Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2020

CHIẾT TỰ CHỮ HÁN

CHIẾT TỰ CHỮ HÁN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CHỮ HÁN Sự phát triển của chữ Hán là một quá trình biến đổi lâu dài từ chữ Giáp Cốt đến chữ Hán mà ngày nay chúng ta đang sử dụng. Việc tìm hiểu về quá trình phát triển của chữ hán là việc rất quan trọng và gần như bắt buộc đối với người học chữ Hán muốn tìm hiểu và nghiên cứu có hệ thống, giúp chúng ta hiểu đúng và ghi nhớ một cách có căn cứ về Hán tự. Quá trình biến đổi này có thể tóm tắt như sau: *Chữ Giáp Cốt甲骨字 : Xuất hiện ở thời nhà ân (1600-1020 TCN). Là loại chữ viết trên mai rùa hoặc xương thú vật. Chữ ở dạng này vẽ lại giống như những gì con người quan sát được. * Kim văn金文 : Đời nhà Chu (1021 - 256 TCN). Là loại chữ được viết trên đồ đồng như chuông, đỉnh. * Triện văn 篆文 : Thời Chiến Quốc (403-221 tr. CN) và thời nhà Tần (221-206 tr. CN). Được chia thành Đại Triện và Tiểu Triện. Được phát triển từ kim văn, được dùng để khắc con dấu. *Lệ thư 隶書 : Phát triển trong thời kỳ với triện thư, các chữ được giản thể về nét viết gần giống như khải thư. *Khải thư 楷書 :(Tiền Hán 206 tr. CN – 8 sau CN, Hậu Hán 25-220) được chia thành Hành thư và Thảo thư. Khải thư là loại chữ có kết cấu chặt chẽ, chữ được viết vào một ô vuông. Một số ví dụ về quá trình phát triển của chữ hán :   Quá trình biến đổi của chữ NGƯ 魚 (con cá) Quá trình biến đổi của chữ TỬ 子 (con, cái)  CÁC PHÉP CẤU TẠO CỦA CHỮ HÁN (LỤC THƯ) Cũng như các chữ viết khác trên thế giới, chữ Hán được hình thành từ các nét vẽ miêu tả các sự vật hiện tượng xung quanh con người. Nhưng khác ở đây là chữ Hán đã chọn một cách phát triển không giống các chữ viết khác trên thế giới. Với các chữ viết khác trên thế giới, khi xã hội phát triển, con người đã đơn giản các nét vẽ và dùng các nét đó để thể hiện cho một âm tiết nào đó trong tiếng nói của các dân tộc đó. Còn với chữ Hán, nó vẫn giữ lại ý nghĩa tượng hình ban đầu của chữ.Và dùng các phép tạo chữ khác để tạo nên các chữ có ý nghĩa trừu tượng . Chính vì thế, chữ tượng hình mặc dù chiếm một phần không lớn trong chữ Hán, nhưng lại có tầm quan trọng rất lớn trong hệ thống chữ Hán. Chữ Hán được hình thành theo các cách chính: Chữ Tượng Hình (象形文字): "Tượng hình" có nghĩa là căn cứ trên hình tượng của sự vật mà hình thành chữ viết. Các chữ này rất dễ nhận biết và đơn giản. Chữ Chỉ Sự (指事文字) hay chữ Biểu Ý (表意文字): Cùng với sự phát triển của con người, chữ Hán đã được phát triển lên một bước cao hơn để đáp ứng đủ nhu cầu diễn tả những sự việc đó là chữ Chỉ Sự. Ví dụ, để tạo nên chữ Bản (本), diễn đạt nghĩa "gốc rễ của cây" (根), thì người ta dùng chữ Mộc (木) và thêm gạch ngang diễn tả ý nghĩa "ở đây là gốc rễ" và chữ Bản (本) được hình thành. Chữ Thượng (上), chữ Hạ (下) và chữ Thiên (天) cũng là những chữ Chỉ Sự được hình thành theo cách tương tự. "Chỉ Sự" có nghĩa là chỉ định một sự vật và biểu diễn bằng chữ. Chữ Hội Ý (Hội Ý Văn Tự 會意文字): Để tăng thêm chữ Hán, cho đến nay người ta có nhiều phương pháp tạo nhiều chữ mới có ý nghĩa mới. Ví dụ, chữ Lâm (林, rừng nơi có nhiều cây) có hai chữ Mộc (木) xếp hàng đứng cạnh nhau được tạo bằng cách ghép hai chữ Mộc với nhau (Rừng thì có nhiều cây!!). Chữ Sâm (森,rừng rậm nơi có rất nhiều cây) được tạo thành bằng cách ghép ba chữ Mộc. Còn chữ Minh (鳴, kêu, hót) được hình thành bằng cách ghép chữ Điểu (鳥, con chim) bên cạnh chữ Khẩu (口, mồm); chữ Thủ (取, cầm, nắm) được hình thành bằng cách chữ Nhĩ (耳, tai) của động vật với tay (chữ Thủ 手, chữ Hựu 又). Những chữ được tạo thành theo phương pháp ghép như trên gọi là chữ Hội Ý (會意文字). "Hội Ý" có nghĩa là ghép ý nghĩa với nhau. Chữ Hình Thanh (形聲文字): Cùng với những chữ Tượng Hình, Chỉ Sự và Hội Ý, có nhiều phương pháp tạo nên chữ Hán, nhưng có thể nói là đa số các chữ Hán được hình thành bằng phương pháp hình thanh, gọi là chữ Hình Thanh (形聲文字). Chữ Hình Thanh chiếm phần lớn trong toàn bộ chữ Hán. Chữ Hình Thanh là những chữ bao gồm hai phần: phần hình (形) là phần biểu diễn ý nghĩa chính mà đã được dùng từ lâu đời, và phần thanh (聲) là phần biểu diễn cách phát âm chính xác của từ đó. Ví dụ, chữ Khẩu (口) có hình biểu diễn việc ăn hoặc nói, và chữ Vị (未) có cách phát âm giống chữ vị (trong khẩu vị) khi ghép hai chữ với nhau tạo nên chữ Vị (味) của khẩu vị. Bộ Thủy (氵) biểu diễn nghĩa dòng sông hoặc dòng nước chảy, khi ghép cùng với chữ Thanh (青, màu xanh) tạo thành chữ Thanh (清) có nghĩa là "trong suốt" hoặc "trong xanh". Chữ Chuyển Chú (轉注文字): Các chữ Hán được hình thành bằng bốn phương pháp kể trên, nhưng còn có những chữ có thêm những ý nghĩa khácbiệt, và được sử dụng trong những nghĩa hoàn toàn khác biệt đó. Ví dụ, chữ Dược (藥), có nguồn gốc là từ chữ Nhạc (樂), âm nhạc làm cho lòng người cảm thấy sung sướng phấn khởi nên chữ Nhạc (樂) cũng có âm là Lạc nghĩa là vui vẻ. Chữ Dược (藥) được tạo thành bằng cách ghép thêm bộ Thảo (có nghĩa là cây cỏ) vào chữ Lạc (樂). Chữ được hình thành theo phương pháp này được gọi là chữ Chuyển Chú (轉注文字). Chữ Giả Tá (假借文字): Những chữ được hình thành theo phương pháp bằng cách mượn chữ có cùng cách phát âm được gọi là chữ Giả Tá (假借文字). Ở trên giải thích về bốn cách tạo chữ và hai cách sử dụng chữ Hán. Bốn cách tạo chữ và hai cách sử dụng được gọi chung là Lục Thư (六書). Thực tế còn có một dạng chữ được gọi là hình thanh kiêm hội ý, dạng chữ này cũng chiếm một lượng lớn trong toàn bộ chữ hán. Một vài thống kê và mẹo nhỏ giúp ích cho người học chữ hán : * Lượng chữ hán thống kê được rất lớn (khoảng 100.000 chữ) * Lượng chữ hán thường hay được dùng (khoảng 3000 – 5000 chữ) *Chữ tượng hình + chữ chỉ sự: chiếm khoảng 5% * Chữ hội ý: chiếm khoảng 20 % * Chữ hình thanh : chiếm khoảng 65 % * Chữ hình thanh kiêm hội ý: chiếm khoảng 10% * Hai dạng chuyển chú và giả tá rất ít gặp trong thực tế * 214 bộ thủ chữ hán chủ yếu ở dạng chữ tượng hình (một số ít ở dạng hội ý, hình thanh và chỉ sự). * 80% chữ hình thanh có kết cấu trái phải. Trong đó, bộ phận biểu âm thường nằm bên trái và là chữ hội ý trong khi bộ phận biểu nghĩa bên phải thường là chữ tượng hình (điều này cho thấy tầm quan trọng của việc học chữ hội ý).   Một số lưu ý quan trọng để sử dụng tài liệu này với hiệu quả cao nhất : Sách đi sâu phân tích hơn 700 chữ Hán, đây là những chữ thường gặp nhất trong thực tế sử dụng. Trong giới hạn 700 chữ này, chúng tôi tập trung phân tích các chữ ở dạng hội ý và hình thanh kiêm hội ý.Như đã trình bày ở mục trước (lục thư), tuy chữ hội ý chiếm một phần không lớn trong từ điển chữ hán nhưng việc phân tích tìm hiểu chúng có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển vốn chữ hán của người học. Chữ hình thanh tuy chiếm số lượng lớn nhưng nhìn chung là một chữ có quy tắc và có thể tự học và phân tích được nếu đã có vốn chữ hội ý tương đối (xem lại phần thống kê). Tài liệu cũng dành khoảng gần 300 trang để phân tích các bộ thủ, đây là các thành phần nhỏ nhất cấu thành nên chữ hán phức tạp. các bộ thủ được chọn để phân tích là những bộ thủ thường xuyên được sử dụng trong cấu tạo chữ hán. Việc tìm hiểu nguồn gốc cũng như quá trình biến đổi của các bộ thủ này sẽ là tiền đề để các bạn hiểu được ý nghĩa của các chữ hội ý và hình thanh sau này. Để bước đầu làm quen với chữ hình thanh, chúng tôi cũng phân tích một số chữ ở dạng này. Với đặc điểm là chữ có quy tắc cũng như có công thức cụ thể, học chữ hình thanh là phương pháp phát triển vốn chữ hán một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. 愛 HÁN VIỆT Ái NGHĨA VIỆT Yêu, thích, ái mộ,… DẠNG KHÁC 爱 PHIÊN ÂM ài TỪ GHÉP thân ái 親愛; nhân ái 仁愛; khả ái 可愛; ái ân 愛恩 Chữ ÁI (愛) ý nghĩa là tình yêu, gồm bộ TÂM (心) (con tim) và chữ THỤ (受) (chịu đựng), tình yêu thương chính là sự chấp nhận và tình nguyện hi sinh. Tuy nhiên trong chữ giản thể ngày nay, chữ Ái này đã bị mất đi chữ TÂM (trái tim). Trở thành tình cảm (tình yêu) hời hợt bên ngoài không có con tim. Trên thực tế trong quá trình chuyển giao sang thời kỳ hiện đại, Trung Quốc đã xảy ra một biến hóa lớn. Sau Cách mạng văn hóa, các giá trị truyền thống của nền văn minh Trung Hoa 5.000 năm đã bị bóp méo và thay thế một cách không thương tiếc. Điều đó cũng thể hiện ngay trong chính chữ Hán giản thể. Loại chữ hiện đại này đã làm mất đi các yếu tố tượng hình, ý nghĩa thâm sâu và cái đạo mà người xưa truyền lại. Trong khi chữ Hán phồn thể bao hàm tư tưởng và văn hóa truyền thống của Trung Hoa thì chữ giản thể lại không làm được như thế. 暗 HÁN VIỆT Ám, Âm NGHĨA VIỆT Bóng tối, tối, mờ, không rõ, không tỏ, hắc ám… DẠNG KHÁC TỪ GHÉP ám hại 暗害 • ám hận 暗恨 • ám hiệu 暗号. Chữ ÁM暗 nghĩa là bóng tối, hắc ám. Được cấu thành từ bộ NHẬT日 là mặt trời, chữ ÂM音 là âm thanh. Xét về cấu tạo,ÁM暗 là một chữ hình thanh có kết cấu trái phải vớibộ NHẬT日làm nhiệm vụ biểu nghĩa vàÂM音có tác dụng biểu thị âm đọc. NHẬT日với vai trò là bộ thủ tạo chữ hán biểu diễn các nghĩa liên quan đến ánh sáng, thời tiết…kết hợp với âm đọc của音tạo thành. ÁM暗 với nghĩa là tối, thiếu ánh sáng như U ÁM幽暗 nghĩa là mờ tối. ÁM暗cũng được sử dụng để chỉ việc làm gì đó kín đáo, không minh bạch như trong từ ÁM HIỆU暗號 hiệu ngầm (không cho người ngoài cuộc biết), ÁM SỰ暗事 việc mờ ám. 安 HÁN VIỆT An, Yên NGHĨA VIỆT An toàn, lành, yên lòng, dự định,… DẠNG KHÁC TỪ GHÉP an bài 安排•an cư 安居 • an cư lạc nghiệp 安居樂業 • an dân 安民. Chữ AN 安 phía trên là bộ MIÊN 宀, phía dưới là bộ NỮ 女. Bộ NỮ mô tả tư thế yểu điệu nữ tính của người con gái thời xưa, chân hơi khụy xuống, mặt nghiêng, hai tay để về một bên hông. Miên nghĩa là mái nhà, trông giống cái mái che. Người phụ nữ ở trong nhà chính là chỉ chữ AN. Ngày nay người ta hay giải nghĩa chữ AN 安 với hàm ý là người phụ nữ mà ở trong nhà thì rất an toàn, sẽ được người đàn ông che chở. Tuy nhiên chữ AN không hề giới hạn ở tầng nghĩa đó. Người xưa quan niệm rằng, người phụ nữ cần đảm đương lo liệu việc nhà, để người đàn ông yên tâm ra ngoài làm việc lớn. Điều này không có ý hạ thấp người phụ nữ, mà chính là ý rằng: Nhà phải yên thì nước mới yên. Mái nhà có người phụ nữ chăm nom thì mới được an định. Đó chính là chữ AN. 押 HÁN VIỆT Áp NGHĨA VIỆT bắt giữ, cam kết,… DẠNG KHÁC TỪ GHÉP áp đảo 押倒 • áp giải 押解 • áp khoán 押欵 • áp tống 押送 Chữ ÁP押về cơ bản là chữ hình thanh có thể phân tích theo dạng chữ hội ý, Bao gồm THỦ扌 (tay) và chữ GIÁP甲 .GIÁP甲là hình ảnh của một cái mai rùa, hình dạng của nó trông giống như một cái hộp hoặc lồng, có ý nghĩa là được bao quanh. THỦ扌là tay có thể cầm nắm, giữ lấy, vì vậy ÁP押 có nghĩa là giam cầm hoặc giam giữ và lấy âm đọc của chữ GIÁP甲 làm biểu âm. Mặt khác, ở Trung Quốc cổ đại, hầu hết tù nhân cũng có chức năng là con tin, cho nên 押cũng có ý nghĩa là sự cam kết. 音 HÁN VIỆT Âm, ấm NGHĨA VIỆT Âm, tiếng DẠNG KHÁC TỪ GHÉP âm điệu 音調 • âm hưởng 音響 • âm luật 音律 • âm nhạc 音樂 • âm thanh 音聲 • âm tiết 音節. Chữ ÂM音 là một chữ hội ý, trong cổ văn nó miêu tả một cái miệng với một cái lưỡi và lời nói. Về hình thể và nguồn gốc 音 tương tự như THIỆT舌 (cái lưỡi), một số nét được thêm vào để thể hiện các từ được phát ra từ miệng. Mặt khác, cả音và 言 (lời nói) đều có chung nguồn gốc, cả hai đều có ý nghĩa tương tự nhau. 飲 HÁN VIỆT ẩm, ấm NGHĨA VIỆT Uống, đồ uống DẠNG KHÁC TỪ GHÉP ẩm thực 飲食 • ẩm tiễn 飲餞 • cuồng ẩm 狂飲 • dạ ẩm 夜飲 • độc ẩm 獨飲 • đối ẩm 對飲• song ẩm 雙飲 Chữ ẨM飲 trong cổ văn miêu tả một một người đang quỳ gối miệng há rộng, phía dưới người đàn ông là một vò rượu, hai nét chấm phía trên biểu trưng cho chất lỏng ở trong vò. Chữ ẨM飲 theo diễn tiến về sau này là chữ Hội Ý bao gồm bên trái bộ THỰC飠và bên phải KHIẾM欠 (thiếu) với ý nghĩa: Vì khát mà uống nước.ẨM 飲là Uống. Ta có các cụm từ và thành ngữ liên quan đến ẨM: ẨM THỰC 飲食 : là Ăn Uống. ẨM THỦY 飲水 : là Uống nước. Ta có thành ngữ : ẨM THỦY TƯ NGUYÊN 飲水思源 : là Uống nước nhớ nguồn. ẨM TỬU 飲酒 : là Uống rượu. Ta thường nghe câu : Ngộ ẨM TỬU thời tu ẨM TỬU, 遇飲酒時須飲酒, Đắc cao ca xứ thả cao ca. 