sao nhà vua đủ được?” (Có người dịch là: Dân no đủ thì vua thiếu thốn với ai?...).
[12.10]
子張問「崇德,辨惑。」子曰:「主忠信,徒義崇德也。愛之欲其生,惡之欲其死;既欲其生又欲其死,是惑也!」(誠不以富,亦祇以異。)
Tử Trương vấn sùng đức, biện hoặc. Tử viết: “Chủ trung tín, tỉ[4] nghĩa, sùng đức dã. Ái chi, dục kì sinh, ố chi dục kì tử, kí dục kì sinh, hựu dục kì tử, thị hoặc dã”. 
Dịch.- Tử Trương hỏi thế nào là tôn sùng đức hạnh và không mê hoặc. Khổng tử đáp: “Lấy trung tín thành thực làm chủ, điều gì không hợp nghĩa thì sửa đổi, như vậy là tôn sùng đức hạnh. Khi yêu thì muốn người ta sống, khi ghét thì muốn người ta chết, như vậy là mê hoặc.
Chú thích. – Cuối bài này còn hai câu “Thành bất dĩ phú, diệc kì dĩ dị” ở trong Kinh Thi, Tiểu Nhã, thiên Ngã hành kì  dẫn lầm vào đây, nên các sách đều bỏ.
[12.11]
齊景公問政於孔子。孔子對曰:「君,君;臣,臣;父,父;子,子。」公曰:「善哉!信如君不君,臣不臣,父不父,子不子,雖有粟,吾得而食諸?」
Tề Cảnh công vấn chính ư Khổng tử. Khổng tử đối viết: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Công viết: “Thiện tai! Tín như quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chư”. 
Dịch.- Tề Cảnh công hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Vua làm hết đạo vua, bề tôi hết đạo bề tôi, cha hết đạo cha, con hết đạo con”. Cảnh công khen: “Hay thật! Nếu vua không ra vua, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì dẫu có lúa, ta chắc gì đã ăn được?”.
[12.12]
子曰:「片言可以折獄者,其由也與!」子路無宿諾。
XII.12
Tử viết: “Phiến ngôn khả dĩ chiết ngục giả, kì Do dã dư?. Tử Lộ vô túc nặc.
Dịch.- Khổng tử nói: “Chỉ nghe lời giảng của một bên mà có thể phán quyết được việc kiện tụng (hoặc việc quan), là anh Do chăng?” Tử Lộ hứa điều gì thì làm ngay.
Chú thích. – Muốn phán quyết việc kiện tụng thì ai cũng phải nghe lời trình bày của hai bên. Tại sao Tử Lộ chỉ nghe một bên mà phán quyết được? Người viết bài này, sau khi chép lời Khổng tử, giảng: Vì Tử Lộ giữ chữ tín, cảm hoá được mọi người, nên không ai nói dối với ông, khai với ông điều gì, tất phải đúng, vì vậy ông không phải nghe lời trình bày của phía bên kia nữa. Còn một cách hiểu khác nữa: “Phiến ngôn” không phải là Tử Lộ nghe lời trình bày của một bên, mà là Tử Lộ chỉ nói ra nửa lời, chưa hết câu, người ta đã tin phục rồi, việc giải quyết xong rồi.
[12.13]
子曰:「聽訟,吾猶人也。必也,使無訟乎!」
Tử viết: “Thính tụng, ngô do nhân dã; tất dã, sử vô tụng hồ?”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Xét kiện thì ta cũng như người khác thôi; phải làm sao (dạy dân phải biết nghĩa vụ nhường nhịn) cho dân không kiện nhau (thì mới làm chứ!)”.
[12.14]
子張問「政」。子曰:「居之無倦;行之以忠。」
Tử Trương vấn chính. Tử viết: “Cư chi vô quyện, hành chi dĩ trung”.
Dịch.- Tử trương hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Giữ chức vụ thì không mệt, không chán, chấp hành chính lệnh thì trung thành”.
[12.15]
子曰:「博學於文,約之以禮,亦可以弗畔矣夫。」
XII.15
Bài này trùng với bài VI.25.
[12.16]
子曰:「君子成人之美,不成人之惡;小人反是。」
Tử viết: “Quân tử thành nhân chi mĩ, bất thành nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người quân tử giúp người làm việc thiện, không giúp người làm điều ác (giúp người thành người tốt, không giúp người thành xấu). Tiểu nhân trái lại”.
[12.17]
李康子問政於孔子,孔子對曰:「政者,正也,子帥以正,孰敢不正?」
Quí Khang tử vấn chính ư Khổng tử. Khổng tử đối viết: “Chính giả, chính dã. Tử suất dĩ chính, thục cảm bất chính”.
Dịch.- Quí Khang tử hỏi Khổng tử về chính trị. Khổng tử đáp: “Chính trị là chính đính (ngay thẳng). Ông lãnh đạo dân một chính sách chính đính thì ai dám không chính đính”.
[12.18]
李康子患盜,問於孔子。孔子對曰:「苟子之不欲,雖賞之不竊。」
Quí Khang tử hoạn đạo, vấn ư Khổng tử. Khổng tử đối viết: “Cẩu tử chi bất dục, tuy thưởng chi bất thiết”.
Dịch.- Quí Khang tử lo nạn trộm cướp, hỏi cách trị. Khổng tử đáp: “Nếu ông không có lòng tham, dù có thưởng họ, họ cũng không trộm cướp”.
[12.19]
李康子問政於孔子曰:「如殺無道,以就有道,何如?」孔子對曰:「子為政,焉用殺?子欲善,而民善矣!君子之德風;小人之德草;草上之風必偃。」
Quí Khang tử vấn chính ư Khổng tử, viết: “Như sát vô đạo dĩ tựu hữu đạo, hà như”. Khổng tử đối viết: “Tử vi chính yên dụng sát? Tử dục thiện nhi dân thiện hĩ. Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo. Thảo thượng chi phong tất yến”.
Dịch.- Quí Khang tử hỏi Khổng tử về phép trị dân: “Giết kẻ vô đạo (độc ác) để cho kẻ khác thành hữu đạo (lương thiện) chăng? Khổng tử đáp: “Ông trị dân cần gì phải dùng biện pháp giết người? Ông muốn thiện thì dân sẽ hóa thiện. Đức hạnh của người quân tử (người trị dân) như gió, mà đức hạnh của dân như cỏ. Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống”.
[12.20]
子張問士:「何如斯可謂之達矣?」子曰:「何哉?爾所謂達者!」子張對曰:「在邦必聞,在家必聞。」子曰:「是聞也,非達也。夫達也者:質直而好義,察言而觀色,慮以下人;在邦必達,在家必達。夫聞也者:色取仁而行違,居之不疑;在邦必聞,在家必聞。」
Tử Trương vấn: “Sĩ hà như tư khả vị chi đạt hĩ?” Tử viết: “Hà tai, nhĩ sở vị đạt giả”. Tử Trương đối viết: “Tại bang tất văn, tại gia tất văn”. Tử viết: “Thị văn dã, phi đạt dã. Phù đạt dã giả, chất trực nhi hiếu nghĩa, sát ngôn nhi quan sắc, lự dĩ há nhân, tại bang tất đạt, tại gia tất đạt. Phù văn dã giả, sắc thủ nhân nhi hành vi, cư chi bất nghi, tại bang tất văn, tại gia tất văn”.
Dịch.- Tử Trương hỏi: “Kẻ sĩ (kẻ làm quan) như thế nào thì có thể gọi là đạt?” Khổng tử hỏi lại: “Theo ý anh, đạt là thế nào?” Tử Trương đáp: “Làm quan một nước có tiếng tăm, làm gia thân cho một nước có tiếng tăm”. Khổng tử bảo: “Như vậy là tiếng tăm chứ không phải đạt. Người đạt thì chất phác chính trực mà thích làm điều nghĩa, biết xét lời nói, quan sát nét mặt của người khác (mà hiểu tâm ý họ), biết suy nghĩ khiêm nhường ở dưới người: như vậy làm quan một nước sẽ “đạt”, làm gia thần cho một đại phu sẽ “đạt”. Còn người có tiếng tăm thì bề ngoài làm bộ nhân đức mà hành vi trái nhân đức, thế mà vẫn tin chắc rằng mình nhân đức. Như vậy làm quan một nước sẽ có tiếng tăm, làm gia thần một đại phu sẽ có tiếng tăm”.
[12.21]
樊遲從遊於舞雩之下。曰:「敢問崇德、脩慝、辨惑?」子曰:「善哉問!先事後得,非崇德與?攻其惡,無攻人之惡,非脩慝與?一朝之忿,忘其身以及其親,非惑與?」
Phàn Trì tùng du ư Vũ Vu chi hạ, viết: “Cảm vấn sùng đức, tu thắc, biện hoặc”. Tử viết: “Thiện tai vấn! Tiên sự, hậu đắc, phi sùng đức dư? Nhất triêu chi phẫn, vong kì thân dĩ cập kì thân, phi hoặc dư?”
Dịch.- Phàn Trì tản bộ với Khổng tử ở chân đàn Vũ Vu, thưa: “Con xin hỏi thầy thế nào là tôn sùng đức hạnh, trị cái xấu ở trong lòng, không mê hoặc?” Khổng tử đáp: “Câu hỏi đó hay! Làm điều lành trước rồi mới lượm kết quả[5], như vậy không phải là tôn sùng đức hạnh sao? Tự trách lỗi của mình, mà không trách lỗi của người, như vậy không phải là trị cái xấu trong lòng sao? Trong một lúc tức giận mà quên mất mình đi, để liên luỵ cha mẹ, như vậy không phải là mê hoặc sao?”
[12.22]
樊遲問「仁」。子曰:「愛人。」問「知」。子曰:「知人。」樊遲未達。子曰:「舉直錯諸枉,能使枉者直。」樊遲退,見子夏曰:「鄉也,吾見於夫子而問;子曰:『舉直錯諸枉,能使枉者直。』何謂也?」子夏曰:「富哉言乎!舜有天下,選於眾,舉臯陶,不仁者遠矣;湯有天下,選於眾,舉伊尹,不仁者遠矣。」
Phàn Trì vấn nhân. Tử viết: “Ái nhân”. Vấn trí. Tử viết: “Tri nhân”. Phàn Trì vị đạt. Tử viết: “Cử trực thố chư uổng, năng sử uổng giả trực”. Phàn Trì thoái kiến Tử Hạ, viết: “Hướng dã, ngô kiến ư phu tử nhi vấn trí. Tử viết: “Cử trực thố chư uổng, năng sử uổng giả trực”, hà vị dã?” Tử Hạ viết: “Phú tai ngôn hồ! Thuấn hữu thiên hạ, tuyển ư chúng, cử Cao Dao, bất nhân giả viễn hỉ. Thang hữu thiên hạ, tuyển ư chúng, cử Y Doãn, bất nhân giả viễn hĩ”.
Dịch.- Phàn Trì hỏi về đức nhân. Khổng tử đáp: “Yêu người”. Hỏi về đức trí, đáp: “Biết người”. Phàn Trì chưa hiểu rõ, Khổng tử giảng thêm: “Đề bạt người chính trực lên trên người cong queo thì có thể khiến cho người cong queo hoá ra chính trực”. Phàn Trì lui ra, kiếm Tử Hạ hỏi: “Mới rồi, tôi vô yết kiến thầy, hỏi về trí. Thầy bảo: “Đề bạt người chính trực lên trên người cong queo thì có thể khiến cho người cong queo hoá ra chính trực”. Như vậy nghĩa là sao?”. Tử Hạ đáp: “Lời thầy hàm súc lắm. Ông Thuấn khi có thiên hạ (lên ngôi thiên tử) tuyển chọn trong dân chúng mà đề bạt ông Cao Dao, mà những kẻ bất nhân đều xa lánh. Ông Thang khi có thiên hạ, tuyển chọn trong dân chúng mà đề bạt ông Y Doãn, mà những kẻ bất nhân đều xa lánh”.
Chú thích. – Cao Dao là hiền thần vua Thuấn. Y Doãn là hiền thần vua Thang.
[12.23]
子貢問「友」。子曰:「忠告而善道之,不可則止,毋自辱焉。」
Tử Cống vấn hữu. Tử viết: “Trung cáo nhi thiện đáo chi, bất khả tắc chỉ, vô tự nhục yên”.
Dịch.- Tử Cống hỏi về cách cư xử với bạn bè. Khổng tử đáp: “(Bạn có lỗi) thì trung thành bảo bạn và khéo léo khuyên răn, bạn bè không nghe thì thôi đừng nói nữa mang nhục”.
[12.24]
曾子曰:「君子以文會友;以友輔仁。」
Tăng Tử viết: “Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân”.
Dịch.- Tăng Tử nói: “Người quân tử dùng văn chương để họp bạn, dùng bạn để giúp nhau tiến lên đức nhân”.
THIÊN XIII - TỬ LỘ - 子路第十三
[13.1]
子路問「政」。子曰:「先之,勞之。」請益。曰:「無倦。」
Tử Lộ vấn chính. Tử viết: “Tiên chi, lao chi”. Thỉnh ích. Viết: “Vô quyện”.
Dịch.- Tử Lộ hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Phải làm trước những công việc của dân, phải khó nhọc vì dân”. Tử Lộ xin thầy giảng thêm. Ông nói: “Làm không biết mệt”.
Chú thích. – Có người hiểu là: “Phải làm trước công việc thiện để làm gương cho dân”. Có người bảo chữ [] đọc là lạo, và dịch: “phải vỗ về an ủi” dân.
[13.2]
仲弓為李氏宰,問「政」。子曰:「先有司,赦小過,舉賢才。」曰:「焉知賢才而舉之?」曰:「舉爾所不知,人其舍諸!」
Trọng Cung vi Quí thị tể, vấn chính. Tử viết: “Tiên hữu ti, xá tiểu quá, cử hiền tài”. Viết: “Yên tri hiền tài nhi cử chi?”. Viết: “Cử nhĩ sở tri. Nhĩ sở bất tri, nhân kì xá chư?”.
Dịch.- Trọng Cung làm quan tể cho họ Quí, hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Đích thân thống suất các viên hữu ti (các viên chức dưới quyền quan tể), tha những lỗi nhỏ của họ, đề bạt những người hiền tài”. Trọng Cung lại hỏi: “Làm sao biết được người hiền tài mà đề bạt?”. Đáp: “Cứ đề bạt những người anh biết, còn những người anh không biết thì người khác lẽ nào bỏ họ (mà không giới thiệu)?”.
[13.3]
子路曰:「衛君待子而為政,子將奚先?」子曰:「必也正名乎!」子路曰:「有是哉?子之迂也!奚其正?」子曰:「野哉,由也!君子於其所不知,蓋闕如也。名不正,則言不順;言不順,則事不成;事不成,則禮樂不興;禮樂不興,則刑罰不中;刑罰不中,則民無所措手足。故君子名之必可言也,言之必可行也。君子於其言,無所茍而已矣!」
Tử Lộ viết: “Vệ quân đãi tử nhi vi chính, tử tương hề tiên? Tử viết: “Tất dã chính danh hồ?”. Tử Lộ viết: “Hữu thị tai, tử chi vu dã, hề kì chính”. Tử viết: “Dã tai, Do dã! Quân tử ư kì sở bất tri, cái khuyết như dã. Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng, tắc dân vô sở thố thủ túc. Cố quân tử danh chi tất khả ngôn dã; ngôn chi tất khả hành dã. Quân tử ư kì ngôn, vô sở cẩu nhi dĩ hĩ”.
Dịch.- Tử Lộ hỏi: “Nếu vua Vệ mà giữ thầy lại mà nhờ thầy coi chính sự thì thấy làm việc gì trước?” Khổng tử đáp: “Tất phải chính danh trước hết chăng?”.
Tử Lộ nói: “Vậy ư? Lời thầy vu khoát rồi. Sao lại phải chính danh?”. Khổng tử nói: “Do, anh thật thô thiển. Người quân tử có điều gì không biết thì không nói bậy. Nếu danh (hiệu) không chính (xác) thì lời nói không thuận lí (vì danh hiệu không hợp thực tế); lời nói không thuận thì sự việc không thành; sự việc không thành thì lễ nhạc, chế độ không kiến lập được; lễ nhạc, chế độ không kiến lập được thì hình phạt không trúng; hình phạt không trúng thì dân đâu biết đặt tay chân vào đâu (không biết làm thế nào cho phải). Cho nên người quân tử đã dùng cái danh gì thì tất nói ra được (nói phải thuận lí); đã nói điều gì thì tất phải làm được. Đối với lời nói, người quân tử không thể cẩu thả được”.
Chú thích. – Thời đó vua Vệ là Xuất Công Triếp, chống cự với cha. (cha Triếp là Khoái Quí chống Nam Tử - mẹ Khoái Quí – vì dâm loạn; mà Triếp lại được Nam Tử đưa lên làm vua để cự Khoái Quí). Như vậy là cha không ra cha, con không ra con, vua không ra vua, tôi không ra tôi, danh không chính. Khổng tử muốn nói rằng, việc đầu tiên phải xin thiên tử nhà Chu lập một công tử khác làm vua Vệ, cho danh chính ngôn thuận đã rồi nước mới yên.
[13.4]
樊遲請學稼,子曰:「吾不如老農。」請學為圃,曰:「吾不如老圃。」樊遲出,子曰:「小人哉,樊須也!上好禮,則民莫敢不敬;上好義,則民莫敢不服;上好信,則民莫敢不用情。夫如是,則四方之民,襁負其子而至矣;焉用稼!」
Phàn Trì thỉnh học giá. Tử viết: “Ngô bất như lão nông”. Thỉnh học vi phố. Viết: “Ngô bất như lão phố”. 
Phàn Trì xuất. Tử viết: “Tiểu nhân tai, Phàn Tu dã! Thượng hiếu lễ, tắc dân mạc cảm bất kính; thượng hiếu nghĩa, tắc dân mạc cảm bất phục; thượng hiếu tín, tắc dân mạc cảm bất dụng tình. Phù như thị, tắc tứ phương chi dân cưỡng phụ kì tử nhi chí hĩ, yên dụng giá?”.
Dịch.- Phàn Trì xin học làm ruộng. Khổng tử bảo: “Ta không bằng một nông dân già”. Lại xin học làm vườn. Khổng tử bảo: “Ta không bằng một người làm vườn già”.
Phàn Trì ra rồi, Khổng tử nói: “Phàn Tu (tức Phàn Trì) bỉ lậu thay! Người trên ham điều lễ thì dân không dám không kính; người trên ham làm điều nghĩa thì dân không dám không phục tòng; người trên ham đức thành tín thì dân không dám không trung trực. Được như vậy thì dân bốn phương sẽ chịu, cõng con mà tới, hà tất phải học làm ruộng”.
[13.5]
子曰:「誦詩三百;授之以政,不達;使於四方,不能專對;雖多,亦奚以為?」
Tử viết: “Tụng thi tam bách, thụ chi dĩ chính, bất đạt; sử ư tứ phương, bất năng chuyên đối. Tuy đa, diệc hề dĩ vi?”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Đọc ba trăm thiên Kinh Thi, giao cho việc chính trị mà làm không nên; sai đi sứ bốn phương mà không biết ứng đối, như vậy đọc nhiều để làm gì?”.
[13.6]
子曰:「其身正,不令而行;其身不正,雖令不從。」
Tử viết: “Kì thân chính, bất lệnh nhi hành; kì thân bất chính, tuy lệnh bất tòng”. 
Dịch.- Khổng tử nói: “Mình mà chính đáng (ngay thẳng, đàng hoàng), dù không ra lệnh, dân cũng theo; mình không chính đáng, tuy ra lệnh, dân cũng chẳng theo”.
[13.7]
子曰:「魯、衛之政,兄弟也。」
Tử viết: “Lỗ Vệ chi chính, huynh đệ dã”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Chính trị của nước Lỗ và nước Vệ giống nhau như anh em”.
Chú thích. – Vua Lỗ là hậu duệ của Chu Công, vua Vệ là hậu duệ của Khang Thúc, mà Chu Công và Khang Thúc là anh em ruột, Nhưng chúng ta không biết Khổng tử muốn chê hai nước Lỗ, Vệ thời ông là suy loạn như nhau (nước Vệ thời đó quá suy); hay muốn khen hai nước ấy còn giữ được truyền thống cũ, về văn hóa, có hi vọng cải thiện được, vì vậy mà ông trước sau năm lần tối Vệ, muốn giúp Vệ? Cứ theo bài VI.22 ông khen Lỗ, thì bài này cũng có thể ông khen nữa.
[13.8]
子謂衛公子荊善居屋:「始有,曰:『苟合矣;』少有,曰:『苟完矣;』富有,曰:『苟美矣。』」
Tử vị Vệ công tử Kinh thiện cư thất. Thủy hữu, viết: “Cẩu hợp hĩ”. Thiểu hữu, viết: “Cẩu hoàn hĩ”. Phú hữu, viết: “Cẩu mĩ hĩ”.
Dịch.- Khổng tử khen công tử Kinh nước Vệ là khéo tính việc nhà (kiệm tiên thi túc). Khi mới có của cải, công tử Kinh bảo: “Tạm cho là có của rồi”; khi tăng lên một chút, bảo: “Tạm đủ rồi”; khi giàu có, bảo: “Kể như tốt đẹp quá rồi”.
[13.9]
子適衛,冉有僕。子曰:「庶矣哉!」冉有曰:「既庶矣,又何加焉?」曰:「富之。」曰:「既富矣,又何加焉?」曰:「教之。」
Tử thích Vệ, Nhiễm Hữu bộc. Tử viết: “Thứ hĩ tai!”. Nhiễm Hữu viết: “Kí thứ hĩ, hựu hà gia yên?”. Viết: “Phú chi”. Viết: “Kí phú hĩ, hựu hà gia yên?”. Viết: “Giáo chi”. 
Dịch.- Khổng tử tới nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe. Khổng tử nói: “Dân đông nhĩ?”. Nhiễm Hữu hỏi: “Đông dân rồi thì (nhà cầm quyền) phải làm gì thêm nữa?”. Đáp: “Làm cho dân giàu”. Hỏi: “Dân đã giàu rồi, phải làm gì thêm nữa?”. Đáp: “Giáo hoá dân”.
[13.10]
子曰:「苟有用我者,朞月而已可也,三年有成。」
Tử viết: “Cẩu hữu dụng ngã giả, cơ nguyệt nhi dĩ khả dã, tam niên hữu thành”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Có ai dùng ta (cầm quốc chính) thì một năm cương kỉ đã khá, ba năm sẽ thành công”.
[13.11]
子曰:「『善人為邦百年,亦可以媵殘去殺矣。』誠哉是言也!」
Tử viết: “Thiện nhân vi bang bách niên, diệc khả dĩ thăng[1] tàn khứ sát hĩ”. Thành tai thị ngôn dã”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Cổ nhân có câu: “Nếu có người thiện liên tục trị nước trong suốt một trăm năm thì có thể khiến kẻ tàn bạo thuần phục mà bỏ hình phạt chém giết”. Lời ấy rất đúng”.
[13.12]
子曰:「如有王者,必世而後仁。」
Tử viết : “Như hữu vương giả, tất thế nhi hậu nhân”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Như có bậc thánh nhân làm thiên tử thì phải mất một đời (30 năm) thì mọi người mới có nhân đạo được”.
[13.13]
子曰:「苟正其身矣,於從政乎何有?不能正其身,如正人何?」
Tử viết: “Cẩu chính kì thân hĩ, ư tòng chính hồ hà hữu? Bất năng chính kì thân, như chính nhân hà?”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Nếu giữ thân mình cho đoan chính thì tòng sự chính trị có gì khó? Không giữ thân mình cho đoan chính thì làm sao sửa cho người khác đoan chính được?”.
Chú thích. – Bài này ý nghĩa như bài XIII.
[13.14]
冉子退朝,子曰:「何晏也?」對曰:「有政。」子曰:「其事也!如有政,雖不吾以,吾其與聞之!」
Nhiễm Tử thoái triều, Tử viết: “Hà án dã?” Đối viết: “Hữu chính”. Tử viết: “Kì sự dã. Như hữu chính, tuy bất ngô dĩ, ngô kì dữ văn chi”.
Dịch.- Nhiễm tử ở triều đình (triều đình riêng của họ Quí) về. Khổng tử hỏi: “Sao về trễ vậy?”. “Có việc quyết chính”. Khổng tử nói: “Ta ngờ chỉ là gia sự (của họ Quí)[2]. Nếu việc quốc chính thì tuy ta không tại chức, tất cũng được dự nghe”[3].
[13.15]
定公問:「一言而可以興邦,有諸?」孔子對曰:「言不可以若是其幾也!人之言曰:『為君難,為臣不易。』如知為君之難也,不幾乎一言而興邦乎?」曰:「一言而喪邦,有諸?」孔子對曰:「言不可以若是其幾也!人之言曰:『予無樂乎為君,唯其言而莫予違也。』如其善而莫之違也,不亦善乎?如不善而莫之違也,不幾乎一言而喪邦乎?」
Định công vấn: “Nhất ngôn nhi khả dĩ hưng bang, hữu chư?”. Khổng tử đối viết: “Ngôn bất khả dĩ nhược thị kì cơ dã. Nhân chi ngôn viết: “Vi quân nan, vi thần bất dị”. Như tri vi quân chi nan dã, bất cơ hồ nhất ngôn nhi hưng bang hồ”. Viết: “Nhất ngôn nhi táng bang, hữu chư?”. Khổng tử đối viết: “Ngôn bất khả dĩ nhược thị kì cơ dã. Nhân chi ngôn viết: “Dự vô lạc hồ vi quân, duy kì ngôn, nhi mạc dự vi dã”. Như kì thiện, nhi mạc chi vi dã, bất diệc thiện hồ? Như bất thiện nhi mạc chi vi dã, bất cơ hồ nhất ngôn nhi táng bang hồ?”.
Dịch.- Vua Định công nước Lỗ hỏi: “Một lời nói có thể làm cho nước nhà hưng thịnh, có vậy sao?” Khổng tử đáp: “Lời nói không hẳn có tác động được như vậy, có thể gần được vậy. (Ví dụ) người đời nói: “Làm vua khó, làm bề tôi không dễ”. Nếu biết làm vua khó (mà phải hết sức cẩn thận) thì một lời nói cơ hồ chẳng làm cho nước nhà hưng thịnh được đấy ư?”. Vua Định công lại nói: “Một lời nói có thể làm cho mất nước, có vậy không?”. Khổng tử đáp: “Lời nói không hẳn có tác động được như vậy, có thể gần được vậy. (Ví dụ) người đời nói: “Ta làm vua chẳng có gì vui cả, ngoài cái vui này, ta nói ra không ai dám trái lời ta”. Vua nói lời phải mà không ai dám trái lời thì chẳng hay lắm sao? Nhưng nếu vua nói điều quấy mà không ai dám trái lời thì cơ hồ một lời nói chẳng làm cho mất nước đấy ư?”.
[13.16]
葉公問政。子曰:「近者說,遠者來。」
Diệp công vấn chính. Tử viết: “Cận giả duyệt, viễn giả lai”.
Dịch.- Quan lệnh doãn huyện Diệp (nước Sở) hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Phải làm sao cho người ở gần vui lòng, người ở xa qui phục”.
[13.17]
子夏為莒父宰,問政。子曰:「無欲速;無見小利。欲速則不達;見小利則大事不成。」
Tử Hạ vi Cử Phủ tể, vấn chính. Tử viết: “Vô dục tốc, vô kiến tiểu lợi. Dục tốc tắc bất đạt. Kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành”.
Dịch.- Tử Hạ làm quan tể ấp Cử Phủ[4], hỏi về phép trị dân. Khổng tử đáp: “Đừng muốn mau thành, đừng chỉ nhìn cái lợi nhỏ. Muốn mau thành thì không đạt mục đích, chỉ nhìn cái lợi nhỏ thì việc lớn không thành”.
[13.18]
葉公語孔子曰:「吾黨有直躬者:其父攘羊而子證之。」孔子曰:「吾黨之直者異於是:父為子隱,子為父隱,直在其中矣。」
Diệp công ngứ Khổng tử viết: “Ngô đảng hữu Trực Cung giả, kì phụ nhương đương nhi tử chứng chi”. Khổng tử viết: “Ngô đảng chi trực giả dị ư thị. Phụ vị tử ẩn, tử vị phụ ẩn, trực tại kì trung hĩ”.
Dịch.- Quan lệnh doãn huyện Diệp nói với Khổng tử: “Làng tôi có một người ngay thẳng tên là Trực Cung[5], cha bắt trộm cừu, con đi tố cáo”[6]. Khổng tử nói: “Người ngay thẳng ở làng tôi khác vậy. Cha giấu tội cho con, con giấu tội cho cha, sự ngay thẳng ở chỗ đó”.
[13.19]
樊遲問仁。子曰:「居處恭,執事敬,與人忠;雖之夷狄,不可棄也。」
Phàn Trì vấn nhân. Tử viết: “Cư xử cung, chấp sự kính, dữ nhân trung. Tuy chi di địch, bất khả khí dã”.
Dịch.- Phàn Trì hỏi về đức nhân. Khổng tử đáp: “Khi nhàn cư phải nghiêm cung, khi làm việc phải nghiêm trang, cẩn thận, giao thiệp với ai phải trung thực. Dù tới nước di dịch chưa chưa khai hoá, cũng không thể bỏ ba điều ấy”.
[13.20]
子貢問曰:「何如斯可謂之士矣?」子曰:「行己有恥;使於四方,不辱君命;可謂士矣。」曰:「敢問其次?」曰:「宗族稱孝焉,鄉黨稱弟焉。」曰:「敢問其次?」曰:「言必信,行必果;硜硜然,小人哉!抑亦可以為次矣。」曰:「今之從政者何如?」子曰:「噫!斗筲之人,何足算也!」
Tử Cống vấn viết: “Hà như tư khả vị chi sĩ hĩ?”. Tử viết: “Hành kì hữu sỉ, sứ ư tứ phương, bất phục quân mệnh, khả vị sĩ hĩ”. Viết: “Cảm vấn kì thứ”. Viết: “Tôn tộc xưng hiếu yên, hương đảng xưng đễ yên”. Viết: “Cảm vấn kì thứ”. Viết: “Ngôn tất tín, hành tất quả, khanh khanh nhiên tiểu nhân tai! Ức diệc khả dĩ vi thứ hĩ”. Viết: “Kim chi tòng chính giả hà như?”. Tử viết: “Y! Đẩu sao chi nhân, hà túc toán dã”[7].
Dịch.- Tử Cống hỏi: “Thế nào đáng gọi là kẻ sĩ (kẻ đã ra làm quan)”. Khổng tử đáp: “Hành vi của mình thì biết hổ thẹn (không làm điều xấu); đi bốn phương thì không làm nhục mệnh vua; như vậy có thể gọi là kẻ sĩ”. Lại hỏi: “Xin thầy cho hạng thấp hơn nữa”. Khổng tử nói: “Họ hàng khen là hiếu, làng xóm khen là đễ”. Lại hỏi: “Xin thầy cho hạng thấp hơn nữa”. Khổng tử nói: “Lời nói nhất định phải tín thực, hành vi nhất định phải quả quyết (không xét xem là có nên không), như vậy tuy sắc cạnh, cố chấp, hẹp hòi, nhưng cũng đáng là kẻ sĩ bậc thấp”. Lại hỏi: “Những người tòng chính hiện nay ra sao?”. Khổng tử nói: “Ôi! Hạng người khí độ nhỏ nhen như cái đấu, cái sao (một phần năm hay một nửa cái đấu) ấy, đáng kể gì!”.
[13.21]
子曰:「不得中行而與之,必也狂狷乎?狂者進取,狷者有所不為也。」
Tử viết: “Bất đắc trung hạng[8] nhi dữ chi, tất dã cuồng quyến hồ! Cuồng giả tiến thủ, quyến giả hữu sở bất vi dã”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Không được hạng người trung chính (theo trung đạo) để truyền đạo (hoặc để giao thiệp) thì tìm hạng người cuồng phóng hoặc cẩn hậu giữ tiết tháo vậy. Người cuồng phóng có tinh thần tiến thủ, người cẩn hậu giữ tiết tháo thì không chịu làm điều xấu”.
[13.22]
子曰:「南人有言曰:『人而無恆,不可以作巫醫。』善夫!『不恆其德,或承之羞。』」子曰:「不占而已矣。」
Tử viết: “Nam nhân hữu ngôn viết: “Nhân nhi vô hằng, bất khả dĩ tác vu y”. Thiện phù! “Bất hằng kì đức, hoặc thừa chi tu”. Tử viết: “Bất chiêm nhi dĩ hĩ”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người phương Nam có câu: “Người nào không có hằng tâm (tâm tính hay thay đổi) thì không thể làm thầy cúng, thầy thuốc được”. Lời đó phải lắm! Quẻ Hằng (trong Kinh Dịch, hào 3), có câu: “Không giữ được đức hằng (mà hay thay đổi tâm ý, tháo thủ) thì thường bị hổ thẹn”[9]. Khổng tử nói: “(Câu đó có ý khuyên người nào không có đức hằng tâm thì) đừng nên coi quẻ là hơn”[10].
[13.23]
子曰:「君子和而不同;小人同而不和。」
Tử viết: “Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người quân tử hoà hợp nhưng không a dua, kẻ tiểu nhân a dua mà không hoà hợp”.
Chú thích. – Chữ “Hoà” [] (hoà hợp) có nghĩa là đưa ý kiến của mình ra, góp vối ý kiến của người để bàn bạc với nhau rồi tiến tới sự thống nhất. “Đồng” [] là: phụ hoạ với người, người nói sao mình cũng nói theo, chứ không dám đưa ý kiến của mình ra để cùng nhau bàn bạc. Có người hiểu khác: “Người quân tử giao tiếp với người thì giữ niềm hoà lạc nhưng chẳng đồng tình trong việc quấy, kẻ tiểu nhân giao tiếp với người thì đồng tình trong việc quấy nhưng chẳng giữ niềm hoà lạc”. Hiểu như vậy cũng có lí, nhưng nghĩa không sâu sắc như trên. Chúng ta lại nên chú ý: ngày nay từ ngữ “hoà nhi bất đồng” thường dùng một nghĩa hơi khác: chủ trương (chẳng hạn về chính trị, tôn giáo…) của mình với người khác nhau thì mình cũng không đả kích người, vẫn tìm cách hợp tác với người được, vẫn “hoà” với người (vì hai bên cùng theo đuổi một mục đích cả) mà vẫn không thay đổi chủ trương của mình (bất đồng).
[13.24]
子貢問曰:「鄉人皆好之,何如?」子曰:「未可也。」「鄉人皆惡之,何如?」子曰:「未可也。不如鄉人之善者好之,其不善者惡之。」
Tử Cống vấn viết: “Hương nhân giai hiếu chi, hà như?”. Tử viết: “Vị khả dã”. - “Hương nhân giai ố chi, hà như?” Tử viết: “Vị khả dã, bất như hương nhân chi thiện giả hiếu chi, kì bất thiện giả ố chi”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Mọi người trong làng đều ưa, người đó ra sao?”. Khổng tử đáp: “Chưa hẳn là người tốt”. (Lại hỏi): “Mọi người trong làng đều ghét, người đó ra sao?”. Khổng tử đáp: “Chưa hẳn là người xấu. Không bằng người mà tốt trong làng đều ưa, những người xấu trong làng đều ghét”.
Chú thích. – Có người hiểu: “Mọi người trong làng, ta đều ưa, hoặc mọi mình trong làng ta đều ghét, không bằng lựa những người tốt trong làng mà ưa, những người xấu trong làng mà ghét”. Cách hiểu này vô lí: ghét mọi người trong làng thì ở với ai? Không thể có trường hợp đó được.
[13.25]
子曰:「君子易事而難說也:說之不以道,不說也;及其使人也,器之。小人難事而易說也;說之雖不以道,說也;及其使人也,求備焉。」
Tử viết: “Quân tử dị sự nhi nan duyệt dã. Duyệt chi bất dĩ đạo, bất duyệt dã; cập kì sử nhân dã, khí chi. Tiểu nhân nan sự nhi dị duyệt dã. Duyệt chi tuy bất dĩ đạo duyệt dã; cập kì sử nhân dã, cầu bị yên”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người quân tử dễ phụng sự mà khó làm cho vui lòng. Không dùng chính đạo để lấy lòng họ thì họ không vui lòng; đến khi sai khiến người thì họ tuỳ theo tài năng mỗi người mà giao việc. Kẻ tiểu nhân khó phụng sự mà dễ làm vui lòng. Không dùng chính đạo để lấy lòng họ, họ cũng vui lòng; đến khi sai khiến người thì họ trách bị cầu toàn”.
[13.26]
子曰:「君子泰而不驕;小人驕而不泰。」
Tử viết: “Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người quân tử thư thái mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không thư thái”.
[13.27]
子曰:「剛、毅、木訥,近仁。」
Tử viết: “cương nghị, mộc nột, cận nhân”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Cương cường, quả cảm, chất phác, ăn nói chậm chạp thì gần với đức nhân”.
[13.28]
子路問曰:「何如斯可謂之『士』矣?」子曰:「切切、偲偲、怡怡如也,可謂『士』矣。朋友切切偲偲,兄弟怡怡。」
Tử Lộ vấn viết: “Hà như tư khả vị chi sĩ hĩ”. Tử viết: “Thiết thiết, tư tư, di di như dã, khả vị sĩ hĩ. Bằng hữu thiết thiết, tư tư , huynh đệ di di”.
Dịch.- Tử Lộ hỏi: “Thế nào thì có thể gọi là kẻ sĩ?”. Khổng tử đáp: “Thiết tha khuyên nhủ, và hoà vui, thì có thể gọi là kẻ sĩ. Bạn bè thì thiết tha khuyên nhủ nhau, anh em thì hoà vui với nhau”.
Chú thích. – Kẻ sĩ trong bài XIII.20 là kẻ sĩ ra làm quan. Kẻ sĩ trong bài này có thể chưa ra làm quan.
[13.29]
子曰:「善人教民七年,亦可以即戎矣。」
Tử viết: “Thiện nhân giáo dân thất niên, diệc khả dĩ tức nhung hĩ”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Bậc thiện nhân (người cầm quyền tốt) dạy dân bảy năm thì có thể dùng dân vào việc chiến đấu được”.
[13.30]
子曰:「以不教民戰,是謂棄之。」
Tử viết: “Dĩ bất giáo dân chiến, thị vị khí chi”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Đưa dân không được dạy dỗ ra đánh giặc, tức là bỏ dân”.
Chú thích. – Trong hai bài cuối này, chữ “giáo” [] có nghĩa là dạy dân về chiến thuật, canh nông, nhất là đạo làm người, làm dân nữa, cho nên mới lâu tới bảy năm. Dân có biết yêu người thân, hi sinh cho người trên thì mới hăng hái chiến đấu; có biết làm ruộng khi không phải giao chiến thì mới tự túc được, không thiếu thốn (thời đó dùng chính sách ngụ binh ư nông). Một nhà văn Ý, Alberto Moravia, trong cuốn La Révolution culturelle de Mao (Flammarion – 1968) hiểu khác hẳn: Phải dạy dân bảy năm để cho dân bẩm sinh hiếu hoà thành hiếu chiến, vốn hiền lành thành tàn bạo, rồi mới cho dân ra chiến đấu được. Thật là bôi nhọ Khổng tử.