得高歌處且高歌。 Có nghĩa : Gặp lúc uống rượu thì cứ vui vẻ mà uống rượu đi, còn ... Nơi nào có thể ca hát được thì cứ ca hát cho vui vẻ đi ! ẨM HẬN 飲恨 : Không phải là Uống Hận, mà là Nuốt Hận, Ôm Hận, như hai câu thơ trong bài Cảm Hoài của Đặng Dung, một danh tướng đời Trần của ta: 時來屠釣成功易, Thời lai đồ điếu thành công dị, 運去英雄飲恨多. Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. Có nghĩa: Khi thời cơ đưa đến thì cái anh chàng đồ tể chuyên giết chó để bán thịt như Phàn Khoái và cái anh chàng thư sinh ốm yếu ngồi câu cá ở bờ sông như Hàn Tín) cũng rất dễ thành công. (Cả 2 là Khai quốc công thần giúp Hán Cao Tổ dựng nên nhà Hán). Còn... Lúc vận may đã đi rồi, hết thời rồi, thì dù anh hùng (có giỏi như Gia Cát Khổng Minh với Lục xuất Kỳ Sơn, sáu lần đem binh đánh Ngụy đều không thành) nên cũng đành ÔM HẬN mà thôi! 恩 HÁN VIỆT Ân NGHĨA VIỆT Ân huệ, ơn đức,… DẠNG KHÁC TỪ GHÉP ác ân 渥恩 • ái ân 愛•ân cần 恩勤. Năm 1747 năm Đinh Mão thời vua Càn Long, sau kỳ thi Hương ở Phúc Kiến, thí sinh Tạ Đình Quang nghe nói ở Hồng Sơn Kiều có một vị giỏi về đoán chữ nên đã rủ một số người bạn của mình cùng đi thăm hỏi. Tạ Đình Quang viết chữ Nhân “因” (Hán Việt: Nhân, có nghĩa là nguyên nhân) rồi hỏi xem kỳ thi Hương này có đỗ không. Vị thầy đoán chữ nói: “Trong bờ cõi này có một người, chúc mừng thư sinh là người đỗ đầu bảng trong khoa thi năm nay!” (Giải nghĩa: Chữ “因” có thể hiểu là gồm chữ “囗” (Vi, nghĩa là bờ cõi) và chữ “一” (Nhất, nghĩa là một) và chữ “人” (Nhân, nghĩa là người)). Một người bạn của Tạ Đình Quang nói: “Tôi cũng muốn dùng chữ Nhân “因” này, thỉnh mời ngài xem cho tôi một chút!” Vị thầy đoán chữ nói: “Kỳ thi này e rằng không có phần của thư sinh rồi! Nhưng sau này sẽ được ân huệ của bạn học mà có hy vọng được thăng quan tiến chức nhanh chóng!”. Ông giải thích: “Chữ Nhân “因” mà vị thư sinh lúc nãy viết là vô tâm, vô ý mà viết ra. Còn chữ Nhân “因” của thư sinh thì là “cố ý” là “có tâm”(“心”) mà viết ra nên sẽ thành chữ Ân “恩” (ân, ân huệ)”. Một thư sinh đi cùng liền chỉ chiếc quạt gỗ trong tay vào chữ Nhân “因” ấy và nói: “Tôi cũng dùng chữ Nhân “因” này, thỉnh ngài xem xem công danh của tôi sẽ thế nào?”. Thầy đoán chữ nhíu mày và nói: “Chiếc quạt gỗ của ngài vừa vặn chỉ đúng vào chữ Nhân “因” này thì là thành chữ Khốn “困” (Nghĩa: Khốn khổ, khốn đốn), nên e rằng cả đời này ngài sẽ mãi là thư sinh nghèo thôi!”. Về sau, vận mệnh của cả ba người bạn học này đều chuẩn xác y như lời tiên đoán của vị thầy này 印 HÁN VIỆT Ấn NGHĨA VIỆT In ấn DẠNG KHÁC TỪ GHÉP ấn bản 印本 • ấn chỉ 印紙• ấn định 印定 • ấn độ 印度 Chữ ẤN印về cấu tạo là một chữ hội ý có kết cấu trái phải, bên trái là môt dị thể khác của bộ THỦ (tay) bên phải là chữ TIẾT卩. Nguồn gốc của chữ ẤN印có liên quan đến tục đóng dấu lên đầu phạm nhân ngày xưa. trong giáp cốt văn là hình một người đang quỳ gối, bên trên là hình một bàn tay đang hướng đến. Hình dạng chữ ở kim và triện văn càng thể hiện rõ nét hơn tập tục đóng dấu lên đầu phạm nhân. Như vậy chữ ẤN ban đầu có nghĩa là đóng dấu lên đầu phậm nhân, sau phát triển nghĩa chỉ việc in ấn, dấu vết, dấu tay. 邑 HÁN VIỆT ấp NGHĨA VIỆT Vùng đất, thành ấp, thủ đô, thành thị DẠNG KHÁC TỪ GHÉP biên ấp 邊邑 • lâm ấp 林邑 • quyên ấp 悁邑 • thái ấp 採邑 • thái ấp 采邑 ẤP 邑 là chữ Hội Ý, trong cổ văn邑 là một hình tròn phía trên biểu trưng cho tường thành bao quanh, phía dưới là một người đàn ông đang quỳ gối, tượng trưng cho người dân đang sinh sống trong thành đó nên ẤP邑 là THÀNH ẤP 城邑, là THỊ TỨ 市肆, THỊ TRẤN 市鎮, nơi tập trung nhiều người ở có tổ chức hẵn hoi. ẤP 邑 còn được viết dưới dạng nầy 阝nằm bên phải chữ, nên còn gọi là "Lỗ Tai Bên Phải" như chữ GIAO 郊, chữ QUẬN 郡, chữ ĐÔ 都 … ẤP còn là Đất của Chư hầu phong cho các Đại Phu trong thời Phong Kiến, gọi là THÁI ẤP 采邑. Nên... ẤP NHÂN 邑人 : là Người cùng Ấp, chỉ Người Đồng hương. THÔNG CÙ ĐẠI ẤP 通衢大邑: là Đường cái, đường lớn đưa đến một Thành Thị hay một Nước. TIẾT ẤP LÃNH CHÚA 薛邑領主: Mạnh Thường Quân kế thừa phụ ấm làm Lãnh Chúa của Tiết Ấp vốn được Tề Vương phong cho trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, hiện nay thuộc TIẾT THÀNH của tỉnh Sơn Đông. Tương truyền, khi còn làm Tể Tướng cho Tề Vương, một hôm, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên là một thực khách trong số 3000 thực khách ở nhà, đến Tiết Ấp để đòi nợ và lấy tiền lãi. Trước khi lên đường, Phùng Huyên hỏi Mạnh Thường Quân rằng: "Thu được tiền rồi, Tể Tướng có định mua gì không?" Mạnh Thường Quân đáp: "Ông xem nhà ta còn thiếu thứ gì thì mua thứ đó!" Lúc đến Tiết Ấp, sau khi đã thu xong tiền của một số hộ lớn, còn các hộ nhỏ thì vì mùa màng thất bát không có tiền để trả, Phùng Huyên mới lấy số tiền thu được cho thiết tiệc mời tất cả thần dân trong ấp đền dự. Trong bữa tiệc,ông thay mặt Mạnh Thường Quân cám ơn các hộ lớn, an ủi các hộ nhỏ và cho thu lại tất cả các giấy nợ rồi... đốt hết, xóa nợ luôn! Dân Tiết Ấp cảm kích không ngớt lời cảm tạ. Khi về đến nhà, Mạnh Thường Quân nghe tin, giận hỏi: "Ta bảo ông đi thu nợ, sao lại xóa hết nợ của ta đi, ta phải nuôi đến 3000 thực khách ở trong nhà, ông có biết không?" Phùng Huyên đáp: "Nợ của các hộ lớn đã thu, còn các hộ nhỏ đa số là bần nông, tay làm hàm nhai, là nợ khó đòi, nếu ta áp bức qúa, dân sẽ bỏ qua ấp khác mà ở, như thế sẽ tổn hại đến thanh danh của Tể Tướng, nên tôi mới sẵn dịp mà mua cái ân nghĩa nầy cho Tể Tướng đó!" Mạnh Thường Quân nghe nói hợp tình hợp lý, bèn đứng lên thi lễ mà bỏ qua, không còn nhớ đến nữa. Ít lâu sau, Tề Vương nghe lời dèm xiểm, bãi chức Tể Tướng của Mạnh Thường Quân cho về Tiết Ấp. Khi đoàn người vừa về đến đầu Ấp, Mạnh Thường Quân thấy rất đông dân chúng, gái trai già trẻ dắt díu nhau ra chào đón chật cả đường đi. Qúa cảm động, ông quay sang nói với Phùng Huyên rằng: "Đây là cái ÂN NGHĨA mà ông đã MUA cho ta ngày trước đó!" 乙 HÁN VIỆT ất NGHĨA VIỆT bộ ất, Can thứ hai trong 10 can DẠNG KHÁC TỪ GHÉP ất bản 乙苯 • ất bảng 乙榜 • ất dạ 乙夜 • ất hy 乙烯 • ất khoa 乙科• ẤT乙là một chữ tượng hình mô tả hình ảnh một cây con đang lớn lên nhưng lá của nó vẫn đóng, chưa mở hẳn. Đây là giai đoạn thứ hai của quá trình phát triển của cây sau giai đoạn nằm trong hạt (xem thêm bài phân tích chữ“giáp”), vì vậy ẤT乙 được sử dụng làm ngôi thứ hai của 10 thiên can. ẤT乙 trong chữ hán cũng là một trong 214 bộ thủ, những thành phần tạo nên dạng chữ có cấu tạo phức tạp hơn. 白 HÁN VIỆT Bạch NGHĨA VIỆT Trắng, bạc (tóc), sạch, rõ ràng, trống rỗng TỪ GHÉP bạch cốt 白骨• bạch cư dị 白居易 • bạch diện thư sanh 白面書生bạch dương 白楊 • đàn 白檀 • bạch đằng 白藤 • bạch đầu 白頭 • bạch hầu 白喉 BẠCH 白là chữ mượn Tượng Hình để Chỉ Sự, Từ Giáp Cốt Văn, Kim Văn, Đại Triện đều là hình vẽ Mặt Trời phân hai, nửa chiếu lên nửa chiếu xuống, ánh mặt trời là màu Sáng Trắng, nên ... BẠCH 白 : là Màu Trắng, là Sáng Trắng, là Trong Trắng... như: BẠCH MAI 白梅 : là Mai màu trắng. BẠCH NHẬT 白日 : là Mặt trời Trắng, là Ban Ngày, với ánh sáng trắng. Thanh Thiên Bạch Nhật 青天白日 : là Trời Xanh Nắng Sáng, là Ban Ngày Ban Mặt. THANH BẠCH 清白 : là Trong Trắng, không lấm lem, không bợn nhơ. Trái với Thanh Bạch là Ô TRỌC 污濁 : là Đen và Dơ, là đen đúa Dơ dáy, là Bợn Nhơ. Theo âm dương ngũ hành, màu TRẮNG thuộc hành KIM, về phương hướng, màu TRẮNG thuộc hướng Tây, về thời tiết là Mùa Thu, nên gió mùa thu gọi là GIÓ TÂY, GIÓ VÀNG ( Kim Phong 金風 )như Ôn Như Hầu đã mở đầu Cung Oán Ngâm Khúc bằng câu : Trải vách quế GIÓ VÀNG hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng ! MINH BẠCH 明白 : MINH là Sáng, BẠCH là Trắng. MINH BẠCH là Sáng Trắng, nên có nghĩa là RÕ RÀNG ! Trong đàm thoại, Minh Bạch có nghĩa là HIỂU RÕ. " Minh Bạch chưa ? " là " Hiểu rõ chưa ? ". TỰ BẠCH 自白 : là Tự Mình nói RÕ về việc gì đó của Mình. BẠCH THOẠI 白話 : là Văn nói bình thường, đơn giản, trái với Văn Ngôn 文言 là Văn Viết, cầu kỳ sâu xa hơn. BẠCH THỦ THÀNH GIA 白手成家 : là Tay trắng xây dựng nên gia đình hạnh phúc. Ta nói là Tay Trắng Làm Nên. BẠCH ĐẦU GIAI LÃO 白頭偕老 : là Cùng sánh đôi nhau cho đến lúc bạc đầu. Đây là lời chúc đám cưới cho cô Dâu chú Rể. BẠCH Y THIÊN SỨ 白衣天使 : là Thiên thần áo trắng, là thành ngữ dùng để tôn xưng những cô Y Tá trong bệnh viện. BẠCH Y THƯƠNG CẨU 白衣蒼狗 : là Áo Trắng Chó Xanh, Xuất xứ từ 2 câu thơ cũa Đỗ Phủ trong bài Khả Thán Thi 唐•杜甫 "可歎詩": 天上浮雲似白衣, Thiên thượng phù vân tự BẠCH Y, 斯須改變如蒼狗 ! Tư tu cải biến như THƯƠNG CẨU ! Có nghĩa : Đám mây nổi ở trên trời, trông tựa như tà áo trắng, nhưng ... Trong phút chốc lại biến đổi giống như là con chó màu xanh. Ý chỉ chuyện đời thay đổi nhanh chóng mà ta không thể lường trước được. Trong Cung Oán Ngâm Khúc Nguyễn Gia Thiều cũng đã mượn ý nầy để viết nên 2 câu sau đây : Lò cừ nung nấu sự đời, Bức tranh VÂN CẨU vẽ người tang thương!  本 HÁN VIỆT Bản, bổn NGHĨA VIỆT Gốc TỪ GHÉP ấn bản 印本 • bản chất 本质 • bản châu 本州 • bản địa 本地 • bản mạt 本末 • bản mệnh 本命 • bản năng 本能 Chữ BẢN本là một chữ ở dạng chỉ sự. Hình dạng chữ trong giáp cốt giống như một cái cây với ba chùm rễ bám sâu dưới lòng đất. Sau quá trình phát triển của chữ ba chùm dễ trong giáp cốt được biến đổi trở thành nét ngang phía dưới như trong dạng khải thư ngày nay. Chữ BẢN 本 được tạo bởi bộ MỘC木và vẽ thêm một nét ngang phía dưới biểu thị bộ rễ của cây. Chữ BẢN 本 từ nghĩa gốc chỉ bộ phận rễ cây phát triển thành ngĩa chỉ gốc rễ của các vấn đề trong đời sống xã hội. 半 HÁN VIỆT bán NGHĨA VIỆT Một nửa TỪ GHÉP bán cầu 半球 • bán đảo 半島 • bán kính 半徑 • bán nguyệt 半月. Chữ BÁN半là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, gồm Chữ BÁT八(số 8) được viết ngược lại và một dị thể của bộ NGƯU牛(con trâu). Có khá nhiều quan điểm về nguồn gốc của chữ hán này, ở đây xin đưa ra quan điểm được nhiều người đồng tình hơn cả. Căn cứ vào hình dạng chữ ở kim và triện văn, hình ảnh chữ bao gồm chữ NGƯU牛ở dưới, phía trên trên là chữ BÁT 八. Chữ BÁT 八 ngoài nghĩa là chỉ số 8 ra còn có nghĩa là phân chia, phân biệt. Như vậy ý nghĩa ban đầu của chữ BÁN半 là xẻ bụng con trâu ra làm đôi. Bản thân hình dạng chữ BÁT八 lại rất giống như hai phần của con trâu bị tách ra. Trải qua quá trình phát triển, chữ BÁT八 phía trên được quay ngược lại, bộ ngưu cũng được viết khác đi và trở thành chữ BÁN半 như ngày nay. 伴 HÁN VIỆT Bạn, Phán NGHĨA VIỆT Bạn bè,đồng sự, cùng,… TỪ GHÉP đồng bạn 同伴• kết bạn 結伴 • khoả bạn 夥伴 • phản bạn 反伴. Chữ “伴/bạn” là chữ hội ý kiêm hình thanh, thể chữ Giáp cốt cho thấy hình dạng giống hai người đang đi sát nhau . Thể chữ Triện gồm chữ “ / Nhân” (người) và chữ “ / Bán” (một nửa) hợp lại. Ý nghĩa cấu tạo của chữ “伴” là vợ chồng là một chỉnh thể thống nhất, mỗi người là một nửa trong đó, nhấn mạnh ý vợ chồng là những người bạn đời, đồng hành với nhau suốt cả cuộc đời. 包 HÁN VIỆT Bao NGHĨA VIỆT Bao bọc TỪ GHÉP bao bì 包皮 • bao biện 包辦 • bao công 包公 • bao công 包工 • bao dung 包容. BAO包 về mặt cấu tạo là một chữ hội ý kết cấu đan xen. Chữ包được viết ở dạng chữ cổ là hình một đứa trẻ đang nằm trong bào thai của người mẹ. Thân hình đứa trẻ cuộn tròn lại với một dây rốn ở phía dưới. Sau qua trình phát triển, đến sau này hình ảnh bào thai được thay bằng bộ BAO 勹 còn cơ thể đứa trẻ được viết bằng chữ TỊ巳, tính chất hội ý vẫn giữ nguyên, thể hiện một đứa trẻ trong bào thai. Từ nghĩa chỉ bào thai lúc ban đầu, chữ包mở rộng nghĩa thành túi, gói, bao, vây quanh, đảm bảo. 袍 HÁN VIỆT Bào NGHĨA VIỆT Áo, áo choàng TỪ GHÉP chiến bào 戰袍 • lam bào 藍袍 • long bào 龍袍. Chữ BÀO袍là một chữ hình thanh kết cấu trái phải. Trong đó, bộ Y衤 (áo) ở bên trái có tác dụng biểu thị ý nghĩa của chữ, bộ BAO包bên phải có tác dụng chỉ âm. Y 衤 là áo, bộ Y 衤 khi làm một bộ phận tạo chữ sẽ biểu thị ý nghĩa liên quan đến quần áo, trang phục. Trong cấu tạo chữ BÀO 袍, Y衤với vai trò biểu nghĩa chính, kết hợp với âm đọc của BAO 包 tạo thành chữ 袍 với nghĩa chỉ chiếc áo khoác. 