THIÊN XIVHIẾN VẤN -憲問第十四
[14.1]
憲問「恥」。子曰:「邦有道穀,邦無道穀;恥也。」「克、伐、怨、欲,不行焉,可以為『仁』矣?」子曰:「可以為難矣,仁則吾不知也。」
Hiến[1] vấn sỉ. Tử viết: “Bang hữu đạo, cốc; bang vô đạo, cốc, sỉ dã”.- “Khắc, phạt, oán, dục, bất hành yên, khả dĩ vi nhân hĩ”. Tử viết: “Khả dĩ vi nan hĩ, nhân tắc ngô bất tri dã”.
Dịch.- Hiến hỏi thế nào là điều xấu hổ. Khổng tử đáp: “Nước có đạo (chính trị tốt) thì có thể làm quan được; nước vô đạo (chính trị xấu) mà làm quan thì xấu hổ”. (Hiến lại hỏi): “Hiếu thắng, khoe khoang, oán hận, tham dục, những việc đó không làm, thì có thể gọi là nhân được chứ?” Khổng tử đáp: “Như vậy là làm được những việc khó, còn nhân hay không thì ta chưa biết”.
[14.2]
子曰:「士而懷居,不足以為士矣!」
Tử viết: “Sĩ nhi hoài cư, bất túc dĩ vi sĩ hĩ”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Kẻ sĩ nào mà nghĩ đến việc ở cho được an dật, thì chưa phải là kẻ sĩ”.
[14.3]
子曰:「邦有道,危言,危行;邦無道,危行,言孫。」
Tử viết: “Bang hữu đạo, nguy ngôn nguy hành; bang vô đạo, nguy hành ngôn tốn”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Nước có đạo (chính trị tốt), ngôn ngữ chính trực, hành vi chính trực; nước vô đạo thì hành vi chính trực, ngôn ngữ khiêm tốn”.
Chú thích. – Chữ [], có người đọc là hạnh, nghĩa cũng đại khái như vậy.
[14.4]
子曰:「有德者,必有言;有言者,不必有德。仁者,必有勇;勇者,不必有仁。」
Tử viết: “Hữu đức giả tất hữu ngôn, hữu ngôn giả bất tất hữu đức. Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả bất tất hữu nhân”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người có đức thì tất có lời nói hay, người có lời nói hay chưa hẳn đã có đức. Người nhân tất dũng cảm, người dũng cảm chưa hẳn đã có đức nhân”.
[14.5]
南宮适問於孔子曰:「羿善射,奡盪舟,俱不得其死然。禹稷躬稼而有天下。」夫子不答。南宮适出,子曰:「君子哉若人!尚德哉若人!」
Nam Cung Quát vấn ư Khổng tử viết: “Nghệ thiện xạ, Ngạo (hay Nghiệu) đãng chu, câu bất đắc kì tử nhiên. Vũ, Tắc cung giá nhi hữu thiên hạ”. Phu tử bất đáp. Nam Cung Quát xuất. Tử viết: “Quân tử tai nhược nhân! Thượng đức tai nhược nhân!”
Dịch.- Nam Cung Quát hỏi Khổng tử: “Nghệ bắn giỏi, Ngạo dùng thuyền mà xung sát (thuỷ chiến), rồi đều bất đắc kì tử. Ông Vũ, ông Tắc đều cấy lúa mà sau có thiên hạ”. Khổng tử không đáp. Nam Cung Quát ra rồi, ông bảo: “Người ấy thật quân tử, người ấy thật biết trọng đạo đức!”.
Chú thích. – Nghệ là vua nước Hữu Cùng, bắn cung giỏi, diệt vua Hạ Hầu Tướng mà cướp ngôi; sau bị bề tôi là Hàn Trác giết để cướp. Ngạo là con của Hàn Trác giỏi thuỷ chiến (có sách giảng “đãng chu” là đẩy được thuyền trên cạn – Chúng tôi theo chú thích của Triệu Thông), sau bị vua Thiếu Khang nhà Hạ giết. Ông Vũ có công dẹp nạn nước lụt, được vua Thuấn nhường ngôi cho. Ông Tắc tự gieo lúa giống, dạy dân cày cấy, là thuỷ tổ của nhà Chu cho nên cũng gọi là có thiên hạ. Nam Cung Quát có ý chê các vua đương thời không trọng đức mà chỉ trọng võ lực, nên Khổng tử không tiện trả lời.
[14.6]
子曰:「君子而不仁者有矣夫?未有小人而仁者也!」
Tử viết: “Quân tử nhi bất nhân giả hữu hĩ phù! Vị hữu tiểu nhân nhi nhân giả dã”[2].
[14.7]
子曰:「愛之,能勿勞乎?忠焉,能勿誨乎?」
Tử viết: “Ái chi, năng vật lao hồ? Trung yên, năng vật hối hồ?”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Yêu ai mà không dạy người đó chịu khó nhọc ư? Trung với ai mà không khuyên người đó theo điều chính ư?”.
[14.8]
子曰:「為命:裨諶草創之,世叔討論之,行人子羽修飾之,東里子產潤色之。」
Tử viết: “Vi mệnh, Ti Thầm thảo sang chi, Thế Thúc thảo luận chi, hành nhân Tử Vũ tu sức chi, Đông Lý Tử Sản nhuận sắc chi”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Khi (nước Trịnh) làm từ lệnh ngoại giao thì giao Tì Thầm khởi thảo, Thế Khúc thảo luận thêm, quan coi việc đi sứ là Tử Vũ sửa chữa, Tử Sản ở Đông Lý nhuận sắc lại”.
[14.9]
或問「子產」。子曰:「惠人也。」問「子西」。曰:「彼哉彼哉!」問「管仲」。曰:「人也,奪伯氏駢邑三百,飯疏食,沒齒,無怨言。」
Hoặc vấn Tử Sản. Tử viết: “Huệ nhân dã”. Vấn Tử Tây. Viết: “Bỉ tai! Bỉ tai!”. Vấn Quản Trọng. Viết: “Nhân dã. Đoạt Bá Thị Biền ấp tam bách phạn sơ tự, một xỉ, vô oán ngôn”.
Dịch.- Có người hỏi về Tử. Khổng tử đáp: “Một người nhân từ, yêu dân”. Hỏi về Tử Tây. Đáp: “Con người ấy! con người ấy!” (có ý chê). Hỏi về Quản Trọng. Đáp: “Một người đặc biệt (các sách giảng là một người có công lớn với nước Tề). Vua (Hoàn Công) nước Tề lấy ấp Biền gồm ba trăm hộ của Bá Thị thưởng cho ông ấy, Bá Thị (hoá nghèo) phải ăn uống đạm bạc, vậy mà tới chết không hề oán hận.
Chú thích. – Các sách xưa chú thích Tử Tây là một lệnh doãn của nước Sở; nhưng các nhà gần đây cho là một đại phu nước Trịnh nối chức Tử Sản, khi Tử Sản chết. Thuyết sau có phần đúng. Vì người hỏi chắc có ý muốn so sánh ba vị tướng quốc: Quản Trọng tướng quốc nước Tề, hai người kia là tướng quốc nước Trịnh.
[14.10]
子曰:「貧而無怨,難;富而無驕,易。」
Tử viết: “Bần nhi vô oán, nan; phú nhi vô kiêu, dị”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Nghèo mà không oán hận, điều đó khó; giàu mà không kiêu căng, dễ hơn”.
[14.11]
子曰:「孟公綽,為趙魏老則優,不可以為滕薛大夫。」
Tử viết: “Mạnh Công Xước vi Triệu, Ngụy lão tắc ưu, bất khả dĩ vi Đằng,Tiết đại phu”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Mạnh Công Xước làm gia thần cho họ Triệu, họ Nguỵ thì rất tốt, làm đại phu nước Đằng, nước Tiết thì không được”.
Chú thích. – Triệu và Nguỵ là hai đại phu nước Tấn. Tiết, Đằng là hai nước nhỏ thời đó. Khổng tử cho Mạnh Công Xước là có đức mà thiếu tài.
[14.12]
子路問「成人」。子曰:「若臧武仲之知,公綽之不欲,卞莊子之勇,冉求之藝,文之以禮樂;亦可以為成人矣!」曰:「今之成人者,何必然?見利思義,見危授命,久要不忘平生之言;亦可以為成人矣!」
Tử Lộ vấn thành nhân. Tử viết: “Nhược Tang Võ Trọng chi trí, Công Xước chi bất dục, Biện Trang tử chi dũng, Nhiễm Cầu chi nghệ, văn chi dĩ lễ nhạc, diệc khả dĩ vi thành nhân hĩ”. Viết: “Kim chi thành nhân giả, hà tất nhiên? Kiến lợi tư nghĩa, kiến nguy thụ mệnh, cửu yếu bất vong bình sinh chi ngôn, diệc khả dĩ vi thành nhân hĩ?”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Tử Lộ hỏi thế nào là người hoàn toàn. Khổng tử đáp: “Thông minh sáng suốt như Tang Võ Trọng, không tham lam mà liêm khiết như (Mạnh) Công Xước, dũng cảm như Trang tử ấp Biện, tài nghệ như Nhiễm Cầu, lại học thêm lễ nghĩa, thấy nguy thì không tiếc tánh mệnh, ước hẹn với ai từ lâu mà vẫn không quên, như thế cũng có thể thành người hoàn toàn được”. 
Chú thích. – Tang Võ Trọng là con của Tang Văn Trọng trong bài V.17. Trang tử là dũng sĩ nước Lỗ.
[14.13]
子問「公叔文子」於公明賈,曰:「信乎?夫子不言不笑不取乎?」公明賈對曰:「以告者過也!夫子時然後言,人不厭其言;樂然後笑,人不厭其笑;義然後取,人不厭其取。」子曰:「其然!豈其然乎?」
Tử vấn Công Thúc Văn Tử ư Công Minh Giả viết: “Tín hồ? Phu tử bất ngôn, bất tiếu, bất thủ hồ?”. Công Minh Cổ đối viết: “Dĩ cáo giả quá dã. Phu tử thời nhiên hậu ngôn, nhân bất yếm kì ngôn, lạc nhiên hậu tiếu, nhân bất yếm kì tiếu, nghĩa nhiên hậu thủ, nhân bất yếm kì thủ. Tử viết: “Kì nhiên? Khởi kì nhiên hồ?”.
Dịch.- Khổng tử hỏi Công Minh Giả (người Vệ) về Công Thúc Văn Tử (một đại phu nước Vệ): “Có thực là Công Thúc Văn Tử không nói, không cười, không nhận vật tặng, phải không?” Công Minh Giả đáp: “Người nào nói vậy là quá đáng. Ông Công Thúc Văn Tử khi đáng nói mới nói nên người ta nghe mà không chán; có vui mới cười nên người ta thấy cười mà không chán; đáng nhận vật gì thì mới nhận nên người ta thấy ông nhận mà không chê”. Khổng tử nói: “Thật vậy ư? Có thể thật như vậy được ư?”.
[14.14]
子曰:「臧武仲以防,求為後於魯,雖曰不要君,吾不信也。」
Tử viết: “Tang Võ Trọng dĩ Phòng cầu vi hậu ư Lỗ, tuy viết bất yêu quân, ngô bất tín dã”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Tang Võ Trọng lấy ấp Phòng để xin vua Lỗ cho con cháu mình làm chủ ấp đó, tuy là nói là không yêu sách vua, ta cũng không tin”.
[14.15]
子曰:「晉文公譎而不正;齊桓公正而不譎。」
Tử viết: “Tấn Văn Công quyệt nhi bất chính, Hoàn công chính nhi bất quyệt”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Tấn Văn Công xảo quyệt mà không chính đại; Tề Hoàn Công chính đại mà không xảo quyệt”.
Chú thích. – Tấn Văn Công và Tề Hoàn Công đều là những “Bá” đời Xuân Thu.
[14.16]
子路曰:「桓公殺公子糾,召忽死之,管仲不死。」曰:「未仁乎!」子曰:「桓公九合諸侯,不以兵車,管仲之力也。如其仁!如其仁!」
Tử Lộ viết: “Hoàn Công sát công tử Củ, Triệu Hốt tử chi, Quản Trọng bất tử”. Viết: Vị nhân hồ?”. Tử viết: “Hoàn Công cửu hợp chư hầu, bất dĩ binh xa, Quản Trọng chi lực dã. Như kì nhân, như kì nhân?”.
Dịch.- Tử Lộ bảo: “(Tề) Hoàn Công giết công tử Củ, Thiệu Hốt chết theo công tử Củ, Quản Trọng thì không”. Rồi lại nói: “Như vậy Quản Trọng chưa đáng gọi là nhân chăng?” Khổng tử nói: “Hoàn Công chín lần họp chư hầu mà không phải dùng võ lực uy hiếp họ, đó là tài sức của Quản Trọng. Nhân đức của ông ấy ở đó, nhân đức của ông ấy ở đó”.
Chú thích. – Thiệu Hốt và Quản Trọng đều thờ công tử Củ, em Tề Hoà Công. Công tử Củ bị Hoàn Công giết vì tranh quyền với mình. Thiệu Hốt chết theo chúa. Quản Trọng đã không chết theo chúa, lại còn làm tướng quốc giúp cho Hoàn Công nữa. Vì vậy Tử Lộ chê là bất nhân. Khổng tử cho việc chết theo chúa đó là cái tiết tháo nhỏ, mà khen Quản Trọng không dùng võ lực mà dân được yên ổn, nhân đức của của Quản Trọng ở đó. Quan niệm trung quân của ông rộng rãi chứ không hẹp hòi như đời sau. Giúp dân giúp nước, điều đó quan trọng hơn giữ tiết với vua. “Cửu hợp chư hầu”: chín lần họp chư hầu; thực ra là mười một lần, có lẽ chữ cửu[] (chín) nên sửa là chữ củ [][3] (kết hợp) thì phải hơn. Câu cuối có người dịch là: “Ai mà nhân đức được bằng ông ấy”.
[14.17]
子貢曰:「管仲非仁者與?桓公殺公子糾,不能死,又相之。」子曰:「管仲相桓公,霸諸侯,一匡天下,民到于今受其賜。微管仲,吾其被髮左衽矣!豈若匹夫匹婦之為諒也,自經於溝瀆,而莫之知也!」
Tử Cống viết: “Quản Trọng phi nhân giả dư? Hoàn Công sát công tử Củ, bất năng tử, hựu tướng chi?”. Tử viết: “Quản Trọng tướng Hoàn Công, bá chư hầu, nhất khuông thiên hạ, dân đáo vu kim thụ kì tứ. Vi Quản Trọng, ngô kì bí phát, tả nhẫm hĩ. Khởi nhược thất phu, thất phụ chi vi lượng dã, tự kinh ư câu độc nhi mạc chi tri dã?”.
Dịch.- Tử Cống bảo: “Quản Trọng không phải là người nhân chăng? Hoàn Công giết công tử Củ, Quản Trọng không chết theo mà còn làm tướng quốc cho Hoàn Công”. Khổng tử nói: “Quản Trọng giúp Hoàn Công, khiến Hoàn Công làm bá (lãnh tụ) các chư hầu, thiên hạ qui về một mối, nhân dân đến nay còn mang ơn ông. Nếu không có ông thì chúng ta ngày nay phải gióc tóc, mặc áo có vạt bên trái (như Di, Địch)[4] rồi. Ông há phải như bọn thất phu, thất phụ tầm thường, tự treo cổ nơi ngòi, rảnh mà chẳng ai biết tới ư?”.
[14.18]
公叔文子之臣大夫僎,與文子同升諸公。子聞之曰:「可以為矣!」
Công Thúc Văn Tử chi thần đại phu Soạn, dữ Văn tử đồng thăng chư công. Tử văn chi, viết: “Khả dĩ vi văn hĩ”.
Dịch.- Đại phu Soạn là gia thần của Công Thúc Văn tử, nhờ Văn tử tiến cử mà cùng Văn tử được thăng làm đại phu ở triều đình. Khổng tử hay tin đó, bảo: “(Công Thúc Văn tử) đáng được đặt tên thuỵ là Văn”[5].
[14.19]
子言衛靈公之無道也,康子曰:「夫如是,奚而不喪?」孔子曰:「仲叔圉治賓客,祝鮀治宗廟,王孫賈治軍旅;夫如是,奚其喪?」
Tử ngôn Vệ Linh Công chi vô đạo dã. Khang Tử viết: “Phù như thị, hề nhi bất táng?”. Khổng tử viết: “Trọng Thúc Ngữ trì tân khách, Chúc Đà trì tôn miếu, Vương Tôn Giả trì quân lữ. Phù như thị, hề kì táng?”.
Dịch.- Khổng tử nói về chuyện vua Vệ Linh Công là người vô đạo. Khang tử hỏi: “Như vậy sao không mất ngôi vua?”. Khổng tử đáp: “Có Trọng Thúc Ngữ coi việc ngoại giao, Chú Đà coi việc tế tự, Vương Tôn Giả coi việc quân. Dùng người như vậy, sao mất ngôi được?”.
Chú thích. – Khang tử là Quí Khang tử, đại phu nước Lỗ.
[14.20]
子曰:「其言之不怍,則為之也難!」
Tử viết: “Kì ngôn chi bất tạc tắc vi chi dã nan”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Nói khoác lác mà không thẹn thì khó làm được như lời mình nói”.
[14.21]
陳成子弒簡公。孔子沐浴而朝,告於哀公曰:「陳恆弒其君,請討之。」公曰:「告夫三子。」孔子曰:「以吾從大夫之後,不敢不告也!君曰:『告夫三子。』者!」之三子告,不可。孔子曰:「以吾從大夫子後,不敢不告也!」
Trần Thành tử thí Giản Công. Khổng tử mộc dục nhi triều, cáo ư Ai Công viết: “Trần Hằng thí kì quân, thỉnh thảo chi?”. Công viết: “Cáo phù tam tử!”. Khổng Tử viết: “Dĩ ngô tòng đại phu chi hậu, bất cảm bất cáo dã. Quân viết: “Cáo phu tam tử giả!”. Chi tam tử cáo bất khả. Khổng tử viết: “Dĩ ngô tòng đại phu chi hậu, bất cảm bất cáo dã”.
Dịch.- Trần Thành tử (tên Hằng, đại phu nước Tề) giết Giản Công (vua Tề). Khổng tử (đã về trí sĩ ở Lỗ) tắm gội rồi vào triều tâu với Lỗ Ai Công: “Trần Hằng giết vua, xin xuất binh hỏi tội hắn”. Ai Công nói: “Ông nên nói với ba nhà (tức ba quyền thần Mạnh Tôn, Thúc Tôn, Quí Tôn)”. Khổng tử ra đi, nói: “Vì tôi đi sau hàng đại phu nên không dám tâu việc ấy với vua. Vua bảo nên nói với ba nhà”. Đi nói với ba nhà, không ai chịu. Khổng tử đi về nói: “Vì tôi theo sau hàng đại phu, nên không dám không báo cáo việc ấy”.
[14.22]
子路問「事君」。子曰:「勿欺也,而犯之。」
Tử Lộ vấn sự quân. Tử viết: “Vật khi dã, nhi phạm chi”.
Dịch.- Tử Lộ hỏi về việc thờ vua. Khổng tử đáp: “Không nên lừa gạt vua, nhưng không ngại xúc phạm vua (mà phải giám can gián)”.
[14.23]
子曰:「君子上達;小人下達。」
Tử viết: “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người quân tử hướng lên cao (đạo đức) mà mong đạt tới; kẻ tiểu nhân hướng xuống thấp (tài lợi) mà mong đạt được”.