抱 HÁN VIỆT Bão NGHĨA VIỆT Ôm ấp TỪ GHÉP kê bão noãn雞抱卵, Hoài bão 懷抱. BÃO抱 về mặt cấu tạo là một chữ hình thanh kết cấu trái phải. Trong đó, chữ THỦ (tay, bàn tay) ở bên phải có tác dụng biểu nghĩa, chữ BAO包bên phải có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. Trong cấu tạo của chữ BÃO抱, THỦ扌nghĩa chỉ cái tay, là chủ thể về các nghĩa liên quan đến hành động, động tác kết hợp với âm đọc của BAO包 tạo thành chữ BÃO抱với nghĩa là ôm ấp, ấp ủ. 飽 HÁN VIỆT Bão NGHĨA VIỆT No, đầy, đủ DẠNG KHÁC 饱 TỪ GHÉP bão hoà飽和, ôn bão 溫飽 Chữ BÃO飽 là một chữ hình thanh kết cấu trái phải. Trong đó, THỰC飠 (ăn) là bộ phận biểu nghĩa, chữ BAO包 (bao bọc) có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. THỰC 飠 là ăn, khi đóng vai trò tạo chữ 飠 chủ thể về các nghĩa liên quan đến ăn uống, lương thực,… Trong cấu tạo của chữ BÃO, 飠 với vai trò chỉ nghĩa, kết hợp với âm đọc của 包 tạo thành chữ BÃO飽 nghĩa là no, đầy . 八 HÁN VIỆT bát NGHĨA VIỆT Số 8 TỪ GHÉP bát diện 八面 • bát giác 八角 • • bát phương 八方 • bát quái 八卦 • bát trận đồ 八陣圖 • song thất lục bát 雙七六八 • thất điên bát đảo 七顛八倒. Chữ BÁT八là một chữ chỉ sự, 八 mô tả một cái gậy bị bẻ gãy làm đôi, mang ý nghĩa của việc phân chia một cái gì đó. Tám có thể được chia thành bốn, sau đó được chia thành hai. Vì số tám có thể được chia đều nhiều lần, nó là một số có thể chia được, do đó, hình ảnh một cây gậy bị gãy được sử dụng làm biểu tượng để mô tả số tám. BÁT八ngoài nghĩa thông thường chỉ con số 8, còn được hiểu là sự phân chia. 北 HÁN VIỆT Bắc, bối, bội NGHĨA VIỆT Phía bắc, trái ngược TỪ GHÉP bắc bán cầu 北半求 • bắc băng dương 北冰洋• bắc đẩu 北斗 • bắc hải 北海 • bắc hàn 北韓. Chữ BẮC北là một chữ hội ý, mô tả hai người đứng quay lưng lại với nhau, nghĩa gốc của 北 là lưng của cơ thể người. Vì gió thổi từ phía bắc rất mạnh và rất lạnh giá, khó có thể đối mặt, mọi người luôn phải quay lưng về phía bắc, mặt khác ý nghĩa của lưng người đã được thay thế bằng 背, nên BẮC北được dùng theo dạng Giả Tá để chỉ phía bắc. BẮC北là Hướng Bắc ngược với Hướng Nam. Thường nằm ở phía trên của Bản Đồ, của Trái Đất. Nên ta hay nói : Lên Bắc xuống Nam, hay Ra Bắc Vào Nam. Trong " Thập Cửu Cổ Thi " có câu :  胡馬依北風, Hồ mã y BẮC phong, 越鳥巢南枝。 Việt điểu sào NAM chi. Có nghĩa : - Con ngựa của đất Hồ ở phương Bắc, khi thấy gió Bấc thổi thì hí lên vì nhớ quê hương ở đất Bắc. - Con chim đất Việt ở phía Nam, khi bay về phương bắc vẫn chọn cành ở phía Nam mà làm tổ. Ta nói là : 冰 HÁN VIỆT Băng, ngưng NGHĨA VIỆT Băng, đóng băng, ngưng tụ TỪ GHÉP băng hà 冰河, băng dương 冰洋. Ngựa Hồ gió Bắc, còn Chim Việt thì cành Nam để khuyên con cháu, nhất là con cháu của thế hệ thứ 3, lớn lên ở đất Mỹ phải nhớ về quê hương nguồn cội, và để chúng biết rằng: Con vật còn thế, huống chi là con người! Chữ BĂNG冰là một chữ hội ý kiêm hình thanh. Nếu hiểu là chữ hình thanh, chữ BĂNG 冰 có kết cấu trái phải, trong đó bộ BĂNG 冫bên phải biểu âm và bộ THỦY 水 (nước) bên trái biểu nghĩa. Bộ THỦY 水 biểu diễn các nghĩa vật chất có liên quan đến tính chất của nước, kết hợp với âm đọc của 冫 tạo nên chữ BĂNG 冰 với nghĩa là tảng băng , đóng băng. Nếu hiểu chữ BĂNG 冰 ở dang hội ý thì tính chất biểu ý của hai bộ thủ BĂNG và THỦY là chỉ dòng sông đóng băng. Điều này thể hiện rõ ở hình thể chữ kim văn và triện văn, chữ Băng được viết bao gồm một dòng sông, trên là những chấm, đường vân, thể hiện mặt sông đã đóng băng. 朋 HÁN VIỆT Bằng NGHĨA VIỆT Bạn, nhóm, cùng TỪ GHÉP bằng đảng 朋黨 • bằng hữu 朋友 • bằng môn 朋門 • bằng phụ 朋附. Chữ BẰNG朋trong thể loại giáp cốt là một dạng chữ tượng hình, được viết giống như hình một cái thang với hai hàng rất cân đối, một dạng tự hình khác vẽ hình một người đang dùng chiếc cân, hai đầu cân ở vị trí cân bằng. Chữ BẰNG 朋 sau này ở khải thư là một dạng chữ hội ý, được cấu tạo từ hai bộ giống nhau là bộ NGUYỆT 月 hoặc cũng thể hiểu là bộ NHỤC月(miếng thịt). Dù ở dạng nào thì hình thể chữ cũng biểu thị là: hai hay nhiều vật có điểm chung, hay giống nhau. Chữ BẰNG 朋vì thế có nghĩa chỉ bạn bè cùng trang lứa như BẰNG HỮU hay một nhóm nào đó có cùng điểm chung như trong từ BẰNG MÔN 貧 HÁN VIỆT Bần NGHĨA VIỆT Nghèo, bần, thiếu, túng,Lời nói nhún mình,… DẠNG KHÁC 贫 TỪ GHÉP bần cùng 貧窮 • bần dân 貧民 • bần đạo 貧道 • bần hàn 貧寒•bần tiện 貧賤… Thế nào là BẦN 貧 ? Trong chữ Bần cấu-tạo đến ba phần: trên là chữ bát 八 (bát là tám), kế đến là chữ đao 刀 (đao là dao dùng để cắt chặt ra); hai chữ này họp lại thành chữ phân 分 (phân là chia) dưới cùng là chữ bối 貝 (bối là đồng tiền) Có nghĩa rằng sở-dĩ nghèo là vì có nhiều tiền mà cứ phân phát ra cho thiên-hạ giống như ta có một cái bánh mà chia ra làm tám miếng thì tất nhiên nó sẽ nhỏ dần, do đó nghèo. Vì thế cái nghèo này là cái nghèo của những tâm hồn lớn, đạo-đức luôn nghĩ đến kẻ khác. Người tu nên học lấy “chữ Bần” của Thượng-Đế. 不 HÁN VIỆT Bất NGHĨA VIỆT Không, chẳng DẠNG KHÁC TỪ GHÉP bất biến 不變 • bất bình 不平 • bất bình đẳng 不平等 • bất cập 不及 • bất chính 不正. Chữ BẤT不trong tiếng Hán hiện đại được dùng với nghĩa là một phó từ phủ định, chỉ gồm bốn nét, dễ nhớ và dễ viết. Có lẽ bởi thế mà không mấy ai để ý đến tính chất biểu ý và quá trình chuyển hóa ý nghĩa của chữ hán này. Trong quá trình khám phá thế giới tự nhiên trong đó có chính mình, con người đã có những phát hiện rất tinh tế và những phát hiện đó có giá trị ứng dụng cáo trong đời sống xã hội. Trong thời tiền sử con người rất coi trong vấn đề sinh sôi, nảy nở. Những hành vi thực hiện chức năng sinh con đẻ cái ban đầu được coi là hành vi tự nhiên, diễn ra như các sinh hoạt bình thường. Về sau cùng với sự phát triển, ý thức về giới được hình thành, kéo theo hàng loạt những điều kiêng kị trong cuộc sống, đặc biệt trong sinh hoạt về giới. Người phụ nữ với vai trò làm mẹđã tham gia tích cực vào việc bảo toàn nòi giống. Người xưa đã quan sát chu kỳ hoạt động sinh lý của người phụ nữ và phát hiện ra trong kỳ kinh hàng tháng sẽ cấm kị việc sinh hoạt vợ chồng. Các học giả cho rằng, cấu tạo và hàm ý của chữ BẤT不gắn liền với những thay đổi trong cơ chế sinh lý diễn ra hàng tháng của người phụ nữ. Trong giáp cốt văn, phần trên giống hình tam giác cân lộn ngược, là biểu trưng của bộ phận sinh thực khí nữ. Ba nét ở phía dưới sau nay được cách điệu thành một net phảy, một nét sổ và một nét chấm dài, chính là biểu tượng kinh huyết tiết ra mỗi tháng một lần. Vì vậy nghĩa gốc của chữ BẤT 不 chỉ hiện tượng nữ giới đến kỳ kinh. Đó cũng là cảnh báo nhất thiết phải tạm dừng việc sinh hoạt giới trong thời gian này. Dần dần, BẤT 不 được dùng rộng rãi với nghĩa phủ định. Nghĩa gốc mất dần và do tính chất đơn thuần của một phó từ phủ định, người ta đã không cần thiết lưu tâm đến nguồn gốc của chữ BẤT 不 nữa. Thông qua việc tìm hiểu về nguồn gốc của chữ BẤT 不 cho chúng ta thấy được những nét văn hóa khác nhau trên những phương diện đời sống khác nhau, rất phong phú, đa dạng và đầy tính nhân văn của người xưa. 病 HÁN VIỆT Bệnh NGHĨA VIỆT Bệnh tật, ốm đau TỪ GHÉP bệnh căn 病根 • bệnh chứng 病症 • bệnh hoạn 病患 • bệnh nhân 病人 • bệnh tật 病疾. Chữ BỆNH病 là một chữ hình thanh, được hợp bởi 疒 và 丙 trong đó疒 (bệnh tật) là thành phần chỉ ý, còn BÍNH 丙 (can thứ 4 trong 10 thiên can) là thành phần chỉ âm đọc. Chữ NẠCH 疒miêu tả một người sốt cao nằm trên gường (xem lại chữ疒), kết hợp với âm đọc của 丙 tạo thành chữ BỆNH 病 với nghĩa chỉ bệnh tật, ốm đau. Ngoài ra có thể hiểu chữ病theo dạng chữ hội ý, 病bao gồm疒và丙. Chữ BÍNH丙có nguồn gốc miêu tả lại một cái bếp lửa, nghĩa gốc chỉ về lửa hay nhiệt độ , chữ疒như đã phân tích là bệnh tật. Tính chất hội ý của hai bộ thủ này là khi người ta bệnh thì cơ thể nóng như bếp lửa vậy. 皮 HÁN VIỆT bì NGHĨA VIỆT Da, bề ngoài, vỏ bọc TỪ GHÉP bao bì 包皮 • bì chỉ 皮紙 • bì chi 皮脂• biểu bì 表皮. Chữ BÌ 皮là một chữ hội ý, trong kim văn 皮 miêu tả một bàn tay đang lột da một con thú, chữ 皮 lúc đầu có nghĩa là lột da nhưng sau đó nó chủ yếu dùng với nghĩa là lớp da hay lớp vỏ ngoài của động vật. Ngoài ra, 皮 cũng dùng để chỉ vẻ bề ngoài của một người như trong từ “bì tướng” 皮相 bề ngoài, biểu diện, ngoại mạo. các cụm từ và thành ngữ về chữ bì nhiều vô kể tiêu biểu có: BIỂU BÌ 表皮 : là Lớp DA ở ngoài cùng nhất. THÚ BÌ 獸皮 : là DA của thú vật. THỌ BÌ 樹皮 : là VỎ của cây cối. THƯ BÌ 書皮 : là BÌA để bọc quyển sách lại. PHONG BÌ 封皮 : là BAO THƠ. là Cái Túi được dán kín. BÌ HÀI 皮鞋 : là Giày DA; BÌ CẦU 皮球 : là Trái banh DA; BÌ TIÊN皮鞭 : là Roi DA. Khi cô Kiều vừa vào đến lầu xanh, mụ Tú Bà đã phủ đầu bằng một trận ROI DA... ... Phải làm cho biết phép tao, Chập BÌ TIÊN rắp sấn vào ra tay! BÌ MAO 皮毛 : Da và Lông, chỉ bề mặt, bên ngoài. LƯỢC TRI BÌ MAO 略知皮毛 : Chỉ biết sơ về bề mặt bên ngoài, chưa đi sâu vào tìm hiểu bên trong. Chỉ biết sơ lược. TRỪU CÂN BÁT BÌ 抽筋剥皮 : là Rút Gân Lột Da; chỉ hình phạt tàn khốc ngày xưa; chỉ lòng căm thù sâu sắc, chỉ sự oán hận tột cùng. 釆 HÁN VIỆT Biện NGHĨA VIỆT Phân biệt DẠNG KHÁC 辨 TỪ GHÉP Bộ thủ chữ Hán Chữ BIỆN釆 là một chữ tượng hình miêu tả một dấu chân của loài thú để lại trên mặt đất. Người ta có thể phán đoán được nhiều thứ thông qua dấu chân loài thú để lại như:Giống loài, kích thước hướng đi,.. nghĩa gốc của釆 là “phân biệt”. Chữ釆 là một bộ thủ tạo chữ, cũng là dạng giản thể của chữ BIỆN phổn thể 辨. Ta có từ “biện biệt辨别” là phân biệt rõ ràng. Các chữ Hán được tạo từ 釆 tiêu biểu có chữ THÁI 采 (hái, ngắt); THÍCH 釋 (giải thích, làm rõ). 別 HÁN VIỆT Biệt NGHĨA VIỆT Khác nhâu, phân biệt, xa cách, chia ly TỪ GHÉP biệt danh 別名 • biệt đãi 別待 • biệt hiệu 別號 • biệt ly 別離 • biệt tài 別才 BIỆT là chữ hội ý, Giáp Cốt Văn BIỆT bao gồm bên trái là một con dao bên phải là hình ảnh của một đốt xương với ý nghĩa là : Dùng dao để lọc,tách phần xương ra khỏi thịt. Theo thuyết văn BIỆT là tách rời ra sau đó phát triển thêm các nghĩa PHÂN BIỆT hay CÁCH LY. Các cụm từ và thành ngữ liên quan đến chữ BIỆT tiêu biểu có: CÁ BIỆT : không giống ai, Riêng từ cái, từng người, không lẫn lộn BIỆT PHÁI : Nhánh họ hàng khác cùng tổ tiên. Xưa chỉ học phái khác với nho gia. THIÊN SAI VẠN BIỆT 千差万别: Một trời một vực. chỉ sự khác biệt rất lớn. Giống với "một trời một vực" trong tiếng Việt. BIỆT NGÔN CHI QUÁ TẢO 别言之过早: Nói trước bước không qua hay “ba mươi chưa phải là tết”.  兵 HÁN VIỆT Binh NGHĨA VIỆT Binh lính TỪ GHÉP âm binh 陰兵 • bãi binh 罷兵 • binh biến 兵变 • binh biến 兵變 • binh bộ 兵部• binh chủng 兵种. Chữ BINH về cấu tạo là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bao gồm phía trên là bộ CÂN 斤 (cây rìu) và ở dưới là chữ CỦNG廾 (đôi tay chắp lại). Tính chất biểu ý của chữ BINH là chỉ đôi tay đang cầm vũ khí. Trong kim văn và triện văn chữ BINH được viết dưới dạng đôi bàn tay đang cầm một thứ gì đó giống như xương thú, điều này cũng lý giải việc người xưa đã từng dùng xương thú làm vũ khí chiến đấu và săn bắn. Hình ảnh chiếc xương thú trong chữ BINH biến đổi dần và thay thế bằng chữ CÂN như ngày nay. Vậy tại sao đôi bàn tay cầm vũ khí lại thể hiện là một binh sĩ ?. Bởi lẽ người xưa quan niệm, còn sống là phải chiến đấu, phải cầm chắc vũ khí trong tay không được buông bỏ vũ khí. Người lính phải là người có bản lĩnh, dám đối chọi với kẻ thù, không chịu khuất phục hay đầu hàng. 平 HÁN VIỆT Bình, biền NGHĨA VIỆT Bằng nhau TỪ GHÉP bất bình đẳng 不平等 • bình an 平安bình dân 平民 • bình địa 平地. Chữ BÌNH平 là một dạng chữ chỉ sự. Được tạo nên từ bộ CAN干 (hệ can có 10 thiên can) và thêm hai nét hai bên rất cân đối. Trong kim văn chữ 平 mô tả một cái cân ở trạng thái thăng bằng với một số đồ vật ở hai bên. Nghĩa ban đầu của 平 là bằng nhau hay bình đẳng, 平cũng có nghĩa là bình thản hay bình yên. Các cụm từ và thành ngữ đi liền với BÌNH平 tiêu biểu có: BÌNH MINH 平明 để chỉ lúc Trời Vừa Rựng Sáng. THÁI BÌNH 太平Cuộc sống bình yên ấm no. BẤT BÌNH ĐẲNG : không công bằng. BÌNH BỘ THANH VÂN 平步 青 雲 là Bước bằng phẳng trên mây xanh, ta nói là Nhẹ Bước Thang Mây, là Thanh Vân Đắc Ý, ngày xưa thường dùng để chỉ khi Thi Đậu. LỘ KIẾN BẤT BÌNH 路見不平: là "Đi trên đường mà thấy chuyện bất bình." Đây chỉ là một vế của câu nói: Lộ Kiến bất bình, bạt đao tương trợ 路見不平,拔刀相助. Có nghĩa : "Đi trên đường mà thấy chuyện bất bình, thì rút dao ra mà giúp đỡ nhau." Đây là tinh thần hiệp nghĩa của các hiệp sĩ thời xưa mà ta thường thấy trong các truyện võ hiệp kỳ tình. HOA KHAI PHÚ QUÝ, 花開富貴, TRÚC BÁO BÌNH AN. 竹報平安。 Có nghĩa : Hoa nở đẹp tượng trưng cho sự phú quý, và Trúc xanh tốt quanh năm tượng trưng cho sự bình an.   丙 HÁN VIỆT Bính NGHĨA VIỆT Can thứ 3 trong 10 thiên can, bộ bính (trong 214 bộ thủ), lửa TỪ GHÉP bính dạ 丙夜 • bính đinh 丙丁 • bính xá 丙舍 Chữ BÍNH 丙 là một chữ tượng hình mô tả một lò sưởi với một ngọn lửa đang cháy. Ý nghĩa ban đầu của 丙là độ sáng hay lửa (Các nhà tu luyện xưa cho can bính thuộc hành hoả, nên có nghĩa là lửa, như PHÓ BÍNH付丙 nghĩa là cho lửa vào đốt). Nhưng ý nghĩa như vậy sau đó đã được thay thế bằng BÍNH昺 và BÍNH炳. Mặt khác, thân cây có thể cháy được, có thể được sử dụng làm củi đốt, vì vậy 丙cũng có nghĩa là thân cây, nghĩa này cũng đã được thay thế bằng chữ柄. Hiện nay 丙 chỉ có nghĩa là can thứ ba trong mười thiên can sau ẤT乙, vì lẽ cây sẽ kéo dài thân (một trong những ý nghĩa ban đầu của 丙) và phát triển cao lớn sau khi nó bị chôn vùi (có mối liên hệ với chữ ẤT乙). 步 HÁN VIỆT Bộ NGHĨA VIỆT Bước, đi, đơn vị đo DẠNG KHÁC 歩 TỪ GHÉP bộ binh 步兵 • bộ đạo 步道 • bộ đầu 步頭 • bộ điệu 步調 • bộ pháp 步法 • bộ phạt 步伐. Chữ BỘ步là một chữ hội ý có kết cấu trên dưới, bao gồm phía trên là bộ CHỈ止(bàn chân, dừng lại) và phía dưới là𣥂 thực chất cũng là một dạng thể khác của止 được viết lật lại. Hình ảnh đôi bàn chân đối nhau biểu thị một trái và một phải, chữ步 miêu tả bước đi của một người nào đó. Lúc đầu 步 có nghĩa là bước, 步cũng được dùng để chỉ việc đi bộ, ngoài những ý nghĩa này 步 còn được dùng làm đơn vị đo rất phổ biến thời xưa. 部 HÁN VIỆT Bộ, bẫu NGHĨA VIỆT Phần, bộ phận TỪ GHÉP bách bộ xuyên dương 百部穿楊• bộ đội 部隊 • bộ môn 部門 • bộ phận 部分 • cán bộ 干部 • cán bộ 幹部 • BỘ 部cũng viết là 郶 là chữ thuộc dạng Hình Thanh, chữ bao gồm bên trái là PHÔI 咅chỉ âm đọc kết hợp với bên phải là ẤP邑 (⻏) chỉ ý. Chữ ẤP 邑 vốn nghĩa là một vùng đất riêng biệt (phía trên chữ là bộ VI 囗là tường thành ngăn cách) là nơi tập trung nhiều người ở có tổ chức hẵn hoi nênBỘ 部là PHẦN, là một phần của TOÀN BỘ 全部, là BỘ PHẬN 部分. ĐẦU BỘ 頭部 là Phần Đầu, PHÚC BỘ 腹部 là Phần Bụng. NỘI BỘ 內部 là Phần trong, NGOẠI BỘ 外部 là Phần ngoài... BỘ còn là đơn vị được thiết lập bởi cơ quan nhà nước, xí nghiệp hay một tổ chức, như NGOẠI GIAO BỘ 外交部 là Bộ Ngoại Giao, QUẢNG CÁO BỘ 廣告部 là Bộ phận Quảng cáo, KẾ TOÁN BỘ 計算部 là Bộ phận Kế Toán, BỘ ĐỘI 部隊 là Đơn vị Bộ Binh... BỘ còn có nghĩa là Quyển Vở, gọi là BỘ TỬ 部子. TIỆN DỤNG BỘ 便用部 : là Sổ ghi chép, Vở nháp. BỘ là cấp dưới phụ thuộc, như BỘ HẠ 部下, BỘ TƯỚNG 部将, BỘ THUỘC 部属, BỘ LẠC 部落 ... BỘ là Mạo Từ, như NHỨT BỘ TIỂU THUYẾT 一部小說 là Một Bộ Tiểu Thuyết, NHỨT BỘ ĐIỆN ẢNH 一部電影 là Một Bộ Phim, NHỨT BỘ XA 一部車 là Một Chiếc Xe ... 貝 HÁN VIỆT Bối NGHĨA VIỆT Vỏ sò, vật quý, tiền,… DẠNG KHÁC 贝 TỪ GHÉP bảo bối 寶貝 • biên bối 編貝. Khi nói về chữ BỐI 贝(vỏ sò), “Thuyết văn” viết: “Bối, hải giới trùng dã. Cư lục danh tiêu, tại thuỷ danh hàm, tượng hình.” (Bối chính là loài vật sống dưới biển, ở trên cạn có tên là tiêu, ở dưới nước có tên là hàm, chữ 贝 bối là chữ tượng hình) BỐI贝(vỏ sò) vốn là danh từ chỉ một loại động vật thân mềm sống ở biển Nam Hải. Vỏ của nó cứng và dẹp. Do mở rộng về phạm vi trao đổi, BỐI贝(vỏ sò) dần dần được du nhập đến khu vực Trung Nguyên. Ban đầu, vỏ sò dùng làm đồ trang sức được mọi người yêu thích. Thương mại cổ đại ban đầu chỉ giới hạn ở phương thức lấy vật phẩm đổi vật phẩm. Về sau, cùng với sự phát triển của hoạt động thươngmại, tất yếu có sự phá vỡ những ràng buộc về phương thức trao đổi sản phẩm trực tiếp này, cần có vật môi giới trong giao dịch, tức loại hàng hoá thứ ba. Mác nói: “Loại hàng hoá thứ ba này do trở thành vật ngang giá của các loại hàng hoá khác, nên nó trực tiếp có được hình thức ngang giá thông thường hoặc mang tính xã hội”. Hình thức này sẽ thay thế hoặc tạm thời do loại hàng hoá này hay hàng hoá khác đảm nhận. Nhưng cùng với sự phát triển trong trao đổi hàng hoá, hình thức này cũng chỉ cố định trên một số hàng hoá ở một số chủng loại nhất định, hoặc nó kết tinh thành hình thức tiền tệ.” (“Tư bản luận” quyển 1). Trước khi Trung Quốc cổ đại lấy vỏ sò làm tiền tệ, nhiều sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủ công nghiệp đều có thể đảm nhận vai trò của loại hàng hoá thứ ba, nhưng cuối cùng chỉ có vỏ sò mới trở thành tiền tệ cổ nhất của Trung Quốc. Ngoài nhu cầu khách quan cần phát triển thương nghiệp ra, còn bởi vỏ sò có đủ điều kiện để trở thành tiền tệ: trước tiên nó là sản phẩm từ biển, không dễ có được nó, giá trị của nó tương đối cao; thứ hai là thể tích của nó khá nhỏ, trọng lượng nhẹ, cứng chắc và bền, thuận tiện cho việc tính toán và lưu thông. Sự ra đời và phát triển của chữ Hán có thể chứng minh Trung Quốc cổ đại đã từng lấy vỏ sò làm tiền tệ. Trong “Thuyết văn - Bối bộ” đã thu thập được 56 chữ có liên quan đến của cải, hàng hoá, như 财tài (tài sản, tiền của),贾 cổ (buôn bán),资 tư (vốn, tư bản),贡 cống (cống nạp),赐 tích (ban tặng)… Sự thực này chứng tỏ, lịch sử mà vỏ sò được coi là loại tiền tệ duy nhất của Trung Quốc cổ đại là một thời kỳ tương đối dài. Như chúng ta đã biết, các loại tiền tệ kim loại thời kỳ đầu xuất hiện vào cuối đời nhà Thương. Vỏ sò bắt đầu được sử dụng làm tiền tệ còn sớm hơn cả thời kỳ này. Ngay từ thời nhà Hạ, vỏ sò đã trở thành tiền tệ sử dụng trong dân gian. Ban đầu, tiền tệ bằng vỏ sò được lưu thông chỉ là loại vỏ sò biển thiên nhiên, sau này có thêm các loại sò xương, sò đá, sò đồng được mô phỏng theo vỏ sò thiên nhiên. Sau thời Thương, Chu, sò được lưu thông, đồng hành cùng các loại tiền tệ kim loại. Cho đến khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, nó mới ngừng lưu thông và mất đi chức năng tiền tệ. Cùng với sự ra đời của tiền tệ kim loại, địa vị của vỏ sò ngày một hạ thấp, cuối cùng bị thay thế hoàn toàn bởi tiền tệ kim loại. Trong quãng thời gian từ Thương Chu cho đến Chiến Quốc, những chữ Hán có nghĩa liên quan tới tài sản của cải vẫn lấy BỐI贝làm ký hiệu biểu ý, mà không lấy KIM金(kim loại) làm ký hiệu biểu ý. Điều này chứng tỏ, vỏ sò đã được dùng làm tiền tệ, cũng là kí hiệu biểu trưng cho tài sản, của cải. Sự xuất hiện của tiền tệ đã làm thay đổi phương thức giao dịch nguyên thuỷ lấy vật phẩm đổi vật phẩm, là một sự thay đổi lớn của hoạt động thương mại, đánh dấu bước tiến bộ vượt bậc của xã hội loài người. Trong sự ra đời và phát triển của văn hoá tiền tệ, vỏ sò đóng một vai trò vô cùng quan trọng. 奔 HÁN VIỆT Bôn, phẫn NGHĨA VIỆT Chạy vội, vội vàng TỪ GHÉP bôn ba 奔波• bôn lưu 奔流 • bôn mệnh 奔命 • bôn phong 奔蜂 • xuất bôn 出奔. Chữ BÔN 奔 là một chữ hội ý, bao gồm ĐẠI (lớn) và 卉, 卉 ở đây thực sự là dạng đơn giản của ba chữ CHỈ 止 (bàn chân). Chữ大 mô tả một người đàn ông dang tay, trong khi 止 mô tả một bàn chân (xem kim văn và bài phân tích chữ止), vì vậy奔là hình ảnh một người duỗi tay và chạy, anh ta chạy rất nhanh như thể anh ta có ba chân. Người ta hay nói “ba chân bốn cẳng” với ý nghĩa chỉ sự vội vã của một người, nên chữ奔có nghĩa là vội vã, vội vàng. Ta có thành ngữ: ĐÔNG BÔN TÂY TẨU 東奔西走: là Chạy đông chạy tây, ta nói là Chạy ngược chạy xuôi, chỉ sự vất vả để lo toan một việc gì đó. 筆 HÁN VIỆT Bút NGHĨA VIỆT Cây bút, cây viết TỪ GHÉP bút danh 筆名 • bút hoạ 筆畫 • bút hội 筆會 • bút kí 筆記 • bút tích 筆跡 • bút toán 筆算 • Chữ BÚT筆là một chữ hội ý, bao gồm bêntrên là bộ TRÚC ⺮ (tre, trúc), bên dưới là bộ DUẬT聿(cây bút). Trước đây để chỉ cây bút người ta vẫn dùng聿, bản thân chữ聿đã mang nghĩa là cây bút. Bộ ⺮ được thêm vào để nhắn mạnh chất liệu làm ra cây bút là tre, thời xưa hầu hết các loại bút ở trung quốc đều làm bằng chất liệu tre trúc. 個 HÁN VIỆT Cá NGHĨA VIỆT Con, cái, quả,… DẠNG KHÁC 个 TỪ GHÉP cá biệt 個別 • cá nhân 個人 • cá • cá thể 個體 • cá tính 個性. Chữ CÁ 個 về mặt cấu tạo là một chữ hình thanh kết cấu trái phải. Trong đó bộ NHÂN (người) có nhiệm vụ biểu thị ý nghĩa, chữ CỐ固 (kiên cố, xem lại chữ “cố”) bên phải cũng là một chữ hình thanh có tác dụng biểu thị âm đọc của chữ. Ở chữ giản thể chữ CỐ个 bao gồm bộ NHÂN亻 bên trên và một nét xổ từ trên xuống, với ngụ ý , mỗi người đều là một thực thể riêng biệt, có những đặc điểm dùng để phân biệt với người khác, không ai giống ai. Dùng song song với CÁ個nhưng ở mức độ ít gặp hơn là chữ箇 , về cấu tạo, ý nghĩa , âm đọc và cách dùng thì giống với chữ CÁ個. 革 HÁN VIỆT Cách, cức NGHĨA VIỆT Da thuộc, thay đổi, xóa bỏ TỪ GHÉP cách chức 革職 • cách cố đỉnh tân 革故鼎新• cách diện tẩy tâm 革面洗心 • cách mệnh 革命 • cách tân 革新 • cải cách 改革 CÁCH 革 là chữ tượng hình, trong cổ văn chữ CÁCH 革 miêu tả một con thú bị mổ phanh ra, phía trên là da đầu, phần dưới là da 2 bên sườn, phần cuối là đuôi, nên: CÁCH là Da Thú đã được Thuộc, là đã cạo sạch lông. Ta có các từ như CÁCH NANG 革囊 là Túi Da, CÁCH LÝ 革履 là Giày Da, CÁCH ĐÁI 革帶 là Dây nịch bằng Da ... Vì DA còn được dùng làm bao đựng gươm đao, để bọc thuyền, bọc xe... phục vụ cho chiến tranh nên ta có từ BINH CÁCH 兵革 dùng để chỉ Chiến Tranh như từ BINH NHUNG 兵戎, BINH HỎA 兵火 hay CAN QUA 干戈 vậy. Khi Kiều khuyên Từ Hải quy hàng, làm cho Từ Hải phải chết đứng giữa trận tiền, thì Hồ Tôn Hiến đã an ủi Thúy Kiều là: Rằng: "Nàng chút phận hồng nhan, Gặp cơn BINH CÁCH nhiễu nàn cũng thương, Đã hay thành toán miếu đường, Góp công cũng có lời nàng mới nên!" CÁCH 革 còn có nghĩa là CẢI BIẾN 改變 là Thay đổi, ta nói là CẢI CÁCH 改革; là Thay cũ đổi mới, ta gọi là CÁCH TÂN 革新; từ đó ta có từ CÁCH MỆNH 革命 là Thay đổi vận mệnh của con người, của xã hội. CÁCH MỆNH còn theo thói quen đọc là CÁCH MẠNG, có nghĩa là Thay đổi về Tư Tưởng, về Tư Duy, về Khoa Học Kỹ Thuật... Nghĩa rộng rãi và lớn nhất của CÁCH MẠNG là Thay đổi cơ cấu xã hội hoặc Thay đổi cả một Chế độ của xã hội đó. CÁCH 革 còn có nghĩa là Tước Bỏ, Xóa Bỏ, như CÁCH CHỨC 革職, CÁCH CỐ ĐĨNH TÂN 革故鼎新 là Xóa bỏ cái cũ củng cố cái mới. Cuối cùng, CÁCH 革 là Một trong Bát âm của Âm nhạc cổ truyền được thể hiện qua cái Trống bọc bằng Da. 改 HÁN VIỆT Cải NGHĨA VIỆT Thay đổi, sửa đổi TỪ GHÉP cải biến 改变 • cải biên 改編 • cải chính 改正 • cải giáo 改教• cải hoán 改換. Chữ CẢI改là một chữ hội ý có kết cấu trái phải, bao gồm己 (người) và 攵(đánh khẽ). Trong cổ văn chữ 改 mô tả một em bé đang quỳ gối, bên cạnh là hình ảnh một bàn tay đang cầm roi đánh. Từ xưa, phương pháp giáo dục tại các nước châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hong Kong, Đài Loan… đều là “Côn bổng để hạ xuất hiếu tử” (dưới roi vọt thì có con ngoan). đối với những đứa trẻ ngỗ nghịch và ngang ngạnh, biện pháp hữu hiệu nhất là dùng đến đòn roi để bắt chúng phải sửa đổi lỗi phạm. Nhìn một cách bao quát hơn, hình ảnh ngọn roi và người quỳ gối không chỉ đơn thuần được hiểu là cách dạy trẻ con biết nghe lời, nó cũng có thể dược hiểu là hình thức răn đe hay hình phạt dành cho phạm nhân để giúp họ biết ăn năn hối cải. Ngày nay, với sự thay đổi trong cách nhìn nhận lựa chọn phương pháp giáo dục conngười, hìnhthức răn đe bằng vũ lực hay đòn roi được cho là dã man và kém văn minh. Tuy nhiên, ở một chừng mực nào đó phương pháp giáo dưỡng này cũng có hiệu quả nhất định của nó. 