[14.24]
子曰:「古之學者為己;今之學者為人。」
Tử viết: “Cổ chi học giả vị kỉ, kim chi học giả vị nhân”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người xưa học vì mình, người đời nay học vì người (nghĩa là cho người ta biết tới mình).
[14.25]
蘧伯玉使人於孔子。孔子與之坐,而問焉。曰:「夫子何為?」對曰:「夫子欲寡其過而未能也。」使者出。子曰:「使乎!使乎!」
Cừ Bá Ngọc sử nhân ư Khổng tử. Khổng tử dữ chi tọa nhi vấn yên, viết: “Phu tử hà vi?”. Đối viết: “Phu tử dục quả kì quá nhi vị năng dã”. Sứ giả xuất, Tử viết: “Sứ hồ! sứ hồ!”.
Dịch.- Cừ Bá Ngọc (đại phu nước Vệ, tuổi cao, đức lớn, khi Khổng tử tới Vệ, thường ở nhà ông ấy) sai người lại thăm Khổng tử. Khổng tử mời người đó ngồi, rồi hỏi: “Cừ phu tử lúc này làm gì?”. Người đó đáp: “Phu tử muốn bớt lầm lỗi đi mà chưa được”. Khi người đó ra về, Khổng tử khen: “Người đi sứ đó giỏi! người đi sứ đó giỏi!”.
[14.26]
子曰:「不在其位,不謀其政。」
曾子曰:「君子思不出其位。」
Tử viết: “Bất tại kì vị, bất mưu kì chính”. (Đoạn này trùng với bài VIII.14, không dịch lại). Tăng tử viết: “Quân tử tư bất xuất kì vị”.
Dịch.- Tăng tử nói: “Người quân tử nghĩ ngợi trong chức vụ của mình”.
Chú thích. – Câu này có ý nghĩa như câu trên nên sắp chung một bài.
[14.27]
子曰:「君子恥其言而過其行。」
Tử viết: “Quân tử sỉ kì ngôn nhi quá kì hành”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người quân tử thẹn rằng nói nhiều mà làm ít”.
Chú thích. – Có người hiểu rằng: “Người quân tử hổ thẹn, rụt rè về lời nói mà cố gắng gỏi, cố sức về việc làm”.
[14.28]
子曰:「君子道者三,我無能焉:仁者不憂;知者不惑;勇者不懼。」子貢曰:「夫子自道也!」
Tử viết: “Quân tử đạo giả tam, ngã vô năng yên: nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dũng giả bất cụ” . Tử Cống viết: “Phu tử tự đạo dã”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Đạo người quân tử gồm có ba mà ta chưa làm được: người nhân không lo buồn, người trí không nghi hoặc, người dũng không sợ hãi”. Tử Cống nói: “Thầy tự nói khiêm như vậy đấy. (Thầy nói về thầy đấy)”.
[14.29]
子貢方人。子曰:「賜也,賢乎哉?夫我則不暇!」
Tử Cống phương nhân. Tử viết: “Tứ dã, hiền hồ tai? Phù ngã tắc bất hạ”.
Dịch.- Tử Cống hay so sánh người này với người khác. Khổng tử nói: “Anh Tứ giỏi thế ư? Ta thì không rảnh để so sánh người”.
[14.30]
子曰:「不患人之不己知,患其不能也。」
Tử viết: “Bất hoạn nhân chi bất kỉ tri, hoạn kì bất năng dã”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Đừng lo không ai biết mình, chỉ lo mình không có tài đức để người ta biết đến”. 
[14.31]
子曰:「不逆,不億『不信』。抑亦先覺者,是賢乎?」
Tử viết: “Bất nghịch trá, bất ức bất tín, ức diệc tiên giác giả, thị hiền hồ!”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Không tiên liệu rằng người ta gạt mình, đừng ức đoán người ta không tin mình, nhưng khi gặp những người như vậy, mình biết được ngay, như vậy là hiền đấy!”.
[14.32]
微生畝謂孔子曰:「丘何為是栖栖者與?無乃為佞乎?」孔子曰:「非敢為佞也,疾固也。」
Vi Sinh Mẫu[1] vị Khổng tử viết: “Khâu hà vi thị thê thê giả dư? Vô nãi vi nịnh hồ? Khổng tử viết: “Phi cảm vi nịnh dã, tật cố dã”.
Dịch.- Vi Sinh Mẫu nói với Khổng tử: “Này Khâu, sao ông không ở yên mà cứ lăng xăng đi du thuyết như vậy? Ông muốn tỏ cái khẩu tài của mình chăng?”. Khổng tử đáp: “Tôi không dám tỏ khẩu tài, chỉ ghét hạng người ngoan cố thôi”.
[14.33]
子曰:「驥不稱其力,稱其德也。」
Tử viết: “Kí bất xưng kì lực, xưng kì đức dã”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người ta khen con ngựa kí không phải vì nó có sức mà vì nó thuần lương”.
[14.34]
或曰:「以德報怨,何如?」子曰:「何以報德?以直報怨,以德報德。」
Hoặc viết: “Dĩ đức báo oán, hà như?”. Tử viết: “Hà dĩ báo đức? Dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức”.
Dịch.- Có người nói: “Lấy đức mà báo oán, nên không?”. Khổng tử đáp: “Thế thì lấy gì báo đức? Cứ chính trực mà báo oán, và lấy đức mà báo đức (lấy ân huệ để đáp ân huệ)”.
[14.35]
子曰:「莫我知也夫!」子貢曰:「何為其莫知子也?」子曰:「不怨天,不尤人;下學而上達。知我者,其天乎!」
Tử viết: “Mạc ngã tri dã phù!”. Tử Cống viết: “Hà vi kì mạc tri tử dã?”. Tử viết: “Bất oán thiên, bất vưu nhân, hạ học nhi thượng đạt, tri ngã giả kì thiên hồ!”.
Dịch.- Khổng tử than: “Không có ai hiểu ta cả!”. Tử Cống hỏi: “Sao thầy lại than không ai hiểu thầy?”. Khổng tử đáp: “Ta không oán trời, không trách người, học từ việc thấp là nhân sự mà đạt lên tới thiên lí. Hiểu ta chỉ có trời chăng?”.
Chú thích. – Theo Sử kí của Tư Mã Thiên thì Khổng tử than như vậy sau khi xảy ra việc bắt được con lân, ông biết rằng đạo ông không dùng được.
[14.36]
公伯寮愬子路於李孫,子服景伯以告,曰:「夫子固有惑志於公伯寮,吾力猶能逮諸市朝。」子曰:「道之將行也與?命也;道之將廢也與?命也;公伯寮其如命何!」
Công Bá Liêu tố Tử Lộ ư Quí Tôn. Tử Phục Cảnh Bá dĩ cáo viết: “Phu tử cố hữu hoặc chí ư Công Bá Liêu, ngô lực do năng tứ chư thị triều”. Tử viết: Đạo chi tương hành dã dư, mệnh dã; đạo chi tương phế dã dư, mệnh dã. Công Bá Liêu kì như mệnh hà!”.
Dịch.- Công Bá Liêu (một đại phu nước Lỗ) gièm pha Tử Lộ với Quí Tôn (quyền thần của Lỗ). Tử Phục Cảnh Bá nói với Khổng tử: “Phu tử (tức Quí Tôn) nghi ngờ Tử Lộ vì lời gièm pha của Công Bá Liêu. Tôi có đủ sức (biện oan cho Tử Lộ) làm cho Công Bá Liêu bị giết chết, bị bêu thây ở chợ hoặc triều đình”. Khổng tử nói: “Đạo (tôi) mà thi hành được là do mệnh trời, hay bị bỏ phế cũng do mệnh trời. Công Bá Liêu làm sao đổi được mệnh trời?”.
Chú thích. – Tử Lộ giúp Quí Tôn để thi hành đạo của Khổng.
[14.37]
子曰:「賢者辟世,其次辟地,其次辟色,其次辟言。」
Tử viết: “Hiền giả tị thế, kì thứ tị địa, kì thứ tị sắc, kì thứ tị ngôn”[2].
Dịch.- Khổng tử nói: “Bậc hiền nhân tránh đời mà ở ẩn, hạng thấp hơn tránh nước loạn mà qua nước khác, hạng thấp hơn nữa tránh những kẻ không có lễ độ, hạng cuối tránh những lời nói không hợp ý mình”.
Chú thích. – Khổng tử tuy nói theo thứ tự trước sau, nhưng không có ý phân biệt cao thấp, chỉ là tuỳ cảnh ngộ mà thôi. Như câu “bang vô đạo tắc ẩn” là trường hợp thứ nhất; câu “loạn bang bất cư” là trường hợp thứ nhì; câu “lễ mạo suy bất khứ chi” trong Mạnh tử - Cáo tử hạ - là trường hợp thứ ba; trường hộp cuối cùng như khi Tề Cảnh Công báo với Khổng tử rằng mình già rồi, không thi hành được chính sách của Khổng tử và Khổng tử bỏ đi – bài XVIII.3 ở sau.
[14.38]
子曰:「作者七人矣!」
Tử viết: “Tác giả thất nhân hĩ”.
Dịch.- Khổng tử nói: “(Nước Lỗ đã có) bảy người hành động như vậy rồi (tức đi ở ẩn)”.
Chú thích. – Bài này nối tiếp với bài ở trên. Có người giảng “tác” [] là đứng dậy (bỏ đi ở ẩn) – Không rõ bảy người đó là ai, mỗi thuyết một khác.
[14.39] 子路宿於石門。晨門曰:「奚自?」子路曰:「自孔氏。」曰:「是知其不可而為之者與?」
Tử Lộ túc ư Thạch Môn. Thần môn viết: “Hề tự?” Tử Lộ viết: “Tự Khổng thị”. Viết: “Thị tri kì bất khả nhi vi chi giả dữ?”.
Dịch.- Tử Lộ nghỉ đêm ở Thạch môn (ở ngoại thành nước Lỗ). Người mở cửa thành buổi sáng hỏi: “Ông ở đâu đến đây?”. Tử Lộ đáp: “Từ nhà họ Khổng đến”. Người đó nói: “Có phải cái ông biết không thể làm được mà vẫn cứ làm không?”.
[14.40]
子擊磬於衛。有荷蕢而過孔氏之門者,曰:「有心哉,擊磬乎!」既而曰:「鄙哉,硜硜乎!莫己知也,斯已而已矣!『深則厲,淺則揭。』」子曰:「果哉!末之難矣!」
Tử kích khánh ư Vệ, hữu hà quĩ nhi quá khổng thị chi môn giả, viết: “Hữu tâm tai, kích khánh hồ”. Kí nhi viết: “Bỉ tai! Khanh khanh hồ! Mạc kỉ tri dã, tư dĩ nhi dĩ hĩ”. Thâm tắc lệ, thiển tắc khê[3]. Tử viết: “Quả tai! Mạt chi nạn hĩ”.
Dịch.- Khổng tử đang đánh cái cái khánh (bằng đá) ở nước Vệ, có người vác sọt cỏ đi qua cửa, bảo: “Có hảo ý thay, người đánh khánh đó!”. Rồi người ấy lại nói: “Bỉ lậu thay! Tiếng khánh lanh lảnh ấy! Người ta đã không biết mình thì thôi, đi cho xong. (Kinh Thi, Bội phong có câu): “Lội nước sâu thì để cả áo, lội nước cạn thì vén áo lên”. Khổng tử nghe được bảo: “Ý người ta kiên quyết thật! Ta cũng chẳng cãi người đó làm gì”.
Chú thích. – Nhiều sách cho chữ [] đọc là nan và giảng câu cuối như sau: “Quả thật là người quên đời (hoặc: Quả thật như vậy ư?). Muốn như thế thì không khó gì”; hoặc: “Người ấy quả quyết, gắt gỏng thay! Đã chẳng nghĩ đến nhân tâm thế đạo thì đời sống có khó gì?”.  [14.41]
子張曰:「書云:『高宗諒陰三年不言』何謂也?」
子曰:「何必高宗?古之人皆然。君薨,百官總己以聽於冡宰,三年。」
Tử Trương viết: “Thư vân: “Cao tôn lượng âm, tam niên bất ngôn. Hà vị dã?”. Tử viết: Hà tất Cao Tôn? Cổ chi nhân giai nhiên. Quân hoăng, bách quan tổng kỉ, dĩ thính ư trủng tể, tam niên”.
Dịch.- Tử Trương hỏi: “Kinh Thư có câu: “Ông Cao Tôn để tang, ở cái nhà tang, ba năm không nói đến việc nước”. Thế nghĩa là sao?”. Khổng tử đáp: “Nào riêng gì vua Cao Tôn, người xưa đều như vậy cả. Vua cũ mất, trăm quan đều lo chức vụ của mình dưới lệnh của tể tướng, như vậy ba năm (trong khi vua mới cư tang)”.
Chú thích. – Coi việc Đằng Văn Công để tang cho cha theo đạo Nho, trong Mạnh tử - Đằng Văn Công thượng, bài 2).
[14.42]
子曰:「上好禮,則民易使也。」
Tử viết: “Thượng hiếu lễ tắc dân dị sử dã”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người trên ham lễ nghĩa thì dân dễ sai khiến”.
[14.43] 子路問「君子」。子曰:「修己以敬。」曰:「如斯而已乎?」曰:「修己以安人。」曰:「如斯而已乎?」曰:「修己以安百姓。修己以安百姓,堯舜其猶病諸。」
Tử Lộ vấn quân tử, Tử viết: “Tu kỉ dĩ kính” - Viết: “Như tư nhi dĩ hồ?”. Viết: “Tu kỉ dĩ an nhân”. Viết: “Như tư nhi dĩ hồ?”. Viết: “Tu kỉ dĩ an bách tính. Tu kỉ dĩ an bách tính, Nghiêu Thuấn kì do bệnh chư?”.
Dịch.- Tử Lộ hỏi thế nào là quân tử. Khổng tử đáp: “Sửa mình thành kính cẩn”. Tử Lộ lại hỏi: “Chỉ có vậy thôi ư?”. Khổng tử đáp: “Sửa mình cho người khác được yên trị”. Lại hỏi: “Chỉ có vậy thôi ư?”. Đáp: “Sửa mình để cho trăm họ yên trị. Sửa mình mà trăm họ yên trị, dẫu Nghiêu, Thuấn e cũng khó làm được thay”.
[14.44]
原壤夷俟。子曰:「幼而不孫弟,長而無述焉,老而不死,是為賊。」以杖叩其脛。
Nguyên nhưỡng di sĩ. Tử viết: “Ấu nhi bất tốn đễ, trưởng nhi vô thuật yên, lão nhi bất tử, thị vi tặc”. Dĩ trượng khấu kì hĩnh”.
Dịch.- Nguyên Nhưỡng (một bạn già của Khổng tử) ngồi xoạc chân ra đợi Khổng tử. Khổng tử nói: “Hồi nhỏ anh không biết kính thuận người lớn; lớn lên không làm được gì đáng khen; già rồi mà không chết. Như vậy chỉ báo hại người ta thôi”. Nói rồi lấy gậy gõ vào ống chân của Nguyên Nhưỡng”.
Chú thích. – Nguyên Nhưỡng là con người phóng túng, bỏ cả lễ phép.
闕黨童子將命。或問之曰:「益者與?」子曰:「吾見其居於位也,見其與先生並行也;非求益者也,欲速成者也。」
Khuyết đảng đồng, tử tương mệnh. Hoặc vấn chi viết: “Ích giả dư?”. Tử viết: “Ngô kiến kì cư ư vị dã, kiến kì dư tiên sinh tịnh hành dã. Phi cầu ích giả dã, dục tốc thành giả dã”.
Dịch.- Một đứa trẻ làng Khuyết được Khổng tử sai trong việc truyền đạt lời ông, mỗi khi có khách khứa. Có người hỏi: “Thằng bé đó học đã tấn ích ư?”. Khổng tử đáp: “Tôi thấy nó ngồi cùng chỗ với người lớn. Như vậy là nó không tiến bộ lần lần, mà muốn mau thành người lớn, nên tôi sai nó vậy cho nó biết lễ phép”.
THIÊN XV - VỆ LINH CÔNG -衛靈公第十五
[15.1]
衛靈公問陳於孔子。孔子對曰:「俎豆之事,則嘗聞之矣;軍旅之事,未之學也。」明日遂行。在陳絕糧。從者病,莫能興。子路慍見曰:「君子亦有窮乎?」子曰:「君子固窮;小人斯濫矣。」
Vệ Linh Công vấn trận ư Khổng tử. Khổng tử đối viết: “Trở đậu chi sự, tắc thường văn chi hĩ, quân lữ chi sự, vị chi học dã”. Minh nhật toại hành. Tại Trần tuyệt lương, tòng giả bệnh, mạc năng hưng. Tử Lộ uấn hiện, viết: “Quân tử diệc hữu cùng hồ?”. Tử viết: “Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hĩ”.
Dịch. – Vua Vệ Linh Công hỏi Khổng tử về chiến trận. Khổng tử đáp: “Về việc tế tự, lễ khí thì tôi đã từng nghe được, còn về quân lữ thì tôi chưa học”. Sáng hôm sau, ông rời nước Vệ. Ở nước Trần ông bị hết lương, các môn sinh theo hầu bị bệnh, không ngồi dậy được. Tử Lộ uất hận, hỏi ông: “Người quân tử cũng có khi cùng khốn ư?”. Khổng tử đáp: “Người quân tử có khi cùng khốn cũng là lẽ cố nhiên (hoặc: người quân tử có khi khốn cùng thì cố giữ tư cách của mình); kẻ tiểu nhân khốn cùng thì phóng túng, làm càng”.
Chú thích. – Không hiểu tại sao hai việc trên các sách đều sắp chung vào một bài. So sánh bài này với bài IV.15 [?].
[15.2]
子曰:「賜也,女以予為多學而識之者與?」對曰:「然,非與?」曰:「非也!予一以貫之。」
Tử viết: “Tứ dã, nhữ dĩ dư vi đa học nhi chí chi giả dư?”. Đối viết: “Nhiên. Phi dư?”. Viết: “Phi dã, dư nhất dĩ quán chi”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Anh Tứ, anh cho ta học nhiều mà nhớ hết chăng?”. Tử Cống đáp: “Vâng. Không phải vậy sao?”. Khổng tử nói: “Không phải vậy, ta tìm một điều căn bản mà khái quát, thông suốt cả”.
Chú thích. – Có người bảo chữ “quán” [] ở đây có nghĩa là làm, tập. Nhất dĩ quán chi là ghi nhớ điều tai nghe rồi lấy “thực tiễn” (tức quán) làm căn bản. Thuyết này khó tin được.
[15.3]
子曰:「由,知德者鮮矣!」
Tử viết: “Do, tri đức giả tiển hĩ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Anh Do (Tử Lộ) người biết đạo đức (nghĩa lí) ít lắm”.
[15.4]
子曰:「無為而治者,其舜也與!夫何為哉?恭己正南面而已矣Tử viết: “Vô vi nhi trị giả, kì Thuấn dã dư! Phù hà vi tai? Cung kí chính Nam diện nhi dĩ hĩ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Không làm gì mà thiên hạ bình trị, là vua Thuấn đấy chăng? Chỉ kính cẩn, đoan chính quay mặt về phương Nam (ngồi trên ngai) thế thôi”. (Nhờ khéo giáo hoá và có bề tôi hiền).
[15.5]
子張問「行」。子曰:「言忠信,行篤敬,雖蠻貊之邦行矣;言不忠信,行不篤敬,雖州里行乎哉?立,則見其參於前也;在輿,則見期倚於衡也;夫然後行!」子張書諸紳。
Tử Trương vấn hành. Tử viết: “Ngôn trung tín, hành đốc kính, tuy Man, Mạch chi bang, hành hĩ. Ngôn bất trung tín, hành bất đốc kính, tuy châu lí, hành hồ tai? Lập, tắc kiến kì tham ư tiền dã, tại dư tắc kiến kì ỷ ư hành dã, phù nhiên hậu hành”. Tử trương thư chư thân.
Dịch. – Tử Trương hỏi làm cách nào đi đâu cũng trót lọt. Khổng tử đáp: Lời nói trung thực, đáng tin, hành vi phải thân thiết, kính cẩn, như vậy dù đến nước Man, nước Mạch (các nước lạc hậu ở phương Nam, phương Bắc) cũng trót lọt. Lời nói không trung thực, đáng tin, hành vi không thân thiết, kính cẩn, thì dù ở trong làng, trong châu (một châu gồm 2500 nhà) của mình cũng làm sao trót lọt được? Khi đứng, thấy cái ta mới nói đó như trước mặt; khi ngồi xe, thấy nó dựa trên cái ách. Phải như vậy rồi mới trọt lọt”. Tử Trương chép ngay vào dây đai.
[15.6]
子曰:「直哉史魚!邦有道,如矢;邦有道,如矢。君子哉蘧伯玉!邦有道,則仕;邦無道,則可卷而懷之。」
Tử viết: “Trực tai, Sử Ngư! Bang hữu đạo như thỉ, bang vô đạo như thỉ. Quân tử tai, Cừ Bá Ngọc! Bang hữu đạo tắc sĩ, bang vô đạo tắc khả quyển nhi hoài chi”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Ngay thẳng như ông Sử Ngư, nước có đạo, ông thẳng như mũi tên, nước vô đạo ông cũng thẳng như mũi tên. Quân tử thay ông Cừ Bá Ngọc! Nước có đạo thì làm quan, nước vô đạo thì lui về ở ẩn (dịch từng chữ là thu cái tài của mình mà cất đi)”.
Chú thích. – Sử Ngư là một đại phu của nước Vệ. – Cừ Bá Ngọc cũng là một đại phu của nước Vệ, coi bài XIV.25.
[15.7]
子曰:「可與言,而不與之言,失人;不可與言,而與之言,失言。知者不失人,亦不失言。」
Tử viết: “Khả dữ ngôn, nhi bất dữ chi ngôn, thất nhân; bất khả dữ ngôn nhi dữ chi ngôn, thất ngôn. Trí giả bất thất nhân, diệc bất thất ngôn”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Đáng nói chuyện với ai mà không nói, là mất một người (tốt). Không đáng nói chuyện với ai mà nói, là phí lời. Người sáng suốt không bỏ mất người, cũng không phí lời”.
[15.8]
子曰:「志士仁人,無求生以害仁,有殺身以成仁。」
Tử viết: “Chí sĩ, nhân nhân, vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người sĩ có chí và người có đức nhân không cầu sống mà làm hại điều nhân, mà có khi hi sinh tính mạng để thành điều nhân”.

。」
[15.7]

[15.9]
子貢問「為仁」。子曰:「工欲善其事,必先利其器。居是邦也,事其大夫之賢者,友其士之仁者。」
Tử Cống vấn vi nhân. Tử viết: “Công dục thiện kì sự, tất tiên lợi kì khí. Cư thị bang dã, sự kì đại phu chi hiền giả, hữu kì sĩ chi nhân giả”.
Dịch. – Tử Cống hỏi về sự tu dưỡng đức nhân. Khổng tử đáp: “Người thợ muốn làm việc cho khéo thì trước hết phải có đồ dùng tốt. (Cũng vậy, muốn tu dưỡng đức nhân, cần có thầy, bạn). Ở nước nào thì tìm ông đại phu nào hiền mà thờ, tìm người nhân mà làm bạn”.
顏淵問「為邦」。子曰:「行夏之時,乘殷之輅。服周之冕。樂則韶舞。放鄭聲,遠佞人;鄭聲淫,佞人殆。」
XV.10
Nhan Uyên vấn vi bang. Tử viết: “Hành Hạ chi thời, thừa Ân chi lộ, phục Chu chi miện, nhạc tắc Thiều Vũ[1]. Phóng Trịnh thanh, viễn nịnh nhân. Trịnh thanh dâm, nịnh nhân đãi”.
Dịch. – Nhan Uyên hỏi về phép trị nước. Khổng tử đáp: “Theo lịch nhà Hạ, ngồi xe nhà Ân, đội mũ miện nhà Chu, nhạc thì theo nhạc Thiều và Vũ. Cấm giọng hát nước Trịnh, xa kẻ nịnh. Giọng hát nước Trịnh dâm, kẻ nịnh nguy hiểm”.
[15.13]
子曰:「人無遠慮,必有近憂。」
XV.11
Tử viết: “Nhân vô viễn lự tất hữu cận ưu”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Không lo xa thì tất có cái buồn gần”[2].
[15.14]
子曰:「已矣乎!吾未見好德如好色者也!」
XV.12
Tử viết: “Dĩ hĩ hồ, ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã”.
(Bài này trùng với bài IX.17, chỉ thêm ba chữ: Dĩ hĩ hồ nghĩa là: Thôi đi hết mong rồi)
[15.15]
子曰:「臧文仲,其竊位者與?知柳下惠之賢,而不與立也。」
XV.13
Tử viết: “Tang Văn Trọng, kì thiết vị giả chi[3]? Tri Liễu Hạ Huệ chi hiền nhi bất dữ vị[4] dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Tang Văn Trọng đã trộm chức vị đó chăng? (Không xứng, không làm tròn chức vị). Biết ông Liễu Hạ Huệ là người hiền mà không tiến cử ông ấy đứng ở triều đình với mình”.
Chú thích. – Liễu Hạ Huệ, người Lỗ, họ Triển, tên Hoạch, ở xứ Liễu Hạ, có nhân đức.
[15.16]
子曰:「躬自厚,而薄責於人,則遠怨矣!」
XV.14
Tử viết: “Cung tự hậu nhi bạc trách ư nhân, tắc viễn oán hĩ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Trách mình thì nghiêm, trách người thì nhẹ, như vậy tránh được oán. (Người không oán mình mà mình cũng không oán người)”.
[15.12]
[15.17]
子曰:「不曰:『如之何,如之何』者,吾末如之何也已矣?」
XV.15
Tử viết: “Bất viết: “Như chi hà, như chi hà” giả, ngô mạt như chi hà dã dĩ hĩ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người nào không tự hỏi: “Làm sao đây, làm sao đây?” thì ta chẳng biết phải đối xử với người đó làm sao (chẳng có cách nào chỉ bảo cho người đó được).
[15.18]
子曰:「群居終日,言不及義,好行小慧;難矣哉!」
XV.16
Tử viết: “Quần cư chung nhật, ngôn bất cập nghĩa, hiếu hành tiểu tuệ, nan hĩ tai!”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Túm tụ với nhau suốt ngày, không bàn về đạo lí mà thích làm những điều khôn vặt, thật là khó sử được (hoặc là khó tiến được)”.
[15.19]
子曰:「君子義以為質,禮以行之,孫以出之,信以成之;君子哉!」
XV.17
Tử viết: “Quân tử nghĩa dĩ vi chất, lễ dĩ hành chi, tốn dĩ xuất chi, tín dĩ thành chi, quân tử tai!”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử lấy nghĩa làm gốc, theo lễ mà làm, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên việc, như vậy thật là người quân tử”.
[15.20]
子曰:「君子病無能焉,不病人之不己知也。」
XV.18
Tử viết: “Quân tử bệnh vô năng yên, bất bệnh nhân chi bất kỉ tri dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử buồn vì mình không có tài năng chứ không buồn vì người ta không biết mình”.
[15.21]
子曰:「君子疾沒世而名不稱焉。」
XV.19
Tử viết: “Quân tử tật một thế nhi danh bất xưng yên”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử hận rằng tới chết mà không ai biết tiếng mình”. (Không làm gì để người ta khen mình).
[15.22]
子曰:「君子求諸己;小人求諸人。」
XV.20
Tử viết: “Quân tử cầu chư kỉ, tiểu nhân cầu chư nhân”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử cầu ở mình, kẻ tiểu nhân cầu ở người”.
[15.22]
子曰:「君子矜而不爭,群而不黨。」
XV.21
Tử viết: “Quân tử căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử nghiêm trang giữ lập trường mà không tranh với ai, hoà hợp (cộng tác) với mọi người mà không bè đảng”.
[15.23]
子曰:「君子不以言舉人;不以人廢言。」
XV.22
Tử viết: “Quân tử bất dĩ ngôn cử nhân, bất dĩ nhân phế ngôn”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử không vì lời nói phải của một người mà đề cử người đó (vì còn xét đức hạnh của người đó nữa), không vì phẩm hạnh của người mà không nghe lời nói phải của người đó”.
[15.24]
子貢問曰:「有一言而可以終身行之者乎?」子曰:「其恕乎!己所不欲,勿施於人。」
XV.23
Tử Cống vấn viết: “Hữu nhất ngôn, nhi khả dĩ chung thân hành chi giả hồ?”. Tử viết: “Kì thứ hồ! Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân”.
Dịch. – Tử Cống hỏi” “Có một chữ nào suốt đời làm theo được không?”. Khổng tử đáp: “Có lẽ là chữ “thứ” chăng? Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người”.
[15.25]
子曰:「吾之於人也,誰毀誰譽?如有所譽者,其有所試矣。斯民也,三代之所以直道而行也。」
XV.24
Tử viết: “Ngô chi ư nhân dã, thùy hủy, thùy dự? (Có người đọc là dư). Như hữu sở dự giả, kì hữu sở thí hĩ. Tư dân dã, tam đại chi sở dĩ trực đạo nhi hành dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Ta đối với người có chê ai, khen ai (quá đáng) đâu? Khen ai thì ta nghiệm trước đã (xem người đó có tốt không), còn chê người đời nay thì ta cứ theo đạo thẳng của ba đời (Hạ, Thương, Chu)”.
[15.26]
子曰:「吾猶及史之闕文也;有馬者,借人乘之;今亡矣夫!」
XV.25
Tử viết: “Ngô do cập sử chi khuyết văn dã, hữu mã giả, tá nhân thừa chi. Kim vô hĩ phù”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Ta còn được thấy (đời xưa) trong sách sử bỏ trống chữ để tồn nghi, và người có ngựa cho người khác mượn cưỡi (để huấn luyện giùm cho), ngày nay không còn thấy những việc ấy nữa”.
[15.27]
子曰:「巧言亂德。小不忍,則亂大謀。」
XV.26
Tử viết: “Xảo ngôn loạn đức. Tiểu bất nhẫn tắc loạn đại mưu”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Lời nói khéo thì làm bại hoại đạo đức. Việc nhỏ không nhịn được thì làm hỏng mưu lớn”.
[15.28]
子曰:「眾惡之,必察焉;眾好之,必察焉。」
XV.27
Tử viết: “Chúng ố chi, tất sát yên; chúng hiếu chi, tất sát yên”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Một người bị mọi người ghét thì ta phải xét xem có thật đáng ghét không; được mọi người ưa, ta cũng phải xét xem có đáng ưa không?”.
[15.29]
子曰:「人能弘道,非道弘人。」
XV.28
Tử viết: “Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người ta có thể làm cho đạo[5] rộng lớn lên, đạo không làm cho con người rộng lớn được”.
Chú thích. – Ý muốn nói: con người chủ động, làm cho đạo sáng thêm, rộng thêm được; nếu con người bị động, cứ cố chấp, giữ đúng đạo thì đạo chỉ làm cho con người hoá hẹp hòi thôi. Trách nhiệm ở người chứ không phải đạo.
[15.30]
子曰:「過而不改,是謂過矣!」
XV.29
Tử viết: “Quá nhi bất cải, thị vị quá hĩ!”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Có lỗi mà không sửa, như vậy mới thật là có lỗi!”.
[15.31]
子曰:「吾嘗終日不食,終夜不寢,以思;無益,不如學也。」
XV.30
Tử viết: “Ngô thường chung nhật bất thực, chung dạ bất tẩm, dĩ tư[6], vô ích, bất như học dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Ta có lần suốt ngày không ăn, trọn đêm không ngủ, để suy nghĩ nhưng vô ích, không bằng học”.
[15.32]
子曰:「君子謀道不謀食;耕也,餒在其中矣;學也,祿在其中矣。君子憂道不憂貧。」
XV.31
Tử viết: “Quân tử mưu đạo bất mưu thực. Canh dã, nỗi tại kì trung hĩ. Học dã, lộc tại kì trung hĩ. Quân tử ưu đạo bất ưu bần”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử mưu cầu đạt đạo, chứ không mưu cầu chuyện ăn. Cày ruộng (vốn để mưu cầu việc ăn) mà có khi gặp năm mất mùa, không có ăn; còn học đạo (vốn không phải mưu cầu việc ăn) nhưng có lúc được bổng lộc. Người quân tử lo không đạt đạo chứ không lo nghèo”.
[15.33]
子曰:「知及之,仁不能守之;雖得之,必失之。知及之,仁能守之,不莊以泣之;則民不敬。知及之,仁能守之,莊以泣之,動之不以禮;未善也。」
XV.32
Tử viết: “Trí cập chi, nhân bất năng thủ chi, tuy đắc chi, tất thất chi. Trí cập chi, nhân năng thủ chi, bất trang dĩ lị chi, tắc dân bất kính. Trí cập chi, nhân năng thủ chi, trang dĩ lị chi, động chi bất dĩ lễ, vị thiện dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Tài trí đủ để trị dân (có người hiểu là đủ để biết mọi lẽ) mà không biết dùng đức nhân để giữ dân, thì mất dân. Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân nghĩa giữ dân, mà đối đãi với dân không trang nghiêm thì dân không kính. Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân đức giữ dân, biết trang nghiêm đối đãi với dân, mà không biết dùng lễ cổ vũ dân theo thì chưa hoàn toàn tốt”.
Chú thích. – Bài này nói về cách trị dân: phải có tài trí, có đức nhân, thái độ trang nghiêm, giáo hoá bằng lễ.
[15.34]
子曰:「君子不可小知,而可大受也;小人不可大受,而可小知也。」
XV.33
Tử viết: “Quân tử bất khả tiểu tri, nhi khả đại thụ dã. Tiểu nhân bất khả đại thụ nhi khả tiểu tri dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử có thể không biết việc nhỏ nhặt, nhưng có thể đảm đương được việc lớn; kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn, nhưng có thể biết được việc nhỏ nhặt”.
Chú thích. – Có người hiểu là: “Lấy việc nhỏ nhặt mà xét thì không biết được tài cán của người quân tử, nhưng người quân tử có thể đảm đương được việc lớn; kẻ tiểu nhân không đảm đương được việc lớn, nhưng lấy việc nhỏ nhặt mà xét thì biết được tài cán của họ”.
[15.35]
子曰:「民之於仁也,甚於水火。水火,吾見蹈而死者矣;未見蹈仁而死者也。」
XV.34
Tử viết: “Dân chi ư nhân dã, thậm ư thủy hỏa. Thủy hỏa ngô kiến đạo nhi tử giả hĩ, vị kiến đạo nhân nhi tử giả dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Nhân dân đối với đạo nhân, coi đạo nhân cần thiết hơn nước lửa. Mà (nước lửa còn có khi nguy hiểm) đã có người sa xuống nước, dẫm vào lửa mà chết, (chứ đạo nhân tuyệt nhiên không nguy hiểm), chưa thấy ai theo đạo nhân mà chết”.
[15.36]
子曰:「當仁,不讓於師。」
XV.35
Tử viết: “Đương nhân, bất nhượng ư sư”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Làm điều nhân thì dẫu thành mình, mình cũng không nhường”.
Chú thích. – Nhân là điều ai cũng nên làm, hết sức mà làm, không có sự tranh chấp, mà cũng không có sự nhường nhau.
[15.37]
子曰:「君子貞而不諒。」
XV.36
Tử viết: “Quân tử trinh, nhi bất lượng”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử giữ vững chính nghĩa, không cố chấp điều tín nhỏ nhặt”.
[15.38]
子曰:「事君敬其事而後其食。」
XV.37
Tử viết: “Sự quân, kính kì sự nhi hậu kì thực”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Thờ vua thì phải cẩn trọng trong công việc rồi sau mới nghĩ đến bổng lộc”.
[15.39]
子曰:「有教無類。」
XV.38
Tử viết: “Hữu giáo vô loại”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Bất luận hạng người nào (giàu nghèo, sang hèn, thông minh, đần độn…) ta cũng dạy”.
Chú thích. – Có người dịch: Kẻ thiện hay ác, ta cũng dạy – Hiểu như vậy nghĩa quá hẹp.
[15.40]
子曰:「道不同,不相為謀。」
XV.39
Tử viết: “Đạo bất đồng, bất tương vi mưu”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Đạo (hay chí thú[7]) không giống nhau, thì không mưu tính với nhau được”.
[15.41]
子曰:「辭,達而已矣!」
XV.40
Tử viết: “Từ đạt nhi dĩ hĩ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Lời cốt diễn đạt đủ ý thì thôi”.
[15.42]
師冕見。及階,子曰:「階也!」及席,子曰:「席也!」皆坐,子告之曰:「某在斯!某在斯!」師冕出,子張問曰:「與師言之道與?」子曰:「然,固相師之道也。」
XV.41
Sư Miện hiện. Cập giai, Tử viết: “Giai dã”. Cập tịch, Tử viết: “Tịch dã”. Giai tọa, Tử cáo chi viết: “Mỗ tại tư, mỗ tại tư”. Sư Miện xuất. Tử Trương vấn viết: Dữ sư ngôn chi đạo dư?”. Tử viết: “Nhiên. Cố tướng sư chi đạo dã”.
Dịch. – Nhạc sư (mù) tên Miện đến thăm. Bước gần đến thềm, Khổng tử nói: “Đây là thềm”. Bước gần tới chiếu, Khổng tử nói: “Đây là chiếu”. Mọi người đều ngồi rồi, Khổng tử nói với nhạc sư: “Ông mỗ ngồi kia, ông mỗ ngồi kia”. Nhạc sư ra về rồi, Tử Trương hỏi: “Phép nói với nhạc sư như vậy phải không?”. Khổng tử đáp: “Phải. Đó là phép giúp, dắt dẫn nhạc sư (mù loà)”.