甘 HÁN VIỆT cam NGHĨA VIỆT Ngọt, chịu TỪ GHÉP bất cam 不甘 • cam kết 甘結 • cam lộ 甘露• cam tâm 甘心 • cam thảo. Chữ CAM甘là một chữ tượng hình mô tả một cái miệng với một viên kẹo ở bên trong. Khi chúng ta đã ăn thứ gì đó ngọt ngào trong miệng, chúng ta muốn giữ chúng trong miệng lâu hơn, vì vậy, CAM甘ngoài nghĩa là ngọt ngào còn có nghĩa là sự chịu, hay cam tâm. Ngày nay, chữ CAM甘 ngoài chức năng là chữ đơn cấu tạo từ ghép , nó còn có vai trò là bộ thủ tạo chữ hán. CAM 甘 là NGỌT, nghĩa phát sinh là Cam Tâm, Cam Chịu, là Chấp Nhận, như ta thường nói là: CAM TÂM TÌNH NGUYỆN 甘心情願, chớ không có ai ép buộc gì cả ! (Câu này người Hoa nói là TÂM CAM TÌNH NGUYỆN 心甘情願 ). ĐỒNG CAM CỘNG KHỔ 同甘共苦 : là Cùng Ngọt Cùng Đắng với nhau. Ta nói là : Cùng nhau Chia Ngọt Xẻ Bùi. Nhắc đến "Ngọt Bùi" lại nhớ đến 2 câu thơ của Nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài " Khóc chồng làm Thầy Thuốc " là : ... Ngọt bùi thiếp nhớ mùi Cam thảo, Cay đắng chàng ơi vị Quế chi!... CAM LỘ 甘露 : là Những giọt sương ngọt, chỉ Loại nước trong Tịnh bình của bà Quan Âm có thể cứu khổ cứu nạn, cải tử hồi sinh... Trong Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu : Khát thời nhất trích như CAM LỘ, 渴時一滴如甘露, Tuý hậu thiêm bôi bất như vô! 醉後添杯不如無! Có nghĩa : Lúc khát thì một giọt nước cũng quý như là nước CAM LỘ vậy. Sau khi say rồi ( đã uống tới đã chứng rồi !) có uống thêm một ly nữa thì cũng như không mà thôi ! 敢 HÁN VIỆT Cảm NGHĨA VIỆT Dũng cảm TỪ GHÉP bất cảm 不敢 • cảm tử 敢死 • dũng cảm 勇敢 • đa cảm 多敢 • quả cảm 果敢 Chữ CẢM (敢, gǎn) có nghĩa dũng cảm, gan dạ là một chữ hội ý kết cấu trái phải. Trong giáp cốt văn 敢 mô tả rõ ràng đôi bàn tay đang cầm vũ khí chiến đấu với thú dữ. Hình thể chữ có sự thay đổi lớn bắt đầu từ kim văn, đến ngày nay 敢 là một chữ hội ý bao gồm bên trái là bộ phản văn (bộ Phộc) có nghĩa là “đánh” và bên phải trông giống như hình thù con hổ với đầy đủ đầu, đuôi, chân và vết vằn ở phần thân. Chữ CẢM gần nghĩa với chữ DŨNG (勇), ghép lại thành “dũng cảm” chỉ những người can đảm, dám đương đầu với khó khăn nguy hiểm, là những người có nghĩa khí sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. Người xưa coi trọng chữ Dũng nhưng không tán thưởng cái dũng của kẻ thất phu, những người hữu dũng vô mưu, mà luôn tôn sùng người biết kết hợp “trí, nhân, dũng”. Trong “Luận Ngữ”, Khổng cho rằng: “Quân tử chi đạo hữu tam: nhân giả bất ưu, tri giả bất hoặc, dũng giả bất cụ”, tức là có ba đạo của người quân tử: Người nhân đức luôn lạc quan vui vẻ, hiểu rõ sự đời mà không có ưu phiền, người thông minh và có trí huệ thì không bị mê hoặc hay dụ dỗ, người dũng cảm thì trong tâm không sợ hãi. Trong tư tưởng của mình, Khổng Tử xem “trí, nhân, dũng” là một thể thống nhất không thể phân tách. Trong ba phẩm chất này thì “nhân” là trung tâm, “trí” là trí nhân (có trí tuệ và nhân nghĩa), “dũng” là hành nhân (có hành động dũng cảm và nhân nghĩa). Vì vậy, “Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả bất tất hữu nhân”. Vì lòng dũng cảm chân chính phải được sinh ra từ lòng nhân nghĩa, do đó người có lòng nhân nghĩa chắc chắn sẽ dũng cảm, còn người không ngại xông lên chưa chắc đã có nhân nghĩa. “Dũng” chân chính phải là cái dũng của người nhân nghĩa, là cái dũng của người có mưu trí chứ tuyệt đối không phải là cái dũng của kẻ thất phu. Về cái dũng của kẻ thất phu và cái dũng của người mưu trí, trong “Luận ngữ – Thuật nhi” có đoạn như sau: Tử Lộ hỏi: “Nếu bây giờ thầy dẫn ba quân tác chiến, thầy sẽ chọn ai làm trợ thủ?” Khổng Tử trả lời: “Người tay không mà đánh hổ, chân đất mà qua sông, chết mà không hối tiếc, ta không thể cho đi cùng. Phải là người gặp sự việc mà biết cẩn thận suy nghĩ, giỏi vạch kế hoạch để hoàn thành nhiệm vụ mới có thể đi cùng ta được”. Khổng Tử không muốn cùng thống lĩnh quân đội với người “tay không đánh hổ, chân đất qua sông, chết không hối tiếc”, vì theo ông, loại người này mặc dù coi thường cái chết nhưng là người “hữu dũng vô mưu”, dễ mắc sai lầm. “Dũng” là một phẩm hạnh, nhưng dũng cảm không phải là ỷ mạnh làm càn, mà là người trí dũng song toàn “gặp việc lớn mà không sợ, giỏi mưu kế mà hoàn thành được việc”. 干 HÁN VIỆT Can, cán NGHĨA VIỆT Phạm đến, khô hạn, hàng can (10 ngôi) TỪ GHÉP bị can 被干 • can án 干案 • can chi 干支 • can dự 干與 • can phạm 干犯 • can qua 干戈. Chữ CAN干là một chữ tượng hình. Nguồn gốc chữ miêu tả một cái chày. Người Trung Quốc cổ đại sử dụng chày làm vũ khí, vì vậy干 cũng có nghĩa là sự kháng cự, nhưng ý nghĩa như vậy đã được thay thế bằng chữ扞. Sau này được hiểu với nghĩa là hàng can (thiên can). Chữ 干 trong vai trò chữ đơn có nghĩa rất khác so với nghĩa gốc, nó có nghĩa là phạm đến như trong từ CAN PHẠM干犯 hay như nghĩa cầu, muốn như trong từ CAN LỘC干祿 (cầu bổng lộc). Một âm khác là “cán” với nghĩa là cán bộ hay tài giỏi như CÁN SỰ干事;TÀI CÁN才干. Mặt khác, cả CAN 干và QUA 戈đều là binh khí sử dụng để chiến đấu, nên cả hai chữ này cũng đại diện cho nghĩa là chiến tranh như trong từ CAN QUA干戈 (chỉ việc binh đao, hay chiến tranh).   景 HÁN VIỆT Cảnh NGHĨA VIỆT Cảnh vật DẠNG KHÁC 晾 TỪ GHÉP bối cảnh 背景 • cảnh ngộ 景遇 • cảnh ngưỡng 景仰 • cảnh sắc 景色. Mặt trời lên báo hiệu một ngày mới bắt đầu, xóa đêm đen dày đặc. Chính ánh sáng mặt trời khiến người ta tri nhận được đường nét, màu sắc và hình hài sự vật. Chân lý đó thể hiện ngay trong cấu tạo chữ CẢNH景 (phong cảnh). Chữ CẢNH景vừa là chữ hình thanh vừa là hội ý. Được hợp bởi phía trên là chữ NHẬT日 (mặt trời) là thành phần biểu nghĩa, phía dưới là chữ KINH京 (kinh thành) là thành phần có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. Bộ NHẬT 日biểu thị ý nghĩa, dưới ánh mặt trời vạn vật đều hiện hình, con người có thể tri nhận bằng mắt. Dưới là chữ KINH 京 là kinh thành, nơi đông đúc, với ý nghĩa là nơi diễn ra các hoạt động sống thường ngày của con người. Tính chất hội ý của chữ 景 lúc đầu là cảnh sống , sau này bao hàm luôn nghĩa CẢNH VẬT, PHONG CẢNH,.. 高 HÁN VIỆT cao NGHĨA VIỆT Cao, kiêu, đắt, thanh cao, cao thượng,… TỪ GHÉP cao cấp 高級cao cường 高強cao đài 高臺, cao đẳng 高等 • cao đình 高亭 • cao độ 高度 • Chữ CAO高là một chữ tượng hình mô tả lại một ngôi nhà cao lớn, nhiều lầu, được xây dựng trên một nền đất rộng và cao. Chữ CAO高ngoài vài trò là chữ đơn tạo từ ghép, nó còn là bộ thủ tạo chữ xuất hiện tương đối thường xuyên. CAO 高 tiếng Nôm cũng là Cao, như CAO LÂU 高樓 là Lầu Cao. CAO LÂU còn có nghĩa là Nhà Hàng, Ở Phố Cổ Hội An, đi ăn Cao Lâu là Đi ăn nhà hàng. CAO còn là: THIÊN CAO 天高 là Trời Cao, THIÊN CAO ĐỊA QUÝNH 天高地迥 là Trời Cao Đất Xa, ta nói là "Trời Cao Đất rộng", như trong bài "Đằng Vương Các tự" Vương Bột đã viết: THIÊN CAO địa quýnh, giác vũ trụ chi vô cùng; 天高地迥, 覺宇宙之無窮; Hứng tận bi lai, thức doanh hư chi hữu số. 興盡悲來,識盈虛之有數. Có nghĩa : Ngắm Trời cao đất rộng, mới cảm nhận được vũ trụ là vô cùng; Hết vui sẽ tới buồn, để biết được rằng đầy vơi đều có số cả! CAO SƠN 高山 là Núi Cao, CAO SƠN LƯU THỦY 高山流水 là Núi Cao Nước Chảy, chỉ cảnh đẹp của thiên nhiên với núi non hùng vĩ, suối nước nên thơ, như 2 câu thơ chữ trong bài hát nói "Nhân sinh thắm thoát" của Cao Bá Quát : Cao sơn lưu thuỷ thi thiên trục, 高山流水詩千柚, Minh nguyệt thanh phong tửu nhất thuyền. 明月清風酒弌船. Có nghĩa : Núi cao nước chảy thơ ngàn quyển, Gió mát trăng thanh rượu một thuyền! CAO 高 còn chỉ các thứ bậc bên trên, thứ bậc tốt, như CAO CẤP 高級, CAO ĐẲNG 高等, CAO HỌC 高學 ... CAO 高 là chất lượng trình độ vượt trội, như CAO CHẤT LƯƠNG 高質量, CAO THỦ 高手, CAO HỨNG 高興 (rất vui vẻ)... CAO 高 còn là từ lịch sự, khách sáo khi chỉ cái gì đó của người khác, như: CAO KIẾN 高見 : Ý kiến của người khác, không biết có CAO thiệt hay không, nhưng phép lịch sự thì phải nói thế, còn ý kiến của mình thì nói là THIỂN Ý 淺意 là Ý kiến Nông cạn. CAO LUẬN 高論 : Chỉ Lý Luận của người khác, còn Lý luận của mình thì nói là NGU LUẬN 愚論 là Lý luận ngu dốt của tôi. CAO ĐƯỜNG 高堂 : là Phép lịch sự để gọi Cha Mẹ của người khác, còn có thể thêm một chữ LỆNH 令 ở phía trước nữa cho thêm trịnh trọng là LỆNH CAO ĐƯỜNG 令高堂 , còn tự xưng với người khác Cha Mẹ của mình thì gọi là GIA PHỤ MẪU 家父母. CAO ĐỒ 高徒 : là Đồ đệ giỏi, từ dùng để gọi Đồ Đệ của người khác, còn đồ đệ của mình thì gọi là TIỂU ĐỒ 小徒 là Thằng "trò nhỏ" của tôi, mặc dù nhiều khi nó đã là người lớn rồi. CAO 高 còn là từ chỉ phẩm chất tác phong đạo đức, như: CAO THƯỢNG 高尚 : là Lòng dạ rộng rãi, hiền hòa của kẻ cả. CAO NHà 高雅 : Lòng dạ tốt đẹp không vụ lợi. NHà là Đẹp. CAO KHIẾT 高潔 : KHIẾT là Sạch. Cao Khiết là Lòng dạ trong sạch không chút bợn nhơ tính toán. THANH CAO 清高 : THANH là Trong. Thanh Cao là rất trong sáng, giản dị, không so đo vật chất bên ngoài. CAO 高 còn chỉ Vai Vế trong dòng họ. CAO TỔ 高祖 là Ông Tổ đời thứ Tư trong THẤT TỔ 七祖 là:父、祖、曾、高、太、玄、顯 PHỤ, TỔ, TẰNG, CAO, THÁI, HUYỀN, HIỂN. Nói theo dân gian là : CHA, ÔNG NỘI, ÔNG CỐ, ÔNG SƠ. Mở đầu bài "Lậu Thất Minh" của Lưu Vũ Tích là 2 câu nói thật nổi tiếng của ông: 山不在高,有仙則名; Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh, 水不在深,有龍則靈. Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh. Có nghĩa : Núi không ở độ cao, hễ có tiên ở trên đó thì sẽ nổi tiếng; Nước không ở độ sâu, hễ có rồng ở dưới đó thì trở nên linh thiêng. CAO ĐƯỜNG PHÚ 高唐赋 : là bài Phú nổi tiếng của TỐNG NGỌC 宋玉 (Trước Công Nguyên 298-222). Một nhà chuyên về Từ và Phú ở cuối thời Chiến Quốc. Ông chẳng những là nhà học thuật tiếp nối Khuất Nguyên ở nước Sở mà còn là Một Trong 4 Người Đẹp Trai nhất thời cổ đại Trung Hoa. Cao Đường Phú là bài Phú ông viết kể lại chuyện ông cùng Sở Tương Vương dạo chơi ở Vân Mộng Đài trên Vu Sơn ngắm cảnh Cao Đường. Bài phú chủ yếu là tả cảnh, chỉ ở đoạn đầu dẫn nhập, ông có kể lại chuyện tiên vương của nước Sở ngày trước từng dạo chơi ở Cao Đường, trong giấc ngủ trưa ở đây, Vương đã mơ thấy một nữ nhân, tự xưng là Vu Sơn Thần Nữ, đến cùng Vương ân ái. Trước khi từ biệt có nói rõ rằng: "Thiếp ở phía Dương Đài của Vu Sơn, buổi sáng làm mây, buổi chiều làm mưa, cứ sáng sáng chiều chiều ở phía dưới Dương Đài nầy." Hôm sau, Vương quan sát thấy đúng như lời, bèn cho lập miếu thờ, gọi là Triêu Vân Miếu. Vì tích nầy mà ta có đến mấy thành ngữ như: CAO ĐƯỜNG THẦN NỮ 高唐神女 : là Thần nữ ở Cao Đường, còn được gọi Vu Sơn Thần Nữ 巫山神女, mà hễ nhắc đến là người ta đều nghĩ ngay đến một giới nữ rất dễ dãi về chuyện trai gái,chuyện quan hệ nam nữ một cách tự do thoải mái.   告 HÁN VIỆT Cáo NGHĨA VIỆT Báo cáo TỪ GHÉP báo cáo 報告 • bị cáo 被告 • bố cáo 布告 • cảnh cáo 警告• cáo biệt 告別. Chữ CÁO告là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bao gồm bên trên là bộ NGƯU牛 (con trâu) được giản thể bớt một nét, bên dưới là bộ KHẨU 口 (cái miệng). Chữ CÁO 告 xuất phát từ tập tục cúng tế thần linh. Nghi thức cúng tế được gói gọn trong cấu hình của chữ CÁO 告 bằng bộ NGƯU 牛 (con trâu) là lễ phẩm, bộ KHẨU 口 thể hiện ý nghĩa tấu trình, xin phép. Nghi thức đó sử dụng trong thủ tục hôn lễ của người xưa. Các cụm từ liên quan đến chữ CÁO告 tiêu biểu có : BÁO CÁO 報告: văn thư, nội dung trình lại những việc đã xảy ra ( Khác với BÁ CÁO). BÁ CÁO 播告 : Ta cũng nói là BỐ CÁO 布告:Nói cho khắp nơi đều biết. Không nên lầm với BÁO CÁO. CÁO GIÁC 播告 : báo cho biết việc xấu, việc chưa ai biết. CÁO PHÓ : báo việc tang, Báo tin người chết. Như CÁO TANG告喪. NGUYÊN CÁO : Người đứng ra kiện. Tương phản với BỊ CÁO被告là người bị tư kiện. BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO 平吳大告: Lời bố cáo với cả nước về việc vừa dẹp xong giặc Tàu, tên một bài văn hùng tráng của Nguyễn Trãi đời Lê. 吉 HÁN VIỆT cát NGHĨA VIỆT Tốt lành, tốt đẹp TỪ GHÉP cát địa 吉地 • cát khánh 吉慶 • cát tường 吉祥. Chữ CÁT吉 về mặt cấu tạo là một chữ hội ý có kết cấu trên dưới, bao gồm bên trên là chữ SĨ士 (người học thức) và bên dưới là bộ KHẨU口(cái miệng). Tính chất hội ý của hai bộ thủ này là kẻ có học thức thì nói lời lời hay ý đẹp. Trong hệ thống phân chia giai cấp và phân công lao động ngày xưa, ngoài vua chúa và quan lại triều đình là tầng lớp cai trị, ở lớp dưới bao gồm sĩ, nông, công, thương thì sĩ đứng đầu trong tầng lớp bị trị. Chứng tỏ ngày xưa, tầng lớp nho sỹ rất được người dân coi trọng. Kiến thức sâu rộng, nhân cách cách đạo đức được tu dưỡng khiến chọ họ, trong mắt những người dân lao động là người cao trọng và uyên bác. Chính vì vậy lời nói của họ khi nói ra như lời vàng ý ngọc. Ngày xưa , trong dân gian vẫn có tục cho chữ đầu xuân hay những dịp lễ hội. Người ta xin chữ để treo trong nhà, trước hết là tính thẩm mỹ, sau là cầu an, cầu tiền tài may mắn, hay chiêm nghiệm về cuộc sống. Những tập tục này đã giải thích cho cái gọi là lời hay ý đẹp của kẻ sĩ. 