THIÊN XVI - QUÍ THỊ - 李氏第十六
[16.1]
李氏將伐顓臾。冉有李路見於孔子曰:「李氏將有事於顓臾。」孔子曰:「求,無乃爾是過與?夫顓臾,昔者先王以為東蒙主,且在邦域之中矣;是社稷之臣也,何以伐為?」冉有曰:「夫子欲之;吾二臣者,皆不欲也。」孔子曰:「求!周任有言曰:『陳力就列,不能者止。』危而不持,顛而不扶,則將焉用彼相矣?且爾言過矣!虎兕出於柙,龜玉毀於櫝中,是誰之過與?」冉有曰:「今夫顓臾,固而近於費;今不取,後世必為子孫憂。」孔子曰:「求!君子疾夫舍曰『欲之』而必為之辭。丘也,聞有國有家者,不患寡而患不均,不患貧而患不安;蓋均無貧,和無寡,安無傾。夫如是,故遠人不服,則修文德以來之。既來之,則安之。今由與求也,相夫子,遠人不服而不能來也,邦分崩離析,而不能守也,而謀動干戈於邦內,吾恐李孫之憂,不在顓臾,而在蕭牆之內也!」
Quí thị tương phạt Chuyên Du. Nhiễm Hữu, Quí Lộ kiến ư Khổng tử viết: “Quí thị tương hữu sự ư Chuyên Du”. Khổng tử viết: “Cầu, vô nãi nhĩ thị quá dư? Phù Chuyên Du, tích giả tiên vương dĩ vi Đông Mông chủ, thả tại bang vực chi trung hĩ, thị xã tắc chi thần dã. Hà dĩ phạt vi? Nhiễm Hữu viết: “Phu tử dục chi, ngô nhị thần giả giai bất dục dã”. Khổng tử viết: “Cầu, Chu Nhâm hữu ngôn viết: “Trần lực tựu liệt, bất năng giả chỉ”. Nguy nhi bất trì, điên nhi bất phù, tắc tương yên dụng bỉ tướng hĩ. Thả nhĩ ngôn quá hĩ, hổ tỉ[1] xuất ư hạp, qui ngọc hủy ư độc trung, thị thùy chi quá dư?”. Nhiễm Hữu viết: “Kim phù Chuyên Du, cố nhi cận ư Phí, kim bất thủ, hậu thế tất vi tử tôn ưu”. Khổng tử viết: “Cầu, quân tử tật phù xả viết dục chi nhi tất vi chi từ. Khâu dã, văn hữu quốc hữu gia giả, bất hoạn quả[2], nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần[3], nhi hoạn bất an. Cái quân vô bần, hòa vô quả, an vô khuynh. Phù như thị, cố viễn nhân bất phục, tắc tu văn đức dĩ lai chi. Lí lai chi, tắc an chi. Kim Do dữ Cầu dã, tướng phu tử, viễn nhân bất phục nhi bất năng lai dã bang phấn băng li tích nhi bất năng thủ dã, nhi mưu động can qua ư bang nội. Ngô khủng Quí Tôn chi ưu, bất tại Chuyên Du, nhi tại tiêu tường chi nội dã”.
Dịch.- Họ Quí sắp đánh Chuyên Du (một nước phụ dung của nước Lỗ, tức một nước nhỏ phụ thuộc vào Lỗ). Nhiễm Hữu và Quí Lộ (tức Tử Lộ) vào yết kiến Khổng tử, thưa: “Họ Quí sắp đánh Chuyên Du”. Khổng tử nói: “Cầu (Nhiễm Hữu), đó là cái lỗi của anh chăng? Nước Chuyên Du, tiên vương (nhà Chu) đã làm chủ tế ở núi Đông Mông, mà lại ở trong khu vực nước nhà, vậy là bề tôi của xả tắc, sao lại đem quân đánh người ta”[4]. Nhiễm Hữu thưa: “Thầy Quí (Tôn) muốn vậy, chứ hai chúng con là gia thần không muốn”. Khổng tử mắng: “Sử thần Chu Nhâm hồi xưa bảo: “Tận lực làm chức vụ mình, nếu không được thì nên từ chức đi”. Nước nguy biến mà không biết bảo vệ, nước nghiêng ngả mà không biết chống đỡ, thì ai dùng mình giúp đỡ làm gì? Vả lại, anh nói bậy rồi, (thử hỏi) con hổ, con trâu rừng (hoặc con tê ngưu) xổ củi, mai rùa và ngọc quí bể nát trong rương thì thuộc về ai”. Nhiễm Hữu thưa: “Nước Chuyên Du đó thành quách kiên cố mà lại gần ấp Phí (của họ Quí). Nay họ Quí không chiếm lấy thì sẽ thành mối lo cho con cháu đời sau”. Khổng tử nói: “Này Cầu, người quân tử rất ghét kẻ viện lẽ này lẽ khác để biện hộ cho lòng tham của mình. Khâu này, nghe nói người có nước có nhà (tức ấp phong của đại phu) không lo nghèo thiếu mà lo sự phân phối không quân bình, không lo ít dân mà lo xả tắc không yên[5]. Phân phối quân bình thì dân không nghèo; hoà thuận thì dân sẽ không ít, xả tắc yên ổn thì chính quyền không nghiêng đổ. Như vậy mà người ở xa không phục thì sửa văn đức để người ta đến với mình, họ đến với mình rồi làm sao cho họ được yên ổn. Nay anh Do (Tử Lộ) và anh Cầu giúp phu tử họ Quí, người ở xa không phục mà không biết làm cho người ta đến với mình, nước chia rẽ lìa tan mà không biết bảo vệ, lại tính gây chiến ở trong nước, ta e rằng mối lo con cháu họ Quí không phải ở nước Chuyên Du đâu mà ở ngay sau bức bình phong (tức ngay trong nhà) đấy”.
Chú thích. – Bài này chúng tôi dịch trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (Cảo Thơm, 1972), nay dịch lại. Coi lời phê bình vắn tắt của chúng tôi trong Nhà giáo họ Khổng, tr.63.
[16.2]
孔子曰:「天下有道,則禮樂征伐,自天子出;天下無道,則禮樂征伐,自諸侯出;自諸侯出,蓋十世希不失矣;自大夫出,五世希不失矣;陪臣執國命,三世希不失矣。天下有道,則政不在大夫;天下有道,則庶人不議。」
XVI.2
Khổng Tử viết: “Thiên hạ hữu đạo, tắc lễ nhạc, chinh phạt tự thiên tử xuất; thiên hạ vô đạo, tắc lễ nhạc, chinh phạt tự chư hầu xuất. Tự chư hầu xuất, cái thập thế hi bất thất hĩ. Tự đại phu xuất, ngũ thế hi bất thất hĩ; bồi thần chấp quốc mệnh, tam thế hi bất thất hĩ. Thiên hạ hữu đạo, tắc chính bất tại đại phu! Thiên hạ hữu đạo, tắc thứ nhân bất nghị”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Thiên hạ có đạo (chính trị tốt) thì thiên tử định lễ nhạc, ra lệnh chinh phạt; thiên hạ vô đạo (chính trị xấu) thì vua chư hầu định lễ nhạc, ra lệnh chinh phạt. Chư hầu quyết định, ra lệnh thì được khoảng mười đời, ít khi không mất nước. Đại phu quyết định, ra lệnh thì được khoảng năm đời, ít khi không mất nước; gia thần nắm quốc chính thì được khoảng ba đời, ít khi không mất nước. Thiên hạ có đạo thì chính quyền không ở trong tay đại phu. Thiên hạ có đạo thì dân thường không bàn riêng việc nước.
[16.3]
孔子曰:「祿之去公室,五世矣;政逮於大夫,四世矣;故夫三桓之子孫微矣。」
XVI.3
Tử viết: “Lộc chi khứ công thất ngũ thế hĩ, chính đãi ư đại phu tứ thế hĩ, cố phu Tam Hoàn chi tử tôn vi hĩ”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Quyền ban tước lộc không thuộc về công thất (nhà vua nước Lỗ) đã năm đời rồi, quốc chính ở trong tay đại phu đã bốn đời rồi, nên con cháu Tam Hoàn đã suy vi rồi”.
Chú thích. – Tam Hoàn trỏ Quí thị, Mạnh thị, Thúc thị: ba họ đều là hậu duệ của Lỗ Hoàn Công, cho nên gọi là Tam Hoàn.
[16.4]
孔子曰:「益者三友,損者三友;友直,友諒,友多聞;益矣。友便辟,友善柔,友便佞損矣。」
XVI.4
Khổng tử viết: “Ích giả tam hữu, tổn giả tam hữu. Hữu trực, hữu lượng, hữu đa văn, ích hĩ. Hữu biền[6] tịch, hữu thiện nhu, hữu biền nịnh, tổn hĩ”. 
Dịch.- Khổng tử nói: “Có ba hạng bạn có ích, ba hạng bạn có hại. Bạn chính trực, bạn thành tín, bạn biết nhiều là có ích. Bạn đón ý mình, bạn khéo nịnh mình, bạn không có thực học là bạn có hại”.
[16.5]
孔子曰:「益者三樂,損者三樂;樂節禮樂,樂道人之善,樂多賢友,益矣。樂驕樂,樂佚遊,樂宴樂,損矣。」
XVI.5
Khổng tử viết: “Ích giả tam nhạo, tổn giả tam nhạo. Nhạo tiết, lễ, nhạc, nhạo đạo nhân chi thiện, nhạo đa hiền hữu, ích hĩ. Nhạo kiêu lạc, nhạo dật du, nhạo yến lạc, tổn hĩ”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Có ba sự ưa thích có ích, có ba sự ưa thích có hại. Thích dùng lễ nhạc để điều tiết đời sống, thích khen chỗ hay của người, thích có nhiều bạn hiền, ba cái đó có ích. Thích kiêu sa, dâm lạc, thích đãng phóng tứ[7], thích yến tiệc vui chơi, ba cái đó có hại”.
[16.6]
孔子曰:「侍於君子有三愆:言未及之而言,謂之『躁』;言及之而不言,謂之『隱』;未見顏色而言,謂之『瞽』。」
XVI.6
Khổng tử viết: “Thị ư quân tử hữu tam khiên; ngôn vị cập chi nhi ngôn, vị chi táo; ngôn cập chi nhi bất ngôn, vị chi ẩn; vị kiến nhan sắc nhi ngôn, vị chi cổ”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Hầu chuyện người quân tử dễ mắc ba lỗi này: chưa đến lúc mình nói đã nói, gọi là nóng nảy; đến lúc mình nói mà không nói, gọi là giấu giếm; chưa nhìn thấy sắc mặt mà nói, gọi là mù quáng”.
[16.7]
孔子曰:「君子有三戒;少之時,血氣未定,戒之在色;及其壯也,血氣方剛,戒之在鬥;及其老也,血氣既衰,戒之在得。」
XVI.7
Tử viết: “Quân tử hữu tam giới: thiểu chi thời, huyết khí vị định, giới chi tại sắc; cập kì tráng dã, huyết khí phương cương, giới chi tại đấu; cập kì lão dã, huyết khí kí suy, giới chi tại đắc”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người quân tử có ba điều răn: Khi còn trẻ khí huyết chưa định (thân thể chưa phát triển đủ), nên răn về sắc dục; tuổi tráng niên, khí huyết cương cường, nên răn về tranh đấu; về già, khí huyết đã suy, nên răn về tính tham”.
[16.8]
孔子曰:「君子有三畏:畏天命,畏大人,畏聖人之言。小人不知天命而不畏也,狎大人,侮聖人之言。」
XVI.8
Tử viết: “Quân tử hữu tam úy: úy thiên mệnh, úy đại nhân, úy thánh nhân chi ngôn. Tiểu nhân bất tri thiên mệnh nhi bất úy dã, hiệp đại nhân, vũ thánh nhân chi ngôn”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời nên không sợ, khinh nhờn đại nhân, giễu cợt lời nói của thánh nhân”.
[16.9]
孔子曰:「生而知之者,上也;學而知之者,次也;困而學之,又其次也。困而不學,民斯為下矣!」
XVI.9
Tử viết: “Sinh nhi tri chi giả, thượng dã; học nhi tri chi giả, thứ dã; khốn nhi học chi, hựu kì thứ dã. Khốn nhi bất học, dân tư vi hạ hĩ”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Sinh ra mà đã biết là bậc trên; học rồi mới biết, là bậc thứ; gặp cảnh khốn nạn rồi mới chịu học, lại còn thấp hơn nữa. Thấp nhất là gặp cảnh khốn nạn rồi mà vẫn không chịu học”.
Chú thích. - Chữ khốn [], có người dịch là dốt; chúng tôi nghĩ nên hiểu là gặp cảnh khốn nạn, chẳng hạn khi thất bại rồi, mà vẫn không chịu học để tránh thất bại sau thì mới là ngu nhất.
[16.10]
孔子曰:「君子有九思:視思明,聽思聰,色思溫,貌思恭,言思忠,事思敬,疑思問,忿思難,見得思義。」
XVI.10
Tử viết: “Quân tử hữu cửu tư: thị tư minh, thính tư thông, sắc tư ôn, mạo tư cung, ngôn tư trung, sự tư kính, nghi tư vấn, phẫn tư nan, kiến đắc tư nghĩa”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Người quân tử có chín điều xét nét: Khi trông thì chú ý để thấy cho minh bạch, khi nghe thì lắng tai nghe để nghe cho rõ, sắc mặt thì giữ cho ôn hoà, diện mạo thì giữ cho đoan trang, lời nói thì giữ cho trung thực, làm thì giữ cho kính cẩn, có điều nghi hoặc thì hỏi han, khi giận thì nghĩ tới hậu quả tai hại sẽ xảy ra, thấy mối lợi thì nghĩ đến điều nghĩa”.
[16.11]
孔子曰:「『見善如不及,見不善而探湯;』吾見其人矣,吾聞其語矣!『隱居以求其志,行義以達其道;』吾聞其語矣,未見其人也!」
XVI.11
Tử viết: “Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện nhi thám thang; ngô kiến kì nhân hĩ, ngô văn kì ngữ hĩ. Ẩn cư dĩ cầu kì chí, hành nghĩa dĩ đạt kì đạo; ngô văn kì ngữ hĩ, vị kiến kì nhân dã”.
Dịch.- Khổng tử nói: “Thấy việc thiện thì vội vàng như đuổi theo không kịp, thấy việc bất thiện thì như nhúng tay vào nước sôi (sợ mà lánh); ta đã thấy người như vậy, đã nghe thấy lời nói như vậy. Ở ẩn để mong giữ được chí của mình, làm việc nghĩa để đạt được đạo của mình; ta đã nghe thấy lời nói như vậy, mà chưa thấy ai như vậy”.
[16.12]
「齊景公有馬千駟,死之日,民無德而稱焉;伯夷、叔齊餓於首陽之下,民到于今稱之。其斯之謂與?」
XVI.12
Cảnh công hữu mã thiên tứ, tử chi nhật, dân vô đức nhi xưng yên. Bá Di, Thúc Tề ngạ vu Thú Dương chi hạ, dân đáo vu kim xưng chi. [Kì tư chi vị dư?] .
Dịch.- Tề Cảnh Công có bốn ngàn con ngựa, khi chết không có đức gì cho người dân khen. Bá Di, Thúc Tề chết đói ở núi Thú Dương, dân dến nay còn khen. [Là muốn nói như vậy ư?]
Chú thích. – Câu cuối đặt trong dấu [..] đứng chơ vơ, ngờ rằng: hoặc ở bài khác, đặt lầm vô đây, hoặc thiếu một vài câu gì ở trên đó.
[16.13]
陳亢問於伯魚曰:「子亦有異聞乎?」對曰:「未也。嘗獨立,鯉趨而過庭。曰:『學詩乎?』對曰:『未也。』『不學詩,無以言!』鯉退而學詩。他日,又獨立,鯉趨而過庭。曰:『學禮乎?』對曰:『未也。』『不學禮,無以立!』鯉退而學禮。聞斯二者。」陳亢退而喜曰:「問一得三:聞詩,聞禮。又聞君子遠其子也。」
XVI.13
Trần Cang vấn ư Bá Ngư viết: “Tử diệc hữu dị văn hồ?”. Đối viết: “Vị dã. Thường độc lập. Lí xu nhi quá đình. Viết: “Học Thi hồ?”. Đối viết: “Vị dã”. – “Bất học Thi vô dĩ ngôn”. Lí thoái nhi học Thi. Tha nhật, hựu độc lập, Lí xu nhi quá đình. Viết: “Học lễ hồ?”. Đối viết: “Vị dã”. - “Bất học lễ, vô dĩ lập”. Lí thoái nhi học Lễ. Văn tư nhị giả”. Trần Cang thoái nhi hỉ viết: “Vấn nhất đắc tam: văn Thi, văn Lễ, hựu văn quân tử viễn kì tử dã”.
Dịch.- Trần Cang hỏi Bá Ngư: “Anh có nghe thầy dạy điều gì lạ không?”. Bá Ngư đáp: “Chưa. Có lần cha tôi đứng một mình, Lí tôi đi nhanh qua sân. Cha tôi hỏi: “Học kinh Thi chưa?”. Tôi đáp chưa. Cha tôi bảo: “Không học kinh Thi thì không biết nói năng ra sao”. Lí tôi lui về học kinh Thi. Hôm khác, cha tôi đứng một mình, Lí tôi đi nhanh qua sân. Cha tôi hỏi: “Học kinh Lễ chưa?”. Tôi thưa chưa, cha tôi bảo: “Không học kinh Lễ thì không biết cách đi đứng ở đời (có người dịch là: không biết dịch thân)”. Lí tôi lui về học kinh Lễ. Tôi chỉ nghe được hai điều đó[8]. Trần Cang lui ra, mừng rằng: “Hỏi một điều mà biết được ba: phải học kinh Thi, phải học kinh Lễ, lại biết rằng người quân tử không hay gần con (có người dịch là: đối với con cũng như đối với học trò, không khác gì nhau)”.
Chú thích. – Trần Cang, tự là Tử Cầm, (coi bài I.10).
[16.14]
邦君子之妻,君稱之曰「夫人」;夫人自稱「小童」;邦人稱之曰「君夫人」,稱諸異邦曰「寡小君」;異邦人稱之,亦曰「君夫人」。
XVI.14
Bang quân tử chi thê, quân xưng chi viết phu nhân, phu nhân tự xưng viết tiểu đồng; bang nhân xưng chi viết quân phu nhân, xưng chư dị bang viết quả tiểu quân; dị bang nhân xưng chi diệc viết quân phu nhân.
Dịch.- Vợ vua chư hầu, vua chư hầu gọi là phu nhân; phu nhân tự xưng là tiểu đồng; người trong nước gọi bà là phu nhân của vua; nói với người nước khác thì gọi là “quả tiểu nhân” (quả là tiếng khiêm tốn, tiểu quân là vua nhỏ, tức vợ vua); người nước khác cũng gọi là phu nhân của vua. 
Chú thích. – Bài này như bài 12 ở trên, có phần chắc là lời Khổng tử, không hiểu vì sao mất mấy chữ “viết”, ở đầu bài.
THIÊN XVII - DƯƠNG HOÁ- 陽貨第十七
[17.1]
陽貨欲見孔子,孔子不見,歸孔子豚。孔子時其亡也,而往拜之。遇諸塗。謂孔子曰:「來!予與爾言。」曰:「懷其寶而迷其邦,可謂仁乎?」曰:「不可。」「好從事而亟失時,可謂知乎?」曰:「不可。」「日月逝矣!歲不我與!」孔子曰:「諾,吾將仕矣!」
XVII.1
Dương Hóa dục kiến Khổng tử, Khổng tử bất kiến; qui Khổng tử đồn. Khổng tử thời kì vô dã nhi vãng bái chi. Ngộ chư đồ. Vị Khổng tử viết: “Lai, dự dữ nhĩ ngôn”. Viết: “Hoài kì bảo nhi mê kì bang, khả vị nhân hồ?”. Viết: “Bất khả. Hiếu tòng sự nhi cức thất thì, khả vị trí hồ?”. Viết: “Bất khả. Nhật nguyệt thệ hĩ, tuế bất ngã dự”. Khổng tử viết: “Nặc. Ngô tướng sĩ hĩ”.
Dịch. – Dương Hoá muốn gặp Khổng tử[1], nhưng Khổng tử không đến thăm y, nên y biếu Khổng tử một con heo sữa (luộc chín). Khổng tử rình lúc Dương Hoá đi vắng, lại nhà y tạ ơn. Không ngờ trên đường về gặp y. Y gọi Khổng tử: “Lại đây, tôi muốn nói chuyện với ông”. Rồi nói: “Giấu tài đức quí báu mà không cứu nước đang mê loạn, có thể gọi là người nhân được không?” (Khổng tử làm thinh). Dương Hoá nói tiếp: “Không gọi là nhân được[2]. Muốn ra làm quan mà nhiều lần bỏ lỡ cơ hội, có thể gọi là trí được không?” (Khổng tử lại làm thinh). Dương Hoá lại nói tiếp: “Không gọi là trí được. Ngày tháng trôi qua, tuổi chẳng đợi ta”. Khổng tử nói: “Vâng. Tôi sẽ ra làm quan”.
[17.2]
子曰:「性相近也,習相遠也。」
XVII.2
Tử viết: “Tính tương cận dã, tập tương viễn dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Bản tính con người gần giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau”.
[17.3]
子曰:「唯上知與下愚,不移。」
XVII.3
Tử viết: “Duy thượng tri dữ hạ ngu bất di”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là không thay đổi”.
Chú thích. – Bài này tiếp bài trên. Bậc thượng trí tức bậc “sinh nhi tri chi”, còn kẻ hạ ngu tức hạng “khốn nhi bất học” trong bài XVI.9.
[17.4]
子之武城,聞弦歌之聲,夫子莞爾而笑曰:「割雞焉用牛刀?」子游對曰:「昔者,偃也聞諸夫子曰:『君子學道則愛人;小人學道則易使也。』」子曰:「二三子!偃之言是也;前言戲之耳!」
XVII.4
Tử chi Võ thành, văn huyền ca chi thanh. Phu tử hoàn nhĩ nhi tiếu viết: “Cát kê yên dụng ngưu đao?”. Tử Du đối viết: “Tích giả, Yển dã văn chư phu tử viết: “Quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc dị sử dã”. Tử viết: “Nhị tam tử, Yển chi ngôn thị dã. Tiền ngôn hí chi nhĩ”.
Dịch. – Khổng tử tới Võ Thành (nơi Tử Du làm quan tể), nghe tiếng hát đàn. Ông mỉm cười bảo: “Mổ gà cần chi đến dao mổ bò?”. Tử Du thưa: “Ngày trước, Yển con nghe thầy dạy: “Người quân tử học đạo (lễ nhạc) thì yêu người, kẻ tiểu nhân học đạo thì dễ sai khiến”. Khổng tử nói: “Này các trò, lời anh Yển đúng, lời ta mới nói chỉ là đùa thôi”.
Chú thích. – Tử Du theo lời thầy dạy, dùng lễ nhạc để giáo hoá và trị dân. Khổng tử tiếc rằng Võ Thành nhỏ quá, Tử Du có thể trị một cõi lớn hơn nhiều.
[17.5]
公山弗擾以費畔,召,子欲往。子路不說,曰:「末之也已,何必公山民之之也?」子曰:「未召我者,而豈走哉?如有用我者,吾其為東周乎!」
XVII.5
Công Sơn Phất Nhiễu dĩ Phí bạn, triệu, tử dục vãng. Tử Lộ bất duyệt, viết: “Mạt chi dã dĩ, hà tất Công Sơn dân chi chi dã?”. Tử viết: “Phù triệu ngã giả, nhi khởi đồ tai? Như hữu dụng ngã giả, ngô kì vi Đông Chu hồ?”.
Dịch. – Công Sơn Phất Nhiễu (gia thần họ Quí, làm tể tướng đất Phí) chiếm cứ đất Phí làm phản (họ Quí), cho người mời Khổng tử, ông muốn tới. Tử Lộ không vui lòng, bảo: “Không có nơi nào hành đạo thì thôi, hà tất phải đến với họ Công Sơn?”. Khổng tử nói: “Người ta vời ta, hẳn có ý dùng ta. Nếu dùng ta thì ta sẽ phục hưng đạo nhà Chu ở phương Đông”.
Chú thích. – Họ Quí lấn vua Lỗ. Công Sơn Phất Nhiễu phản họ Quí. Khổng tử mong có thể thuyết Phất Nhiễu lập lại uy quyền của vua Lỗ, khiến cho theo đạo nhà Chu. Nhưng sau ông nghe lời Tử Lộ, không đi. Việc này chép trong Sử kí của Tư Mã Thiên, nhưng không chép trong Tả Truyện cho nên Lương Khải Siêu cho là không đáng tin. Theo Sử kí thì hồi này Khổng tử 50 tuổi.
[17.6]
子張問「仁」於孔子。孔子曰:「能行五者於天下,為仁矣。」「請問之?」曰:「恭、寬、信、敏、惠:恭則不侮,寬則得眾,信則人任焉,敏則有功,惠則足以使人。」
XVII.6
Tử Trương vấn nhân ư Khổng tử. Khổng tử viết: “Năng hành ngũ giả ư thiên hạ, vi nhân hĩ” – “Thỉnh vấn chi”. Viết: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc chúng, tín tắc nhân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân[3]”.
Dịch. – Tử Trương hỏi Khổng tử về đạo người. Khổng tử đáp: “Làm được năm đức trong thiên hạ thì gọi là nhân”. Tử Trưởng nói: “Xin thầy cho con biết năm đức ấy”. Khổng tử đáp: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung kính thì không bị khinh nhờn, khoan hậu thì được lòng mọi người, thành tín thì được người tín nhiệm, cần mẫn thì thành công, từ huệ thì sử dụng được người”.
[17.7]
佛肸召,子欲往。子路曰:「昔者由也聞諸夫子曰:『親於其身為不善者,君子不入也』。佛肸以中牟畔,子之往也如之何?」子曰:「然,有是言也。不曰『堅』乎?磨而不磷;不曰『白』乎?涅而不緇。吾豈匏瓜也哉?焉能繫而不食!」
XVII.7
Bật Hật triệu, tử dục vãng. Tử lộ viết: “Tích giả Do dã văn chư phu tử viết: “Thân ư kì thân vi bất thiện giả, quân tử bất nhập dã. Bật Hật dĩ Trung Mâu bạn, tử chi vãng dã, như chi hà?”. Tử viết: “Nhiên, hữu thị ngôn dã. Bất viết kiên hồ, ma nhi bất lân? Bất viết bạch hồ niết nhi bất truy? Ngô khởi bào qua dã tai? Yên năng hệ nhi bất thực?”.
Dịch. – Bật Hật mời, Khổng tử muốn qua. “Trước kia Do con nghe thầy dạy: “Người quân tử không vào đảng với kẻ nào gây điều bất thiện”. Bật Hật chiếm đất Trung Mâu làm phản mà thầy muốn qua với y thì sao phải lẽ?”. Khổng tử nói: “Đúng, ta có nói vậy. Nhưng ta chẳng từng nói rằng cái gì cứng rắn thì mài cũng không mòn sao? Ta chẳng từng nói rằng[4] cái gì thực trắng thì nhuộm cũng không đen sao? Ta đâu phải trái bầu khô người ta treo mà không ăn được ư?”.
Chú thích. – Bật Hật (có người đọc là Phật Hật), là gia thần của Phạm Trọng Hành, một đại phu nước Tấn, và làm chức tể ở Trung Mâu. Người cầm quyền nước Tấn là Triệu Giản tử đánh Phạm Trọng Hành; Bật Hật chiếm Trung Mâu làm phản. Tử Lộ sợ Khổng tử qua giúp Bật Hật thì sẽ ô danh, nên Khổng tử trả lời như vậy. Nhưng rồi ông cũng không đi. Bài này cũng như bài 5 ở trên, Lương Khải Siêu cho là không đáng tin.
[17.8]
子曰:「由也,女聞六言六蔽矣乎?」對曰:「未也。」「居!吾語女:好『仁』不好學,其蔽也『愚』;好『知』不好學,其蔽也『蕩』;好『信』不好學,其蔽也『賊』;好『直』不好學,其蔽也『絞』;好『勇』不好學,其蔽也『亂』;好『剛』不好學,其蔽也『狂』。」
XVII.8
Tử viết: “Do dã, nhữ văn lục ngôn lục tế hĩ hồ?”. Đối viết: “Vị dã” – “Cư, ngô ngữ nhữ. Hiếu nhân bất hiếu học, kì tế dã ngu. Hiếu trí bất hiếu học, kì tế dã đãng. Hiếu tín bất hiếu học, kì tế dã tặc. Hiếu trực bất hiếu học, kì tế dã giảo. Hiếu dũng bất hiếu học, kì tế dã loạn. Hiếu cương bất hiếu học, kì tế dã cuồng”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Này Do (Tử Lộ), anh có nghe nói đến sáu đức và sáu đều che lấp không?” Tử Lộ đáp: “Thưa chưa” – “Ngồi đó, ta nói cho nghe. Ham đức nhân mà không ham học thì bị sự che lấp là ngu muội; ham đức trí mà không ham học thì bị sự che lấp là sự phóng đãng; ham đức tín mà không ham học thì bị sự che lấp là bị tổn hại; ham ngay thẳng mà không ham học thì bị sự che lấp là gắt gao, mất lòng người[5]; ham cương cường mà không ham học thì bị sự che lấp là sự cuống bạo”.
[17.9]
子曰:「小子!何莫學夫詩?詩:可以興,可以觀,可以群,可以怨;邇之事父,遠之事君;多識於鳥、獸、草、木之名。」
XVII.9
Tử viết: “Tiểu tử, hà mạc học, phù Thi? Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ư điểu thú thảo mộc chi danh”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Các trò[6] sao không học Kinh Thi? Kinh Thi có thể khiến người ta phấn chấn, có thể khiến người ta quan sát phong tục, có thể khiến người ta hợp quần, có thể khiến người ta phúng thích chính trị đương thời. Gần thì biết đạo thờ cha, xa thì biết đạo thờ vua, lại biết được nhiều tên chim muông cỏ cây”.
[17.10]
子謂伯魚曰:「女為周南召南矣乎?人而不為周南,召南,其猶正牆面而立也與?」
XVII.10
Tử vị Bá Ngư viết: “Nhữ vi Chu Nam, Chiêu[7] Nam hĩ hồ? Nhân nhi bất vi Chu Nam, Chiêu Nam, kì do chính tường diện nhi lập dã dư”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Khổng tử bảo Bá Ngư: “Con đã học Chu Nam, Chiêu Nam chưa? Người nào không học Chu Nam, Chiêu Nam thì không khác đứng quay mặt sát vào tường”
Chú thích. – Chu Nam, Chiêu Nam là hai thiên đầu trong Kinh Thi chỉ cách tu thân, tề gia.
[17.11]
子曰:「禮云禮云!玉帛云乎哉!樂云樂云!鍾鼓云乎哉!」
XVII.11
Tử viết: “Lễ vân, lễ vân, ngọc bạch vân hồ tai? Nhạc vân, nhạc vân, chung cổ vân hồ tai?”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Nói về lễ, về lễ, đâu chỉ có ngọc và lụa? Nói về nhạc, về nhạc, đâu phải chỉ có chuông và trống”.
Chú thích. – Khổng tử chê nhà cầm quyền đương thời chỉ chú trọng tới hình thức của lễ, nhạc.
[17.12]
子曰:「色厲而內荏,譬諸小人,其猶穿窬之盜也與!」
XVII.12
Tử viết: “Sắc lệ nhi nội nhẫm, thí chư tiểu nhân, kì do xuyên du chi đạo dã dữ?”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Sắc mặt uy nghiêm mà trong lòng nhu nhược (kẻ giả dối) thì ví như kẻ tiểu nhân mà lại còn (tệ hơn nữa) như kẻ khoét vách trèo tường nữa”.
[17.13]
子曰:「鄉原,德之賊也!」
XVII.13
Tử viết: “Hương nguyện, đức chi tặc dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Kẻ hương nguyện (giả đạo đức, làm bộ cao thượng, chiều đời để được mọi người trong làng khen) là kẻ làm hại đạo đức”.
[17.14]
子曰:「道聽而塗說,德之棄也!」
XVII.14
Tử viết: “Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Nghe người ta đồn ở ngoài đường rồi đi đâu cũng loan truyền là bỏ mất đức hạnh của mình”.
Chú thích. – Tức như hạng người ta gọi là ngồi lê đôi mép.
[17.15]
子曰:「鄙夫!可與事君也與哉!其未得之也,患得之;既得之,患失之;苟患失之,無所不至矣!」
XVII.15
Tử viết: “Bỉ phu khả dữ sự quân dã dữ tai? Kì vị đắc chi dã, hoạn đắc chi. Kí đắc chi, hoạn thất chi. Cẩu hoạn thất chi, vô sở bất chí hĩ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Kẻ bỉ lậu có thể thờ vua được không? Khi chưa được chức vị bổng lộc thì lo cho được. Được rồi lại lo mất. Đã lo mất thì không có việc gì xấu mà không làm”.
[17.16]
子曰:「古者民有三疾,今也或是之亡也。古之狂也肆,今之狂也蕩;古之矜也廉,今之矜也忿戾;古之愚也直,今之愚也詐而已矣。」
XVII.16
Tử viết: “Cổ giả dân hữu tam tật, kim dã hoặc thị chi vô dã. Cổ chi cuồng dã tứ, kim chi cuồng dã đãng. Cổ chi căng dã liêm, kim chi căng dã phẫn lệ. Cổ chi ngu dã trực, kim chi ngu dã trá nhi dĩ hĩ”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Đời xưa, người ta thường có ba tật, nay hoặc giả không có nữa. Đời xưa người cuồng thì không câu nệ tiểu tiết, nay cuồng thì phóng đãng. Đời xưa người giữ mình rất nghiêm thì liêm chính, nay người giữ mình rất nghiêm thì dễ giận. Đời xưa người ngu thì ngay thẳng, nay ngu thì chỉ dối trá thôi”.
[17.17]
子曰:「攷言令色,詳矣仁。」
XVII.17
Bài này trùng với bài I.3[8]
[17.18]
子曰:「惡紫之奪朱也。惡鄭聲之亂雅樂也。惡利口之覆邦家者。」
XVII.18
Tử viết: “Ố tử chi đoạt chu dã, ố Trịnh thanh chi loạn nhã nhạc dã, ố lợi khẩu chi phúc bang gia giả”.
Dịch. – Khổng tử nói: “Ghét màu tía cướp mất sắc đỏ, ghét nhạc nước Trịnh làm loạn chính nhạc, ghét kẻ bẻm mép làm nghiêng đổ nước nhà”.
[17.19]
子曰:「予欲無言!」子貢曰:「子如不言,則小子何述焉?」子曰:「天何言哉!四時行焉,百物生焉;天何言哉?」
XVII.19
Tử viết: “Dư dục vô ngôn”. Tử Cống viết: “Tử như bất ngôn, tắc tiểu tử hà thuật yên?”. Tử viết: “Thiên hà ngôn tai? Tứ thời hành yên, vạn vật[9] sinh yên, thiên hà ngôn tai?”. 
Dịch. – Khổng tử nói: “Ta không muốn nói gì cả”. Tử Cống hỏi: “Thầy không nói thì bọn chúng con có gì để truyền thuật lại cho đời sau?”. (Có sách dịch là: chúng con sao được truyền thuật? Hoặc: chúng con noi theo vào đâu?) Khổng Tử nói: “Trời có nói gì đâu? Bốn mùa qua lại, vạn vật sinh trưởng, Trời có nói gì đâu?”.
[17.20]
孺悲欲見孔子,孔子辭以疾,將命者出戶,取瑟而歌,使之聞之。
XVII.20
Nhụ Bi dục kiến Khổng tử. Khổng tử từ dĩ tật. Tương mệnh giả xuất hộ, thủ sắc[10] nhi ca, sử chi văn chi.
Dịch. – Nhụ Bỉ (người nước Lỗ, trước có học Khổng Tử) muốn yết kiến Khổng Tử. Ông từ chối, lấy cớ là đau. Người ông sai ra đáp, mới ra tới cửa, ông cầm ngay cây đàn sắt gảy và hát, (cố ý) cho Nhụ Bỉ nghe thấy.
Chú thích. – Không hiểu vì lẽ gì ông không muốn tiếp Nhụ Bỉ.
[17.21]
宰我問:「三年之喪期已久矣!君子三年為禮,禮必壞;三年不為樂,樂必崩。舊穀既沒,新穀既升;鑽燧改火,期可已矣。」子曰:「食夫稻,衣夫錦,於女安乎?」曰:「安!」「女安,則為之!夫君子之居喪,食旨不甘,聞樂不樂,居處不安,故不為也。今女安,則為之!」宰我出。子曰:「予之不仁也!子生三年,然後免於父母之懷。夫三年之喪,天下之通喪也;予也,有三年之愛於其父母乎?」
XVII.21
Tể Ngã vấn tam niên chi tang: “Kì dĩ cửu hĩ! Quân tử tam niên bất vi lễ, lễ tất hoại, tam niên bất vi nhạc, nhạc tất băng. Cựu cốc kí một, tân cốc kí thăng, toản toại cải hỏa, kì khả dĩ hĩ”. Tử viết: “Thực phù đạo, y phù cẩm ư nhĩ an hồ?”. Viết: “An!” – “Nhữ an tắc vi chi! Phù quân tử chi cư tang, thực chỉ bất cam, văn nhạc bất lạc, cư xử bất an, cố bất vi dã. Kim nhữ an, tắc vi chi”. Tể Ngã xuất. Tử viết: “Dư chi bất nhân dã. Tử sinh tam niên, nhiên hậu miễn ư phụ mẫu chi hoài. Phù tam niên chi tang, thiên hạ chi thông tang dã. Dư dã hữu tam niên chi ái ư kì phụ mẫu hồ?”.
Dịch. – Tể Ngã hỏi về phép để tang cha mẹ ba năm, bảo: “Một năm cũng đã lâu rồi. Người quân tử (để tang) ba năm không học tập lễ, lễ nghi tất phải đổ nát, ba năm không tấu nhạc, âm nhạc tất thất truyền. (Đủ một năm) lúa cũ đã ăn hết, lúa mới đã chín, cây dùi cây đe lấy lửa đã dùi hết một hết một vòng (Mỗi mùa dùi một loại cây để lấy lửa, hết bốn mùa là hết một vòng), để tang một năm là được rồi”. Khổng Tử nói: (Chưa hết ba năm) mà ăn cơm gạo thơm, mặc áo gấm thì trò có yên lòng không?”. Tể Ngã đáp: “Yên”. Khổng Tử nói: “Yên lòng thì cứ làm! Người quân tử cư tang, ăn đồ ngon không biết mùi, nghe nhạc không thấy vui, ở nhà của mình không thấy yên ổn (thời đó cất một nhà xấu ở gần mộ để cư tang), cho nên không làm như vậy (không ăn gạo ngon, mặc áo tốt…). Nếu trò thấy yên lòng, thì cứ làm!”. Tể Ngã ra rồi, Khổng Tử nói: “Dư là đứa bất nhân? Đứa trẻ sinh ra, sau ba năm cha mẹ mới thôi bồng bế, (cho nên) để tang ba năm là lệ phổ biến trong thiên hạ. Dư nó được cha mẹ bồng bế ba năm hay không?” (Có sách dịch là: Dư nó có yêu thương cha mẹ được ba năm hay không?).
[17.22]
子曰:「飽食終日,無所用心,難矣哉!不有博弈者乎?為之猶賢乎已!」
XVII.22
Tử viết: “Bão thực chung nhật vô sở dụng tâm, nan hĩ tai! Bất hữu bác dịch giả hồ? Vi chi, do hiền hồ dĩ”.
Dịch. – Khổng Tử nói: “Ăn nó suốt ngày mà chẳng dụng tâm vào việc gì thì khó nên người lắm. Sao không đánh cờ đi? Đánh cờ còn hơn ở không”.
Chú thích. – Bác dịch [博弈] có người dịch là đánh bạc, đánh cờ. Thực ra bác [] thời đó cũng chỉ là một trò chơi như vây cờ.
[17.23]
子路曰:「君子尚勇乎?」子曰:「君子義以為上。君子有勇而無義為亂,小人有勇而無義為盜。」
XVII.23
Tử Lộ viết: “Quân tử thượng dũng hồ?”. Tử viết: “Quân tử nghĩa dĩ vi thượng, quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa vi đạo”.