根 HÁN VIỆT căn NGHĨA VIỆT Gốc, nguồn, nền tảng TỪ GHÉP căn bản 根本 • căn cơ 根基 • căn cước 根腳 • căn nguyên 根源 • căn thâm đế cố 根深蒂固 • sơn căn 山根, trảm thảo trừ căn 斬草除根 • túc căn 宿根 • xỉ căn 齒根. CĂN根 thuộc dạng chữ Hình Thanh kết cấu trái phải, chữ bao gồm bên trái là bộ MỘC木biểu nghĩa và bên phải là CẤN 艮(cứng, bền) chỉ âm. MỘC木 là cây nên CĂN根 là một phần, một bộ phận của cây; CĂN nghĩa là gốc rễ, là phần dưới cùng của một cái cây,bộ phận giúp cây bám sâu và đứng vững trên nền đất. CĂN根trước nhất có nghĩa là THỌ CĂN樹根: tức là RỄ cây. Ta cũng có thành ngữ: LẠC DIỆP QUY CĂN落葉歸根ở ta hay nói là “lá rụng về cội”.Câu này vừa có ý muốn nói con người ta phải luôn nhớ về quê hương nơi mình sinh ra lại vừa có ýđây là bản chất của mỗi nhân sinh của chúng ta, nếu chúng ta trốn chạy một điều gì đó có nghĩa là chúng ta đang đau khổ, thế nên ta bình thản đón nhận những sự thật chân chất đúng nghĩa của nhân duyên. CĂN根 là phần gốc, phần dưới của một vật như: XỈ CĂN齒根 hay NHA CĂN 牙根đều có nghĩa là CHÂN răng. Nhưng…SƠN CĂN 山根 lại không phải là chân núi; đây làthuật ngữ trong tướng số, chỉ phần sống mũi ở khoảng giữa hai mắt. CĂN根 còn là nền tảng, nguồn gốc của vấn đề nào đó như HỌA CĂN 禍根nghĩa là nguồn gốc, nguyên cớ của tai họa, BỆNH CĂN 病根là nguyên nhân của bệnh. Ngoài ra ta còn có rất nhiều thành ngữ liên quan đến chữ CĂN根 nữa, tiêu biểu ta có: TRẢM THẢO TRỪ CĂN 斬草除根: Nghĩa là nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. ý nói trừ khử nguồn gốc họa hoạn, không để lại hậu hoạn. CĂN THÂM ĐẾ CỐ 根深蒂固 : tức là gốc rễ ăn sâu, không dễ lay chuyển. Thường dùng để chỉ những quan niệm lạc hậu, thói hư tật xấu đã ăn sâu vào tư tưởng không dễ gì thay đổi được. 锦 HÁN VIỆT Cẩm NGHĨA VIỆT Gấm, đẹp, lộng lẫy DẠNG KHÁC 錦 TỪ GHÉP cẩm bào 錦袍 • cẩm nang 錦囊 • cẩm nhung 錦絨 • cẩm thạch 錦石, cẩm y vệ 錦衣衛. Chữ CẨM锦là một chữ Hội Ý kết cấu trái phải, gồm bộ KIM 金 (vàng) và bộ BẠCH帛 (lụa) hợp thành. Vốn dùng để chỉ một loại sản phẩm dệt từ tơ lụa có màu sắc và hoa văn đẹp mắt. Gấm là sản phẩm dệt quý nhất ở thời cổ đại của Trung Quốc, nó được kết thành từ các sợi tơ màu, bao gồm nhiều hình vẽ hoa văn phong phú. Chữ CẨM là chữ hình thanh lấy BẠCH 帛 (lụa) làm ký hiệu biểu ý , chữ KIM金biểu âm. Bản thân chữ KIM金cũng biểu thị ý nghĩa là sự sặc sỡ, sang trọng của sản phẩm gấm. 巾 HÁN VIỆT cân NGHĨA VIỆT Bộ cân (214), khăn TỪ GHÉP diện cân 面巾 • đầu cân 頭巾 • ô cân 烏巾 • quan cân 冠巾 • quan cân 綸巾 • thủ cân 手巾. Chữ CÂN巾Mô tả một chiếc khăn trang trí, những chiếc khăn này sẽ được dùng trong nghi lễ hiến tế hoặc nghi lễ khác ở Trung Quốc cổ đại, nó có cùng nguồn gốc với chữ THỊ市.Chữ CÂN 巾 là một trong 214 bộ thủ trong chữ hán, được dùng khá thường xuyên với vai trò là thành phần tạo chữ hán mới. CÂN 巾 : là Cái Khăn. Dụng cụ dùng để lau, chùi, che, đội như: LA CÂN 羅巾 : là Khăn The, Khăn Là của phụ nữ ngày xưa. THỦ CÂN 手巾 : là Khăn Tay, là Mouchoir. LÃNH CÂN 领巾 : là Khăn Quàng Cổ. Thơ của Trương Du đời Tống, trong bài Tàm Phụ 蠶婦 (người phụ nữ chăn tằm) có câu : Quy lai lệ mãn CÂN 歸來淚滿巾! Có nghĩa : Quay về lệ đã đầy khăn HUỲNH CÂN 黃巾 : là Khăn Vàng HUỲNH CÂN LỰC SĨ 黃巾力士 : là Những ông Thần có sức mạnh vạn năng, cổ quấn Khăn Vàng, có thể di sơn đảo hải, được điều khiển bởi các Đạo Nhơn, Chơn Nhơn có pháp thuật cao cường. Những Ông Thần nầy giống như là những Ông Thần trong Cây Đèn Thần của truyện Một Ngàn lẻ Một Đêm vậy! Còn một Huỳnh Cân nổi tiếng "Quậy" nữa, đó là: HUỲNH CÂN TẶC 黃巾賊 : là Giặc Khăn Vàng nổi lên ở cuối đời Đông Hán, do Trương Gíac cầm đầu, tập hơp trên mười vạn quân, đầu bịt Khăn Vàng mà thành tên, chiếm Thái Nguyên, Hà Đông... Sau bị Đổng Trác tiêu diệt, mở ra thời kỳ phân tranh hình thành thế Tam Quốc. Tiêu biểu cho bộ CÂN có chữ: QUỐC 幗 : là Khăn đội đầu của phái nữ ngày xưa, nên ta có thành ngữ : CÂN QUỐC ANH HÙNG 巾帼英雄 : là Anh Hùng Đội khăn, tức là Nữ Anh Hùng. Như : Hoa Mộc Lan, Lương Hồng Ngọc của Tàu. Hai Bà Trưng, Bà Triệu của ta vậy. 斤 HÁN VIỆT cân NGHĨA VIỆT Rìu, cái cân, đơn vị trọng lượng TỪ GHÉP bán cân bát lượng 半斤八兩 • cân cân 斤斤 • cân lượng 斤兩 • cân phủ 斤斧 • công cân 公斤 • phủ cân 斧斤 CÂN 斤 là chữ Tượng Hình, Giáp Cốt Văn là hình của cây Rìu có lưỡi quặp xuống, qua Kim Văn và Đại Triện thì ngoài lưỡi rìu ra, còn có phần cán riêng trông vừa giống như hình cây rìu lại vừa như cây cân cầm tay ngày xưa, nên CÂN 斤 là Cây RÌU mà cũng là Cây CÂN nữa! Danh từ thì CÂN 斤 là đơn vị đo lường ngày xưa. MỘT CÂN tương đương với 600gr Tây bây giờ. Một Cân có 16 lượng (lạng). Nên ta có thành ngữ : BÁN CÂN BÁT LƯỢNG 半斤八兩 : Ta nói là Nửa Cân với Tám Lượng. Dùng để so sánh các mặt của 2 bên tương đương với nhau: Giỏi ngang nhau, Lợi hại ngang nhau, Chanh chua, đanh đá ngang nhau... đều có thể dùng thành ngữ nầy để diễn tả. CÂN CÂN KẾ GIẢO 斤斤計較 : là Tính Toán từng Cân một. Có nghĩa là: Ke re cắc rắc, tính toán với nhau từng chút một! Tiêu biểu cho bộ CÂN có chữ PHỦ 斧thuộc dàng hình Thanh. PHỦ 斧 là Cây BÚA. Một loại vũ khí ngày xưa. Đọc truyện Thuyết Đường ai cũng biết nhân vật Trình Giảo Kim cầm cây Tuyên Hoa Phủ 宣花斧 và chỉ chém được 3 búa đầu rất lợi hại, sau 3 búa đó thì những đường búa khác lại rất tầm thường! 艮 HÁN VIỆT Cấn NGHĨA VIỆT quẻ Cấn (Kinh Dịch); dừng, bền cứng, bộ cấn TỪ GHÉP Bộ thủ rất hay gặp Chữ艮miêu tả một người đàn ông vặn đầu và mở mắt ra. Khi ai đó vặn đầu, cổ anh ta đạt đến giới hạn và hầu như không di chuyển được, vì vậy艮được sử dụng để mô tả một cái gì đó khó khăn. Mặt khác, 艮có một số ý nghĩa khác mở rộng, nó cũng có nghĩa là giới hạn, ranh giới và khó khăn, nhưng những ý nghĩa đó đã được thay thế tương ứng bằng 限, 垠 và艱. Ngày nay, hiếm khi 艮được sử dụng độc lập, nó tồn tại như một thành phần của các chữ hán khác. 近 HÁN VIỆT Cận NGHĨA VIỆT Gần TỪ GHÉP cận chiến 近戰 • cận đại 近代 • cận đông 近東 • cận thị 近視. Chữ CẬN近(gần) là một chữ hình thanh kết cấu trái phải. Trong đó, bộ SƯỚC 辶 (đi, bay, chạy) bên trái làm nhiệm vụ tạo nghĩa chính cho chữ, bộ CÂN斤 (cái rìu) bên phải có tác dụng biểu thị âm đọc. Bộ SƯỚC辶biểu thị ý nghĩa liên quan đến di chuyển, đi, đứng nghĩa phát triển của nó là biểu thị khoảng cách xa gần. Trong cấu tạo chữ CẬN 近, bộ辶với vai trò biểu nghĩa chính, kết hợp với âm đọc của CÂN 斤 tạo thành chữ CẬN với nghĩa là gần. CẬN 近 với nghĩa ban đầu là chỉ nghĩa gần về khoảng cách vật lý sau phát triển thêm nghĩa chỉ sự gần gữi thân cận như THÂN CẬN, CẬN THUỘC hay nghĩa chỉ sự yếu kém trong tư duy, nhận thức như trong các từ THIỂN CẬN, CẬN THỨC,…   及 HÁN VIỆT Cập NGHĨA VIỆT Đến, kịp, đạt tới, cùng với, và TỪ GHÉP bất cập 不及 • cập thời 及時 • đề cập 提及 • lợi bất cập hại 利不及害 • phổ cập 普及. Chữ CẬP及là một chữ Hội Ý, trong cổ văn nó mô tả một người đàn ông bị một bàn tay nắm lấy, do đó及có ý nghĩa là bắt kịp hay đạt được một thứ gì đó. 及cũng được sử dụng như một liên từ kết hợp, nó có nghĩa là "và" hay “cùng” như : “Khấu kì hương cập tính tự, giai bất đáp” 扣其鄉及姓字, 皆不答 (Đại thiết truy truyện 大鐵椎傳) Hỏi quê quán và tên họ, đều không đáp. 狗 HÁN VIỆT Cẩu NGHĨA VIỆT Con chó TỪ GHÉP cẩu đạo 狗盜 • cẩu tặc 狗賊 • cẩu trệ 狗彘 • chỉ kê mạ cẩu 指雞罵狗 • hải cẩu 海狗 • Chữ CẨU狗là một chữ hình thanh kết cấu trái phải. Trong đó, bộ KHUYỂN犭bên trái là thành phần biểu nghĩa, chữ CÂU句 (câu văn, âm khác là cú) có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. 犭 là một dị thể của 犬 (con chó), kết hợp với âm đọc của 句 tạo thành 狗 với nghĩa là con chó. Ngày nay chữ 狗được dùng thay cho 犬 để chỉ con chó. Các cụm từ và thành ngữ liên quan đến chữ CẨU 狗 tiêu biểu có : HẢI CẨU 海狗: Tên một loài thú sống ở vùng biển lạnh, phần trên giống loài chó, bơi lội cực giỏi. CẨU ĐỒ 狗屠 : Người làm nghề giết chó làm thịt. Sau dùng để tỉ dụ người làm nghề ti tiện CẨU Mà 狗馬: Chó ngựa, chỉ người bề tôi trung thành ( chó, ngựa là loài vật nuôi trung thành ). Ta có thành ngữ CẨU Mà CHI TÂM 狗馬之心 : nghĩa là lòng trung thành tới cùng của bề tôi đối với vua, như chó ngựa báo đáp chủ nhân. CẨU VĨ TỤC TIÊU 狗尾續貂: Lấy đuôi chó mà nối vào lông điêu, tiếng khiêm nhường, chỉ sự nối không xứng đáng, sự hoạ thơ người khác vv…. CHỈ KÊ MẠ CẨU : Trỏ gà mắng chó. Nghĩa bóng: Chửi xéo, chửi bóng gió. Ta cũng nói là CHỈ TANG MẠ HÒE指桑罵槐. Đây là một trong 36 kế thuộc bộ binh pháp của tôn tử. 針 HÁN VIỆT Châm,trâm NGHĨA VIỆT Kim, vật nhọn, đâm, chích TỪ GHÉP châm biếm 針貶 • châm cứu 針灸 • châm pháp 針法 • châm phong 針鋒 • nam châm 南針• phương châm 方針 • thuỷ để lao châm 水底撈針 CHÂM針 là chữ hình thanh kết cấu trái phải, chữ bao gồm bên trái là bộ KIM金biểu nghĩa kết hợp với bên phải là bộ THẬP十 chỉ âm đọc mà thành. KIM đại diện cho KIM LOẠI nên CHÂM 針là KIM để may vá. Ta có từ CHÂM TUYẾN 針線 : là Kim Chỉ; nghĩa bóng chỉ sự Thêu thùa May vá Ta còn có các cụm từ và thành ngữ liên quan : CHÂM CỨU 針灸: Là phép chữa bệnh cổ truyền, dùng kim chích vào huyệt kinh mạch hoặc dùng ngải đốt NAM CHÂM 南針: một loại khí cụ với cây kim lúc nào cũng chỉ phía nam, chỉ sự dẫn đường, dẫn dắt. Ta cũng nói là KIM CHỈ NAM. CHÂM GIỚI TƯƠNG ĐẦU 針芥相投: Từ thạch (đá nam châm) hút kim (“châm” 針), hổ phách dính hạt cải (“giới” 芥). Tỉ dụ hai bên tính tình, ngôn ngữ, ý kiến hợp nhau. THỦY ĐỂ LAO CHÂM 水底撈針: Đáy nước mò kim. Như làm việc gì rất khó hoàn thành. Ta cũng nói là ĐẠI HẢI LAO CHÂM 大海撈針. Từ thành ngữ này ta có thêm CHÂM TRẦM THỦY ĐỂ 針沈水底 : Cây kim chìm ở đáy nước. Chỉ sự việc thất vọng THIẾT CHỮ MA THÀNH TÚ HOA CHÂM 鐵杵磨成繡花針: là Chày sắt mài thành kim thêu hoa; nói gọn lại thành THIẾT CHỮ THÀNH CHÂM 鐵杵成針. Ta nói là: Có công mài SẮT, có ngày nên KIM. 執 HÁN VIỆT Chấp NGHĨA VIỆT Cầm, cố chấp TỪ GHÉP chấp chính 執政 • chấp hành 執行 • chấp hữu 執友chấp lễ 執禮 • chấp nê 執泥 • chấp nhận 執認 • chấp nhất 執一 Chữ CHẤP (執) trong từ "cố chấp" hay "chấp trước" trong giáp cốt văn 執 miêu tả rõ ràng hình một người quỳ gối hai tay bị giữ chặt trong một chiếc cùm. Nghĩa gốc của 執 là "bắt giữ" hay "giam cầm". trong quá trình diễn tiến, chữ 執 về sau là chữ hội ý bao gồm chữ HẠNH 幸 (có nghĩa là hạnh phúc, vui vẻ. ) và chữ HOÀN 丸 như "hoàn tử" 丸子(viên nhỏ có hình tròn, ý nói những thứ vụn vặt). Có thể lý giải CHẤP tức là mưu cầu những thứ nhỏ hèn coi trọng những thứ không đáng. Chữ CHẤP (执) giản thể là “thủ nã hoàn tử”, nghĩa là tay cầm hạt viên, ý tứ đại thể giống nhau, tức là cầm thứ chẳng đáng cầm. Như vậy CHẤP (執) nghĩa là nắm giữ thứ chẳng đáng giữ, thứ mà lẽ ra là nên buông bỏ. Cổ nhân có câu “Mệnh lý hữu thời chung tu hữu, mệnh lý vô thời mạc cưỡng cầu”, có ý rằng, khi điều gì đó đã được sắp đặt sẵn thì nó sẽ đến đúng thời điểm. Còn nếu điều gì không được sắp đặt trước rồi thì không ai có thể làm nó xảy ra, vậy cần gì phải cố sức để mong có được nó? Làm người học được cách điềm nhiên đối đãi với hết thảy, dùng bình tĩnh để đối đãi với mọi sự công bằng và bất công bằng trong cuộc sống, thản nhiên tiếp nhận mọi sự an bài hợp ý và không hợp ý mình. Ấy mới là cách đối đãi của bậc trí huệ.   