Dịch. – Tử Lộ hỏi: “Người quân tử có trọng dũng không?”. Khổng Tử đáp: “Người quân tử trọng nghĩa lí hơn hết. Người quân tử chỉ dũng cảm mà không hợp nghĩa lí thì làm loạn; kẻ tiểu nhân chỉ dũng cảm mà không hợp nghĩa lí thì làm trộm cướp”.
[17.24]
子貢曰:「君子亦有惡乎?」子曰:「有惡。惡稱人之惡者,惡居下流而訕上者,惡勇而無禮者,惡果敢而窒者。」曰:「賜也亦有惡乎?」「惡徼以為知者,惡不係以為勇者,惡訐以為直者。」
XVII.24
Tử Cống viết: “Quân tử diệc hữu ố hồ?”. Tử viết: “Hữu ố. Ố xưng nhân chi ác giả, ố cư hạ lưu nhi sán thượng giả, ố dũng nhi vô lễ giả, ố quả cảm nhi trất giả”. Viết: “Tứ dã diệc hữu ố hồ?”. “Ố kiêu dĩ vi trí giả, ố bất tốn dĩ vi dũng giả, ố kiết dĩ vi trực giả”.
Dịch. – Tử Cống hỏi: “Người quân tử có ghét ai không?”. Khổng Tử đáp: “Có. Ghét người nói điều xấu của kẻ khác, ghét kẻ dưới mà huỷ báng người trên, ghét kẻ dũng mà vô lễ, ghét người quả cảm mà cố chấp”. Khổng Tử hỏi lại Tử Công: “Tứ, anh có ghét ai không?”. (Tử Cống thưa): “Con ghét kẻ ăn cắp sáng kiến của người khác mà tự cho là mình tìm ra (hoặc tự cho là khôn), ghét kẻ không khiêm tốn mà tự cho là dũng, ghét kẻ bới móc việc riêng của người mà tự cho là ngay thẳng”.
[17.25]
子曰:「唯女子與小人為難養也!近之則不係,遠之則怨。」
XVII.25
Tử viết: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã. Cận chi tắc bất tôn, viễn chi tắc oán”.
Dịch. – Khổng Tử nói: “Chỉ hạng tì thiếp và tôi tớ là khó cư xử với họ. Thân cận với họ thì họ nhờn, xa cách họ thì họ oán”.
[17.26]
子曰:「年四十而見惡焉,其終也已!」
XVII.26
Tử viết: “Niên tứ thập nhi kiến ố yên, kì chung dã dĩ”.
Dịch. – Khổng Tử nói: “Bốn chục tuổi mà (hành vi xấu xa) ai cũng ghét thì hết hi vọng rồi”.
THIÊN XVIII - VI TỬ-微子第十八
[18.1]
微子去之;箕子為之奴;比干諫而死。孔子曰:「殷有三仁焉!」
XVIII.1
Vi tử khứ chi, Cơ tử vi chi nô, Tỉ Can gián nhi tử. Khổng tử viết: “Ân hữu tam nhân yên”. 
Dịch. – Vi tử bỏ đi. Cơ tử phải làm nô lệ, Tỉ Can chết vì can vua (Trụ). Khổng Tử nói: “Nhà Ân có ba ông ấy là người nhân”.
Chú thích. – Vua Trụ tàn ác và hoang dâm. Vi tử là anh vua Trụ, thấy vậy bỏ nước mà đi để bảo tồn dòng họ. Cơ tử và Tỉ Can đều là chú vua Trụ, đều can Trụ, Trụ bỏ tù Cơ tử và bắt làm nô lệ. Cơ tử giả điên mà sống khổ nhục; còn Tỉ Can thì bị Trụ giết, moi tim. Hành vi của ba người đó khác nhau, nhưng đều nhằm một mục đích là làm cho nước yên, cho dân khỏi khổ, cho nên Khổng tử khen là nhân.
[18.2]
柳下惠為士師,三黜。人曰:「子未可以去乎?」曰:「直道而事人,焉往而不三黜!枉道而事人,何必去父母之邦!」
XVIII.2
Liễu Hạ Huệ vi sĩ sư, tam truất. Nhân viết: “Tử vị khả dĩ khứ hồ?”. Viết: “Trực đạo nhi sự nhân, yên vãng nhi bất truất? Uổng đạo nhi sự nhân, hà tất khứ phụ mẫu chi bang”.
Dịch. – Liễu Hạ Huệ làm pháp quan, ba lần bị biếm. Có người bảo: “Sao ông chưa đi qua nước khác?”. Liễu Hạ Huệ đáp: “Dùng đạo chính trực mà thờ người thì đi nước nào cũng bị biếm? Dùng đạo cong queo mà thờ người thì hà tất phải bỏ tổ quốc?”.
[18.3]
齊景公待孔子,曰:「若李氏則吾不能,以李、孟之閒待之。」曰:「吾老矣。不能用也。」孔子行。
XVIII.3
Tề Cảnh Công đãi Khổng Tử, viết: “Nhược Quí thị tắc ngô bất năng. Dĩ Quí, Mạnh chi gian đãi chi”. Viết: “Ngô lão hĩ, bất năng dụng dã”. Khổng tử hành.
Dịch. – Tề Cảnh Công nói về cách đối đãi với Khổng Tử: “Ta không thể đãi Khổng Tử như vua Lỗ đãi họ Quí (đãi là thượng khanh), có thể đãi ông ấy vào bậc giữa họ Quí và họ Mạnh (họ Mạnh là hạ khanh). (Mới định vậy, bị triều thần phản đối, nên Cảnh Công ít lâu sau lại nói): “Ta già rồi, không thể dùng Khổng Tử được”. Khổng Tử bèn đi.
Chú thích. – Theo Sử kí của Tư Mã Thiên thì lúc đó Khổng tử ngoài ba mươi lăm tuổi, nhân Lỗ có nội loạn, Khổng tử bỏ Lỗ qua Tề, Tề Cảnh Công muốn dùng nhưng bị triều thần phản đối, lại thôi. Và Khổng tử trở về Lỗ.
[18.4]
齊人歸女樂,李桓子受之,三日不朝,孔子行。
XVIII.4
Tề nhân quĩ[1] nữ nhạc, Quí Hoàn tử thụ chi, tam nhật bất triều, Khổng tử hành.
Dịch. – Người nước Tề tặng nữ nhạc (ca nữ, vũ nữ). Quí Hoàn tử (đại phu nước Lỗ) nhận, ba ngày không ra triều. Khổng Tử bỏ đi.
Chú thích. – Theo Sử kí, lúc này Khổng tử 56 tuổi, làm tư khấu, kiêm tể tướng nước Lỗ. Sau ông qua Vệ. Bài 2, Liễu Hạ Huệ cứ ở lại tổ quốc; bài này Khổng tử không hành đạo được thì bỏ đi.
[18.5]
楚狂接輿,歌而過孔子,曰:「鳳兮!何德之衰?往者不可諫,來者猶可追。已而!已而!今之從政者殆而!」孔子下,欲與之言。趨而辟之,不得與之言。
XVIII.5
Sở Cuồng Tiếp Dư ca nhi quá Khổng tử viết: “Phượng hề, phượng hề, hà đức chi suy? Vãng giả bất khả gián, lai giả do khả truy. Dĩ nhi, dĩ nhi! Kim chi tòng chính giả đãi nhi!”. Khổng tử hạ, dục dữ chi ngôn. Xu nhi tị chi, bất đắc dữ chi ngôn”.
Dịch. – Tiếp Dư, người cuồng nước Sở đi ngang chiếc xe của Khổng Tử, hát: “Phương hoàng ơi, phương hoàng ơi[2], đức sao mà suy đồi! Việc đã qua, không thể vãn hồi, việc chưa tới, còn kịp sửa đổi. Thôi đi, thôi đi, làm quan thời này chỉ nguy hiểm thôi!”. Khổng Tử xuống xe, muốn nói chuyện. Nhưng Tiếp Dư rảo bước tránh mặt, Khổng Tử không nói chuyện được.
Chú thích. – Tiếp Dư không phải là tên. Vì người cuồng nước Sở đó đi ngang qua xe của Khổng tử nên Luận ngữ gọi như vậy. Cũng như người giữ cửa gọi là Thần môn (bài XIV.39), những người cày ruộng trong bài sau, gọi là Trường Thư, Kiệt Nịch (Thư là chỗ đất thấp có nước, Nịch là chân nhúng ở dưới nước).
[18.6]
長沮桀溺耦而耕。孔子過之,使子路問津焉。長沮曰:「夫執輿者為誰?」子路曰:「為孔丘。」曰:「是魯孔丘與?」曰:「是也。」曰:「是知津矣!」問於桀溺,桀溺曰:「子為誰?」曰:「為仲由。」曰:「是魯孔丘之徒與?」對曰:「然。」曰:「滔滔者,天下皆是也,而誰以易之?且而與其從辟人之士也,豈若從辟世之士哉?」耰而不輟。子路行以告,夫子憮然曰:「鳥獸不可與同群!吾非斯人之徒與而誰與?天下有道,丘不與易也。」
XVIII.6
Trường Thư, Kiệt Nịch ngẫu nhi canh. Khổng tử quá chi, sử Tử Lộ vấn tân yên. Trường Thư viết: “Phù chấp dư giả vi thuỳ?”. Tử Lộ viết: “Vi Khổng Khâu”. Viết: “Thị Lỗ Khổng Khâu dư?”. Viết: “Thị dã”. Viết: “Trần[3]tri tân hĩ”. Vấn ư Kiệt Nịch. Kiệt Nịch viết: “Tử vi thùy?”. Viết: “Vi Trọng Do”. Viết: “Thị Lỗ Khổng Khâu chi đồ dư?”. Đối viết: “Nhiên”. Viết: “Thao thao giả thiên hạ giai thị dã, nhi thuỳ dĩ dịch chi? Thả nhi dữ kì tòng tị[4] nhân chi sĩ dã, khởi nhược tòng tị thế chi sĩ tai?”. Ưu nhi bất xuyết. Tử Lộ hành, dĩ cáo. Phu tử vũ nhiên viết: Điểu thú bất khả dữ đồng quần, ngô phi tư nhân chi đồ dữ, nhi thuỳ dữ? Thiên hạ hữu đạo, Khâu bất dữ dịch dã”. 
Dịch. – Trường thư và Kịch Niệt cùng cày ruộng. Khổng Tử đi ngang qua, sai Tử Lộ lại họ bến đò ở đâu. Trường Thư hỏi: “Người cầm cương trên xe đó là ai?”. Tử Lộ đáp: “Là thầy Khổng Khâu”. Hỏi: “Phải Khổng Khâu nước Lỗ không?”. Đáp: “Phải”. Trường Thư nói: “Vậy thì ông ấy tự biết bến đò rồi mà”. Tử Lộ lại hỏi Kịch Niệt. Kịch Niệt hỏi lại: “Thầy là ai?”. Tử Lộ đáp: “Là Trọng Do”. Lại hỏi: “Phải học trò ông Khổng Khâu nước Lỗ không?”. Đáp: “Phải”. Kịch Niệt nói: “Khắp thiên hạ đâu đâu cũng là dòng nước (đục) cuồn cuộn, ông Khổng Khâu sẽ cùng với ai mà sửa thiên hạ? Còn thầy, đi theo kẻ sĩ tránh người vô đạo (theo Khổng Tử) sao bằng theo (ta là) kẻ sĩ tránh đời ô trọc?”. Nói rồi tiếp tục bừa phủ lên cho đất bằng. Tử Lộ về xe kể lại với Khổng Tử. Khổng Tử bùi ngùi hỏi: “Người ta không thể sống chung với cầm thú; ta không sống chung với người trong xã hội thì sống chung với ai? Nếu thiên hạ thịnh trị thì Khâu này cần gì phải sửa đổi nữa?”.
[18.7]
子路從而後,遇丈人,以杖荷蓧子路問曰:「子見夫子乎?」丈人曰:「四禮不勤,五穀不分,孰為夫子!」植其杖而芸。子路拱而立。止子路宿,殺雞為黍而食之,見其二子焉。明日,子路行以告。子曰:「隱者也。」使子路反見之。至,則行矣。子路曰:「不士無義。長幼之節,不可廢也;君臣之義,如之何其廢之?欲潔其身,而亂大倫。君子之仕也,行其義也。道之不行,已知之矣!」
XVIII.7
Tử Lộ tòng nhi hậu, ngộ trượng nhân, dĩ trượng hà điệu. Tử Lộ vấn viết: “Tử kiến phu tử hồ”. Trượng nhân viết: “Tứ thể bất cần, ngũ cốc bất phân, thục vi phu tử?”. Thực kì trượng nhi vân, hiện kì nhi tử yên. Tử Lộ củng nhi lập, chỉ Tử Lộ túc, sát kê vi thử nhi thực chi, kiến kì nhị tử yên[5]. Minh nhật, Tử Lộ hành dĩ cáo. Tử viết: “Ẩn giả dã”. Sử Tử Lộ phản kiến chi. Chí tắc hành hĩ. Tử Lộ[6] viết: “Bất sĩ vô nghĩa. Trưởng ấu chi tiết, bất khả phế dã; quân thần chi nghĩa, như chi hà kì phế chi? Dục khiết kì thân, nhi loạn đại luân! Quân tử chi sĩ dã, hành kì nghĩa dã. Đạo chi bất hành, dĩ tri chi hĩ”.
Dịch. – Tử Lộ đi (theo Khổng Tử mà) lạc lại phía sau, gặp ông già quảy gánh cào cỏ ở đầu một cây gậy. Tử Lộ hỏi: “Ông có thấy thầy tôi không?”. Ông già đáp: “Tay chân chẳng làm việc gì cả, không phân biệt được năm giống lúa. Ai là thầy chú?”. Nói xong ông già chống gậy xuống đất cào cỏ. Tử Lộ chấp tay đứng (đợi). (Công việc cào cỏ xong) ông già đưa Tử Lộ về nhà nghỉ đêm, giết gà làm cơm đãi, lại cho hai đứa con ra chào. Hôm sau Tử Lộ đi, gặp được Khổng Tử, kể lại chuyện đó. Khổng Tử nói: “Ông già ấy là một ẩn sĩ”, rồi sai Tử Lộ trở lại kiếm. Tới nơi thì ông già đi khỏi. Tử Lộ nói (với hai người con của ông già): “Không ra làm quan (mà ở ẩn) là không hợp đạo nghĩa. Cái thứ tự giữa người lớn và kẻ nhỏ đã không bỏ được (ám chỉ ông lão đã cho con ra chào Tử Lộ), thì sao lại bỏ nghĩa vua tôi đi? Muốn cho thân mình trong sạch mà (hoá ra) làm loạn cái luân thường lớn nhất. Người quân tử ra làm quan là làm nghĩa vụ của mình. Còn đạo mà không thi hành được, thì đã biết vậy rồi”.
[18.8]
逸民:伯夷、叔齊、虞仲、夷逸、朱張、柳下惠、少連。子曰:「不降其志,不辱其身,伯夷叔齊與?」謂柳下惠、少連:「降志辱身矣;言中倫,行中慮,其斯而已矣!」謂虞仲、夷逸:「隱居放言,身中清,廢中權。」「我則異於是,無可無不可。」
XVIII.8
Dật dân: Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Chu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên. Tử viết: “Bất giáng kì chí, bất nhục kì thân, Bá Di, Thúc Tề dư?”. Vị Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên: “Giáng chí, nhục thân hĩ, ngôn trúng luân, hành trúng lự, kì tư nhi dĩ hĩ”. Vị Ngu Trọng, Di Dật: “Ẩn cư, phóng ngôn, thân trúng thanh, phế trúng quyền. Ngã tắc dị ư thị. Vô khả, vô bất khả”.
Dịch. – Bàn về người ẩn dật: Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Chu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, Khổng Tử nói: “Không khuất chí mình, không để nhục thân mình, là Bá Di, Thúc Tề chăng?”. Bảo Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên: “Chịu khuất chí mình, nhục thân mình, nhưng lời nói hợp nghĩa lí, hành vi đắn đo (có người dịch là hợp ý dân), chỉ được vậy thôi”. Bảo Ngu Trọng, Di Dật: “Ở ẩn, không nói gì cả (chúng tôi theo Triệu Thông, có người dịch là ăn nói phóng túng), giữ thân được trong sạch, không làm quan là hợp quyền nghi”. Rồi Khổng Tử lại nói: “Ta thì khác các ông ấy: Chẳng có gì nhất định phải làm, chẳng có gì nhất định không nên làm”.
Chú thích. – Chúng ta để ý Khổng tử không nhận xét gì về Chu Trương. – Bá Di, Thúc Tề, Liễu Hạ Huệ chúng ta biết rồi. Còn Ngu Trọng, Di Dạt, ít ai nhắc tới, không cần biết.
[18.9]
大師摯適齊;亞飯干適楚;三飯繚適蔡;四飯缺適秦;鼓方叔,入於河;播U+9F17武,入文漢;少師陽,擊磬襄,入於海。
XVIII.9
Thái sư Chí thích Tề, á phạn Can thích Sở, tam phạn Liêu thích Thái, tứ phạn Khuyết thích Tần, cổ Phương Thúc nhập ư Hà, bá đào Võ nhập ư Hán, thiếu sư Dương, kích khánh Tương nhập ư Hải.
Dịch. – Quan thái sư Chí qua Tề, quan á phạn Can qua Sở, quan tam phạn Liêu qua Thái, quan tứ phạn Khuyết qua Tần, người đánh trống tên là Phương Thúc vào ở bờ sông Hoàng Hà, người vỗ trống nhỏ tên Võ[7] vô ở bờ sông Hán, thiếu sư Dương và người đánh khánh tên là Tương vô ở bờ Đông Hải.
Chú thích. – Bài này chép tên và chức (thái sư, thiếu sư, tam phạn, tứ phạn…) của tám nhạc sự ở Lỗ đã tứ tán hết; á phạn[8], tam phạn, tứ phạn là những chức quan coi về nhạc mời vua dùng cơm bữa thứ hai, thư ba, thứ tư.
[18.10]
周公謂魯公曰:「君子不施其親,不使大臣怨乎不以。故舊無大故,則不棄也。無求備於一人。」
XVIII.10
Chu công vị Lỗ công viết: “Quân tử bất thỉ kì thân, bất sử đại thần oán hồ bất dĩ. Cố cựu vô đại cố, tắc bất khí dã. Vô cầu bị ư nhất nhân”.
Dịch. – Chu Công khuyên con là Lỗ Công (tức Bá Cầm, được phong ở đất Lỗ): “Người quân tử không bỏ người thân thích, không để cho đại thần oán vì không trọng dụng. Người cố cựu nếu không có lỗi lớn thì không nên bỏ. Không cầu toàn trách bị một người nào”.
[18.11]
周有八士:伯達、伯适、仲突、仲忽、叔夜、叔夏、李隨、李騧。
XVIII.11
Chu hữu bát sĩ: Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quí Tùy, Quí Oa.
Dịch. – Nhà Chu có tám kẻ sĩ: Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quí Tùy, Quí Oa.
Chú thích. – Không rõ tám kẻ sĩ đó là ai. Nên để ý: tám người chia làm bốn cặp: Bá, Trọng, Thúc, Quí, và mỗi cặp có tên vần với nhau: Đạt, Quát, Đột, Hốt v.v… Do đó có người ngờ là những cặp sinh đôi của một gia đình. [Và cũng do đó thân sinh văn hào Cao Bá Quát của nước ta đặt cho hai người con đầu lòng sinh đôi là: Bá Đạt, Bá Quát; và Bá Quát lấy tên tự là Chu Thần (bề tôi nhà Chu) cũng vì vậy].