州 HÁN VIỆT Châu NGHĨA VIỆT Đơn vị hành chính, gò đất giữa nước. DẠNG KHÁC 洲 TỪ GHÉP á châu 亞州 • gia châu 加州 • hàng châu 杭州 • lai châu 萊州, Tô Châu 蘇州. Chữ CHÂU州là một chữ Tượng Hình (cũng có thể coi là chữ hội ý), mô tả một dòng sông ( xuyên巛)với một hòn đảo ở giữa, do đó, 州 có nghĩa là cồn đất giữa nước, bãi cù lao,…. Ở Trung Quốc cổ đại, 州 là một khu vực hành chánh, ngày xưa chia đất ra từng khu, lấy núi sông làm mốc, gọi là CHÂU. Như: TÔ CHÂU蘇州. CHÂU 州là Đơn vị hành chánh ngày xưa tương đương với Tỉnh, đứng đầu là Tri Châu 知州. Hiện nay, CHÂU được dùng để dịch các Tiểu Bang của Mỹ, như CALI gọi là GIA CHÂU 加州, TEXAS gọi là ĐỨC CHÂU 德州, Pennsylvania thì gọi là TÂN CHÂU 賓州... Thống Đốc Tiểu Bang thì gọi là Châu Trưởng 州長. Không kể Trung Hoa ngày xưa chia làm Cửu Châu là: Ký Châu, Duyện Châu, Thanh Châu, Từ Châu, Dương Châu, Kinh Châu, Lương Châu, Ung Châu và Dự Châu. Nước Việt Nam ta cũng chia làm nhiều Châu Quận. Ta hãy đọc lại 2 câu thơ của Nguyễn Văn Cổn, một Thi Sĩ Tiền Chiến, trong bài Nước Tôi như sau : ... Bùi ngùi nhớ bóng Huyền Trân, Hai CHÂU Ô LÝ đổi thân nghìn vàng! Còn chữ CHÂU có 3 chấm Thuỷ 洲, hiện nay chỉ dùng để chỉ những châu lục lớn như : Á CHÂU 亞洲, ÂU CHÂU 歐洲, PHI CHÂU 非洲, ÚC CHÂU 澳洲 .... 舟 HÁN VIỆT Chu, châu NGHĨA VIỆT Thuyền, đò, bộ chu TỪ GHÉP chu sư 舟師 • chu tử 舟子 • long chu 龍舟 • phương chu 方舟. Chữ CHU舟là một chữ tượng hình, mô tả một chiếc thuyền với hai mái chéo hai bên. Ở trung quốc cổ đại, người ta chế tạo thuyền bằng cách khoét rỗng những thân gỗ to để làm thuyền, ngày nay chúng ta vẫn hay gọi là “thuyền độc mộc”. Chữ舟ngoài vai trò chữ đơn còn là bộ thủ tạo chữ. Cụm từ và Thành ngữ liên quan đến chữ CHÂU tiêu biểu có: LONG CHU 龍舟: Thuyền làm theo hình con rồng. Thuyền rồng. Thuyền vua đi. CHU SƯ 舟師: Lính đi thuyền, tức Hải quân, Thuỷ binh. NGÔ VIỆT ĐỒNG CHU吳越同舟: Ngô và Việt là hai nước thù địch, nhưng khi cùng gặp nguy nan cũng phải giúp đỡ lẫn nhau. Sau tỉ dụ khi gặp hoạn nạn, đổi thù thành bạn, cùng nhau vượt qua gian nan. MỘC DĨ THÀNH CHU 木已成舟 : là Cây đã thành Thuyền, ta nói là "Ván đã đóng thuyền!" Câu nầy làm ta nhớ đến một câu tương tự là MỄ DĨ THÀNH PHẠN 米已成飯 : là "Gạo Đã Thành Cơm!" 制 HÁN VIỆT Chế NGHĨA VIỆT chế tạo, ngăn cấm TỪ GHÉP biên chế 編制 • chế biến 制變 • chế định 制定 • chế độ 制度. Chữ CHẾ制bao gồm ba bộ thủ tạo thành. Trong đó, có bộ NGƯU牛là trâu bò, CÂN巾(dải lụa) và ĐAO刂 (thanh kiếm). Đối với nền nông nghiệp truyền thống, con trâu đóng vai trò chủ yếu trong việc cung cấp sức kéo. Trong thế giới động vật, trâu bò, dê đều là những động vật ăn cỏ hiền lành, dễ thuần hóa. Người xưa đã sớm biến trâu bò thành vật nuôi trong gia đình. Nhờ có trâu bò cung cấp sức kéo mà giảm bớt được sức người. Ngoài việc trồng cấy cung cấp lúa gạo, việc nuôi tằm kéo kén, dệt lụa tạo điều kiện cho con người không những có cái ăn mà còn có cái mặc. Con người trở nên văn minh hơn. Chữ ĐAO刂 xuất hiện trong chữ chế với ý nghĩa là biểu tượng của vũ khí hộ thân, là quyền uy cũng như là sự bảo trợ của thân linh giúp cho con người chống lại kẻ thù. Nghĩa của chữ chế ban đầu là nghi thức tế lễ thần linh, thể hiện lòng thànhkính và ước nguyện của người xưa trong tín ngưỡng dân gian. Người ta chọn đầu trâu, vải lụa là những sản phẩm có giá trị trong sản suất và đời sống kết hợp với thanh gươm làm vật cúng tế.Từ nghĩa gốc đó phát triển thành quy định, thống nhất trong các từ PHÁP CHẾ, KHỐNG CHẾ, CHẾ ĐỊNH,…ngày sau lại phát triển thêm nghĩa là làm ra vật phẩm như trong các từ CHẾ PHẨM, CHẾ TÁC, SÁNG CHẾ,… 支 HÁN VIỆT Chi NGHĨA VIỆT Chi cho, cấp cho TỪ GHÉP chi cấp 支給chi li 支離chi phí 支費 • chi phiếu 支票 • chi phối 支配. Chữ CHI支là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, gồm phần trên là 十thật chất đây là một biến thể của bộ THỦ手, ở dưới là bộ HỰU又 (cũng là chỉ tay). Trong giáp cốt, kim và triện văn chữ CHI 支 được viết có hình dạng giống như hai bàn tay đang hướng về nhau, bàn tay phía bên dưới hơi ngửa ra, như đang nhận một vật gì đó từ bàn tay phía trên. Tính chất hội ý của chữ chi thể hiện ý nghĩa ban đầu là bàn tay phía trên đưa cho bàn tay phía dưới. Theo thời gian, bàn tay phía trên, dưới đều được thay đổi , nó có cách viết giống như chữ THẬP và chữ HỰU và trở thành chữ CHI 支 như bây giờ. CHI 支 là phần tách rời ra từ một tổng thể, là Chi Nhánh, như: CHI ĐIẾM 支店 : là Tiệm nhỏ tách ra từ tiệm lớn. CHI LƯU 支流 : là Sông con tách ra từ sông cái. CHI là Hệ Phái, những nhánh tách rời ra của một Dòng Họ gọi là TÔNG CHI 宗支. Một Nhánh của Đảng phái gọi là CHI BỘ 支部. CHI là CHI THU 支收 : là Phát ra và Nhận vào. Ta thường nói là CHI XUẤT 支出 và THU NHẬP 收入. CHI TRÌ, CHI VIỆN, CHI TRỢ 支持;支援;支助 : là Ủng hộ, Tiếp tế, Giúp đỡ cho ai đó hoặc việc gì đó. CHI TRÌ 支持 : Còn có nghĩa là Giữ Vững, Đứng Vững. Ta có thành ngữ LỰC BẤT KHẢ CHI 力不可支 : là Sức không chịu đựng nỗi, và THỂ LỰC BẤT CHI 體力不支 : là Sức khỏe của cơ thể không thể chống chỏi nỗi, nên có nghĩa là Cơ Thể Suy Nhược. LẠC BẤT KHẢ CHI 樂不可支 : là Vui không chịu nỗi, là Vui qúa sức! 枝 HÁN VIỆT Chi NGHĨA VIỆT Cành cây TỪ GHÉP nộn chi 嫩枝,kim chi ngọc diệp 金枝玉葉, nhất chi hoa一枝花. Về mặt cấu tạo, chữ CHI枝trong các từ điển chữ hán hiện đại được định nghĩa là một chữ hội ý kiêm hinh thanh. Nếu được định nghĩa là chữ hình thanh, chữ CHI 枝 được tạo bởi bộ MỘC木 (cây) là bộ phận biểu ý, chữ CHI支(chi cho) biểu thị âm đọc. Với bộ MỘC có nhiêm vụ tạo ý nghĩa liên quan đến cây cối, thực vật, Kết hợp với âm đọc của chữ CHI支, có nghĩa là cành cây, nhánh cây. Cũng có thể hiểu CHI 枝 là chữ hội ý. Tính chất hội ý của hai bộ thủ tạo chữ là chỉ việc cây cung cấp chất dinh dưỡng cho các cành nhỏ. Chữ CHI 枝cũng được dùng song song với chữ支 hay 肢với cùng ý nghĩa chỉ các bộ phận nhỏ được chia ra từ một bộ phận lớn hơn.   肢 HÁN VIỆT Chi NGHĨA VIỆT Tay, chân TỪ GHÉP hạ chi 下肢 • thượng chi 上肢 • tứ chi 四肢. Về mặt cấu tạo, giống như 枝 chữ CHI肢trong các từ điển chữ hán hiện đại được định nghĩa là một chữ Hội Ý kiêm Hình Thanh. Nếu được định nghĩa là chữ hình thanh, chữ CHI 肢 được tạo bởi bộ NHỤC肉 (thịt) là bộ phận biểu ý, chữ CHI支(chi cho, cấp) biểu thị âm đọc. Với bộ NHỤC có nhiêm vụ tạo ý nghĩa liên quan đến con người, động vật, bộ phận cơ thể,… Kết hợp với âm đọc của chữ CHI支, 肢có nghĩa là chân tay của người hoặc thú vật. Cũng có thể hiểu CHI 肢 là chữ hội ý. Tính chất hội ý của hai bộ thủ tạo chữ là chỉ việc cơ thể cung cấp chất dinh dưỡng cho các bộ phận tay, chân. Chữ CHI 肢cũng được dùng song song với chữ支 hay枝với cùng ý nghĩa chỉ các bộ phận nhỏ được chia ra từ một bộ phận lớn hơn. 止 HÁN VIỆT Chỉ, chi NGHĨA VIỆT Dừng, thôi TỪ GHÉP bất chỉ 不止 • cấm chỉ 禁止 • chỉ bộ 止步 • chỉ qua 止戈 • cử chỉ 举止 • CHỈ 止 là chữ mượn Tượng Hình làm Chỉ Sự, Giáp Cốt Văn là hình bàn chân đứng yên tại chỗ, ý là Ngừng Lại, không bước tới nữa, diễn tiến thành chữ CHỈ hiện nay 止. Ta có các từ thường gặp như : ĐÌNH CHỈ 停止 là Dừng Lại. CHỈ BỘ 止步 là Dừng Bước. CẤM CHỈ 禁止 : Ngừng hẵn việc gì đó lại, không được tiến hành nữa. Như : CẤM CHỈ đốt pháo trong thành phố ba ngày Tết. CHỈ THỐNG 止痛 : là Dừng cơn đau lại. Thuốc CHỈ THỐNG là thuốc uống vào để chận đứng cơn đau. Ngày xưa, các bà các cô khi nhức đầu hay ghé tiệm Cao Đơn Hoàn Tán mua một gói CHỈ THỐNG TÁN ( Thuốc tán cầm đau ) về uống. Chữ CHỈ 止 nầy còn thông với chữ CHỈ 趾 là Ngón Chân, Dấu chân. Ngày Tết múa lân, ta thấy các Đoàn Lân thường để lại một cái thiệp chúc Tết, trên đó luôn có 4 chữ : LÂN CHỈ TRÌNH TƯỜNG 麟趾呈祥 : Có nghĩa là "Dấu chân của con Lân đi tới đâu thì sẽ để lại điềm lành ở nơi đó!" Chữ CHỈ 趾 nầy cũng là chữ ĐỊA CHỈ 地址 mà ta thường hay dùng để chỉ nơi ta ở 至 HÁN VIỆT Chí NGHĨA VIỆT Đến, tới, cùng, rất, cực kỳ TỪ GHÉP chí nhân 至仁 • chí thánh 至聖 • chí tôn 至尊 • chí tử 至死 • đông chí 冬至 • hạ chí 夏至. Chữ CHÍ至là một chữ Hội Ý, trong cổ văn chữ mô tả lại hình ảnh một mũi tên, nét ngang phía dưới là nơi mà mũi tên bắn tới. Nghĩa gốc của至là “đạt tới”. Mặt khác, nếu xem điểm mà người bắn đang đứng là nơi bắt đầu thì chỗ mà mũi tên bắn tới là điểm cuối cùng, là điểm tận cùng. Chữ至,vì vậy cũng được dùng để thể hiện ý nghĩa mức độ đạt tơi mức rất, cùng cực như trong các từ: CHÍ THÁNH至聖CHÍ TÔN至尊. 志 HÁN VIỆT Chí NGHĨA VIỆT Ý chí, ghi chép DẠNG KHÁC 誌 TỪ GHÉP chí hướng 志向 • chí khí 志氣 • dư địa chí 輿地志,tạp chí 雜志 Chữ CHÍ志có kết cấu trên dưới, gồm bộ SĨ士 (học trò, kẻ sĩ) và bộ TÂM 志(tim, lòng) hợp thành. Điều đầu tiền cần phải nói đến là, trong tiếng Hán chữ TÂM 志chủ đạo về suy nghĩ, tư duy, tình cảm. Hầu hết các chữ hán có bộ TÂM 志làm bộ thủ biểu thị ý nghĩa đều có liên quan đến tư duy, tình cảm trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Chữ CHÍ 志là cái tâm, tấm lòng của người có học. Sống phải có mục đích phấn đấu, vươn lên, vượt trở ngại hoàn cảnh để hoàn thiện mình, coi lý tưởng cần đạt được là mục tiêu duy nhất. Thiên Lý nhân trong Luận ngũ có viết : “sĩ chí vu đạo, nhi sỉ ác y ác thực giả, vị túc dữ nghị dã.” Nghĩa là : trong quá trình theo đuổi chân lý, học trò nào coi việc thiếu ăn, thiếu mặc làm điều nhục thì học trò ấy không đáng được bàn luận đến. Học trò có chí hướng, nhiệt thành với lý tưởng phải là người “thực vô cầu bão, cư vô cầu an” (ăn không cần đầy đủ sơn hào hải vị, ở không cầnđầy đủ tiện nghi). Như vậy họ mới dốc lòng, tận tâm, tận lực cho việc học tập của mình và cuối cùng thì chí giả cánh thành (có chí thì nên). Luận ngữ có đoạn viết : “ngô thập hữu ngũ lập chí vu học” (ta mười lăm tuổi lập chí qua con đường học tập). Điều đó càng chứng tỏ vai trò của học tập, để xác định và nuôi ý chí chí phấn đấu vươn lên của con người. Tục ngữ của người Việt cũng có câu “có chí thì nên”. Bên cạnh chữ CHÍ 志còn có một chữ CHÍ誌nữa đồng âm, có thêm bộ NGÔN 言biểu nghĩa, chữ CHÍ 志ban đầu đã có vai trò biểu âm cho cho chữ CHÍ 誌này. Nghĩa của chữ CHÍ 誌 là ghi chép có trong các từ BÁO CHÍ, TẠP CHÍ,…Trong quá trình cải tiến, giản hóa chữ hán, hai chữ này đã sát nhập làm một. chúng ta chỉ tìm thấy trong hán ngữ hiện đại chữ CHÍ 志 mà thôi. 折 HÁN VIỆT Chiết, đề NGHĨA VIỆT Bẻ gãy, phân ra TỪ GHÉP chiết bán 折半 • chiết biến 折變• chiết đoạn 折斷 • chiết hoa 折花 • chiết tự 折字. Chữ CHIẾT折là một chữ hội ý, trong giáp cốt văn và kim văn nó mô tả hình ảnh một cành cây bị chặt làm đôi bởi một chiếc rìu. Chữ chiết ngày nay bao gồm biến thể của bộ THỦ手 (tay) và bộ CÂN斤(cái rìu), cũng với ý nghĩa là dùng rìu để chặt, phân đoạn cây gỗ ra thành nhiều phần. Chiết cũng có nghĩa là phân tích mổ sẻ một vấn đề để có thể hiểu một cách dễ dàng hơn. 照 HÁN VIỆT Chiếu NGHĨA VIỆT Chiếu, soi, rọi, nhắm vào, noi theo. TỪ GHÉP chiếu cố 照顧 • chiếu liệu 照料 • đối chiếu 对照 • hộ chiếu 护照 • phản chiếu 反照. Chữ CHIẾU 照 là một chữ hình thanh kiêm hội ý, bao gồm một dạng thể của bộ HỎA 灬 và chữ CHIÊU 昭 (sáng). Cả và đều có nghĩa là sáng hay ánh sáng nên có nghĩa gốc là chiếu sáng phát triển nghĩa thành chiếu theo, noi theo. Ngoài ra, còn có tục gọi văn bằng hay các giấy chứng chỉ là CHẤP CHIẾU執照 hay CHIẾU HỘ照護. 正 HÁN VIỆT Chính, chánh NGHĨA VIỆT Đúng, phải, chính đáng,… TỪ GHÉP bất chính 不正• chân chính 真正•chính diện 正面• chính đáng 正当. Chữ CHÍNH正nghĩa là ngay chính, bao gồm chữ NHẤT一là một, duy nhất và chữ CHỈ止là dừng lại kết hợp thành. Chữ NHẤT 一 biểu thị rằng bề ngoài và nội tâm cần phải thống nhất với nhau. Chữ CHỈ 止 cho thấy làm việc phải thích hợp và biết dừng lại đúng lúc. Phải có đầy đủ cả hai yếu tố trên thì mới thành bậc chính nhân quân tử, là người ngay thẳng, chính thường mà không thiên lệch. Có câu nói rằng: “Bất thiên tả, bất thiên hữu, bất bạo động”, cho nên CHÍNH nghĩa là không nghiêng phải, không nghiêng trái, không bị lay động. Trong chữ Chính có một chữ NHẤT 一 ở trên và một chữ NHẤT 一 ở dưới, ở giữa là nét thẳng đứng. Điều đó cho thấy con người hành xử cần có trên có dưới, nghiêm chỉnh ngay thẳng, không thiên lệch lên trên cũng không thiên lệch xuống dưới, trên dưới hợp nhau, hài hòa, ngay thẳng, không cúi đầu khom lưng, không a dua xu nịnh. Người như thế sao có thể nói là không Chính đây? 政 HÁN VIỆT Chính NGHĨA VIỆT Chính trị, chính quyền TỪ GHÉP chính khách 政客 • chính phủ 政府 • chính quyền 政權 • chính sách 政策 • chính sự 政事 • chính thể 政體• chính trị 政治. Chữ CHÍNH政là chữ hội ý kiêm hình thanh kết cấu trái phải, gồm hai bộ thủ là CHÍNH正(ngay thẳng, đúng đắn) và PHỘC攵(ngọn roi) tạo thành. Trước hết nói đến chữ CHÍNH正. Chữ CHÍNH正 bao gồm chữ CHỈ 止(dừng lại) và chữ NHẤT “—“ tạo thành. Chữ CHỈ 止là một chữ tượng hình vẽ lại đôi chân đứng thẳng, hai bàn chân song song, khác với chữ TẨU走 (chạy, đi) hình dung như chân trước, chân sau đang rảo bước. Chữ chính có nghĩa là cử chỉ , hành vi ngay thẳng, thống nhất, không thiên lệch. Những hành vi, lời nói tiền hậu bất nhất được coi là bất chính. Chữ NHẤT — trên đầu thể hiện chữ chính không chỉ là hành vi ngay thẳng, đúng đắn mà còn phải suy nghĩ đúng đắn, hành vi thống nhất với suy nghĩ. Bộ PHỘC 攵là ngọn roi – biểu tượng của quyền uy, sự trừng phạt, sắc lệnh. Đó cũng là một loạt những bộ luật mà nhà nước ban hành nhằm hướng người dân đến tuân thủ chính đạo, xa rời tà đạo. Thiên vi chính trong luận ngữ có câu :” Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn chi vô sỉ; Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách.” Nghĩa là quản lý dân bằng chính lệnh, khống chế dân bằng hình phạt, dân chúng có thể nhất thời không mắc tội nhưng họ không ý thức được việc phạm tội là sỉ nhục. Ngược lại , dùng đạo đức để giáo hóa dân chúng, dùng lễ giáo để ràng buộc họ vào quy phạm xã hội, dân chúng không những biết tự trọng mà còn biệt sủa chữa lỗi lầm. 祝 HÁN VIỆT Chúc, chú NGHĨA VIỆT Người chủ trì lễ, người trông coi chùa miếu, chúc mừng TỪ GHÉP chúc phúc 祝福 • chúc tán 祝讚 • cung chúc 恭祝 • khánh chúc 庆祝 • kính chúc 敬祝 • miếu chúc 廟祝 • từ chúc 祠祝 Chữ CHÚC (祝) trong từ "chúc phúc 祝福" về mặt cấu tạo là một chữ Hội Ý. Trong cổ văn CHÚC祝 mô tả một người đàn ông đang quỳ gối, phía trước là một bàn thờ, nét ngang ở trên biểu thị cho đĩa đựng đồ cúng tế. Nghĩa gốc ban đầu của 祝 là Thầy phù thủy, người chuyên cúng tế ở các đình chùa miếu mạo, ngày nay 祝 dùng để chỉ người trông coi chùa, miếu như "miếu chúc 廟祝" (người coi hương hỏa trong chùa, miếu thờ, ta vẫn biết đến với tên gọi là Ông Từ). Trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu : Quan thanh thơ lại xú,官清書吏廋, Thần linh miếu chúc phì.神靈廟祝肥。 Có nghĩa : Ông quan thanh liêm thì người thư ký ốm (vì phải làm việc nhiều và không có tiền...hối lộ!). Còn Ông thần mà linh thiêng thì người giữ chùa sẽ mập ra (Vì có nhiều người đến cúng tế cho mà ăn!). Như vậy CHÚC 祝 ban đầu chỉ ông thầy cúng cũng có nghĩa là lời van nài, khẩn nguyện. CHÚC 祝 tức là những lời Van Vái khi cúng tế, thường thì đều là những lời tốt đẹp, người ta mời thầy cúng làm lễ để cầu mong may mắn và bình an nên sau này hễ "Nói Những lời Tốt Đẹp Cho Người Khác" thì gọi là CHÚC. Ngày nay trong các dịp lễ tết cổ truyền của người Việt Nam ta thường gặp các từ: Chúc Xuân, Chúc Tết, Chúc Phúc, Chúc Thọ, Chúc may mắn,Chúc mua may bán đắt, Chúc An Khang Thịnh Vượng... Chữ CHÚC đã được Việt hóa thành chữ Nôm và mất dần đi ý nghĩa ban đầu của nó. 終 HÁN VIỆT chung NGHĨA VIỆT Hết, cuối, kết thúc. TỪ GHÉP chung kết 終結 • chung quy 終歸 • chung thuỷ 終始 • lâm chung 臨終. Chữ CHUNG終trong cả giáp cốt và kim văn đều mô tả hình ảnh của một sợi dây với hai đầu được thắt nút biểu thị cho sự “kết thúc” hay “tận cùng”. Chữ終bắt đầu có sự biến đổi lớn về hình thể kể từ chữ triện văn.終bây giờ được cấu tạo bởi MỊCH糹(tơ sợi) và ĐÔNG冬 (mùa đông). Trong khi糹 biểu thị ý nghĩa là một sợi dây, một quá trình thì冬lại biểu thị sự kết thúc hay thời điểm cuối cùng (mùa đông là mùa cuối cùng trong năm). Các từ liên quan đến chữ CHUNG: CHUNG QUY : là kết lại sau cung, là sau rốt. Cũng như CHUNG CỤC. LÂM CHUNG 臨終: là lúc sắp chết . Trái với CHUNG là THỦY 始 ( còn đọc là THỈ ), Thủy 始 là Bắt đầu, nên: CHUNG THỦY hoặc THỦY CHUNG 始終 có nghĩa là Đuôi Đầu, Đầu Đuôi! và... CON NGƯỜI THỦY CHUNG là Con người có đầu có đuôi, có trước có sau, trước sau như một, trước làm sao thì sau cũng làm vậy, bền lòng chặc dạ không thay đổi. Ta gọi là Con người có hậu, khác với những người HỮU THỦY 有始 mà VÔ CHUNG 無終, có đầu mà... hổng có đuôi, ăn ở đoản hậu! HỮU THỦY VÔ CHUNG 有始無終 dùng để chỉ chuyện gì đó, có mở đầu mà không có kết thúc; còn dùng để chỉ tánh tình hoặc lòng dạ con người hay thay cũ đổi mới hoặc không bền lòng chặc dạ, hay bỏ vỡ nửa chừng 眾 HÁN VIỆT chúng NGHĨA VIỆT Đông đúc, nhiều DẠNG KHÁC 众 TỪ GHÉP chúng dân 眾民 • chúng sinh 眾生 • công chúng 公眾 • dân chúng 民眾 • đại chúng 大眾. Chữ CHÚNG眾(nhiều, đông đúc)là một chữ hội ý. Chữ CHÚNG 眾 trong giáp cốt văn được viết giống như hình ba người đang tụ lại, phía trên là hình ảnh mặt trời tỏa nắng. Tính chất hội ý của những thành phần này là ba người tụ hợp lại dưới ánh mặt trời biểu ý cho sự đông đúc. Các thay đổi về sau này nói chung là không nhiều, vẫn là ba bộ NHÂN人 hình ảnh mặt trời bị biến đổi và trở thành một chữ giống như chữ MỤC目 nằm ngang. Chữ CHÚNG ở dạng giản thể众 đã lược bỏ luôn thành phần này, chỉ còn lại ba chữ NHÂN人biệu thị số lượng nhiều hay sự đông đúc. 匕 HÁN VIỆT Chủy, trủy, tỷ NGHĨA VIỆT Cái thìa, cái muôi TỪ GHÉP Vai trò chính là bộ thủ tạo chữ hán. Chữ CHỦY匕 là một chữ Tượng Hình. Trong các dạng chữ cổ匕mô tả một loại vật dụng của con người, nó trông giống như một công cụ có tay cầm dài, công cụ đó có thể là một cái muôi, một cái muỗng. Ngày nay, chữ CHỦY匕chủ yếu được dùng với vai trò là bộ thủ tạo chữ Hán.   專 HÁN VIỆT chuyên NGHĨA VIỆT Chuyên tâm, chỉ có một, đặc biệt TỪ GHÉP chuyên cần 專勤 • chuyên chế 專制 • chuyên dụng 專用 • chuyên gia 專家 • chuyên môn 專門 • chuyên nghiệp 專業 Chữ CHUYÊN (專) trong từ CHUYÊN CẦN hay CHUYÊN NGHIỆP là chữ gốc của chữ CHUYỂN (轉) trong từ CHUYỂN ĐỘNG. Nguồn gốc và ý nghĩa của chữ CHUYÊN專 gắn liền với văn hóa dệt của người trung quốc cổ đại. Trong giáp cốt văn CHUYÊN專 miêu tả một bàn tay đang quay con suốt. Đây là động tác se sợi bông thành con cúi hoặc cũng có thể hiểu là kéo con cúi thành sợi chỉ. Đối với người lao động xưa mà nói, đây không phải công việc quá phức tạp nếu không muốn nói là đơn giản và nhàm chán. Tuy nhiên chính vì đây là công việc đơn giản và lặp đi lặp lại nên đòi hỏi người thực hiện phải là người tỉ mỉ và kiên nhẫn. Chữ 專 vì thế có nghĩa là chuyên tâm tập trung trí lực làm một việc gì đó. Mặt khác các kỹ thuật điêu luyện được hình thành từ sự thực hành thường xuyên, vì vậy 專 còn có nghĩa là đặc biệt giỏi trong một lĩnh vực nào đó như trong từ "chuyên môn" hay "chuyên nghiêp". Chữ CHUYÊN ghép với chữ chữ CẦN (勤) thành CHUYÊN CẦN chỉ sự cần mẫn, siêng năng, không ngại khổ để thành danh. Để đề cao tính chuyên cần người xưa vẫn có câu : "Thông minh chưa hẳn đã thành công, nhưng muốn thành công chắc chắn phải chuyên cần", hay câu: "Nhân sinh tại thế: Thành bởi cần, bại bởi tùy". Những ai đã từng tìm hiểu về cuộc đời của Tăng Quốc Phiên ắt đều biết rằng ông vốn dĩ không phải là người có trí thông minh thiên bẩm, thậm chí còn đôi chút ngốc nghếch. Lương Khải Siêu từng bình phẩm về ông: “Văn Chính không phải là thiên tài kiệt xuất, trong số hiền tài có thể nói là người chậm chạp vụng về nhất”. Ngay cả Tăng Quốc Phiên cũng thừa nhận rằng bản thân không hề có thiên chất hơn người, mà là người: “Bình sinh không có sở tài”, “Tính cách đần độn”. Tuy nhiên sau này, vào những năm cuối triều đại nhà Thanh, ông chỉ dựa vào hai chữ “chuyên cần” để thay đổi tất cả vận mệnh cũng như tư chất của đời mình. Khi Tăng Quốc Phiên còn nhỏ, cha của ông đã dạy rằng làm người cần phải chăm chỉ chuyên cần. Khi lên 8 tuổi phải đọc sách, vì tư chất không bằng người nên ông học rất chậm, thông thường sách đọc qua một lần vẫn không thể hiểu nội dung. Vậy nhưng ông không hề chán nản, đọc một lần không hiểu thì đọc hai lần, hai lần không hiểu thì đọc mười lần, đọc tới cả trăm lần đến khi thấu hiểu thì thôi. Ông chuyên cần đọc sách từ sáng đến khuya, có nhiều khi đọc đến mức thổ huyết quên ăn cũng chẳng chịu ngơi nghỉ. Có một giai thoại về ông như sau: Một hôm Tăng Quốc Phiên đọc sách trong thư phòng thì có tên trộm lẻn vào nhà, vì thấy gia chủ còn thức nên hắn không thể ra tay mà trốn ở góc nhà, định bụng đợi gia chủ đi ngủ thì sẽ lấy trộm đồ. Ngờ đâu có một đoạn văn mà ông đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần mà vẫn không hiểu, không thuộc. Trong khi đó tên trộm ẩn trong góc nhà nghe qua mấy lần đã sớm thuộc làu làu rồi. Tên trộm đợi mãi, đợi mãi đến đêm đã rất khuya rồi mà ông vẫn không chịu đi nghỉ, hắn không nhẫn được nữa bèn nhảy ra ngoài nhạo báng: “Cái đồ ngốc nghếch nhà ngươi, có đoạn văn đơn giản như vậy mà học mãi cũng không thuộc, ta nghe có mấy lần đã nhớ từ lâu rồi”. Nói xong tên trộm đọc một lượt trôi chảy rồi bỏ đi. Tuy nhiên sau này Tăng Quốc Phiên lại hiển danh như một nhân tài kiệt xuất, là rường cột của quốc gia, còn tên trộm kia thì vẫn cứ mãi là một tên trộm. Câu chuyện này đã nói nên rằng, người thông minh chưa chắc đã thành công, nhưng người chuyên cần thành công là điều chắc chắn. Trong lịch sử, Thương Trọng Vĩnh tuổi trẻ được xem là kỳ tài trong số kỳ tài, văn thơ tài phú hơn người, xuất khẩu thành thơ, người người ca tụng. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào hai chữ “thiên bẩm” thì chẳng thể tiến xa. Cổ nhân có câu: “Trẻ không cố gắng, già hối hận cũng bằng không”, vì lười biếng mà Thương Trọng Vĩnh chẳng có được công danh sự nghiệp gì. Kỳ thực đối với đại đa số chúng ta, sự khác nhau về thiên phú là rất ít ỏi, mà cần cù, lương thiện mới là con đường duy nhất để thành công. Cũng như một cỗ máy bình thường, nếu được vận hành thường xuyên thì sẽ luôn chạy được mượt mà, thân sáng, mình bóng. Còn chiếc máy có tốt đến đâu nhưng không vận hành thường xuyên thì cũng nay sửa mai chữa, han rỉ khắp nơi, thọ mệnh chẳng đáng là bao. Xã hội ngày nay có một hiện tượng vô cùng nổi cộm được gọi là “chứng trì hoãn”, việc hôm nay nhưng cứ thích để ngày mai, đến lúc sau cùng một là làm không được, hai là không chịu làm, có làm cũng vội vội vàng vàng chẳng ra sao rồi lại trách người khác. Kỳ thực có rất nhiều chuyện không phải làm không tốt, chỉ là không dụng tâm mà làm thôi, cũng không phải không có thời gian để làm, mà là không trân quý thời gian. Thời gian luôn công bằng với mọi người, ai trân quý, người đó thành công. 帚 HÁN VIỆT Chửu, trửu NGHĨA VIỆT Cái chổi TỪ GHÉP trúc trửu 竹帚, tảo trửu 扫帚 Chữ CHỬU帚là một chữ tượng hình mô tả hình ảnh bàn tay cầm một cái chổi. Ngày xưa, chổi thường làm bằng tre trúc, như trong một dị thể khác của CHỬU là 菷 có thêm bộ trúc竹 thể hiện chất liệu của chổi. Ngoài chất liệu tre ra còn chổi có thể làm từ lông của gia cầm hoặc từ các mảnh vải thô (trong chữ 帚 hiện đại có sự xuất hiện của bộ cân巾(vải)). 古 HÁN VIỆT Cổ NGHĨA VIỆT Cũ , xưa TỪ GHÉP cổ đại 古代 • cổ điển 古典 • cổ mộ 古墓 • cổ ngoạn 古玩 • cổ ngữ 古語 • cổ nhân 古人. Chữ CỔ古là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bao gồm phía trên là chữ THẬP十 (số mười), ở dưới là bộ KHẨU口 (cái miệng). Tính chất hội ý của chữ CỔ 古 là một câu chuyện được truyền từ đời này qua đời khác. Trong giáp cốt văn chữ CỔ được viết giống như hình hai cái miệng, trong đó cái miệng ở trên có một nét thẳng xuyên qua biểu thị ý nghĩa là câu chuyên được truyền từ miệng người này đến người khác, cũng có thể hiểu là từ thế hệ này đến thế hệ khác. Câu chuyện đó đã trở thành chuyện cũ, cổ xưa. Theo thời gian hình ảnh bộ KHẨU 口 với nét thẳng xuyên qua được thay thế bằng bộ THẬP 十 tạo thành chữ CỔ 古 như ngày nay, tính chất biểu ý của 古 vẫn được giữ nguyên. Các thành ngữ liên quan đến chữ cổ: CỔ VÃNG KIM LAI 古往今來 : là Xưa đi nay đến, có nghĩa là: Từ Xưa Đến Nay. Trong bài hát nói Chữ Nhàn của Nguyễn Công Trứ, có 2 câu thơ chữ Hán như sau: Ngã kim nhật tại tọa chi địa, 我今日在坐之地, Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi. 古之人曾先我坐之。 Có nghĩa : Chỗ mà ta đang ngồi ngày hôm nay đây, thì... Người của ngày xưa cũng đã từng ngồi ở nơi đây rồi! Ông bà ta cũng thường nhắc nhở con cháu là: Vô CỔ bất thành kim.無古不成今。 Có nghĩa : Không có ngày xưa thì sẽ không hình thành được ngày nay. Ý muốn nói: Không có xưa thì làm sao có nay cho được?! 鼓 HÁN VIỆT Cổ NGHĨA VIỆT Trống, đánh trống, cổ động TỪ GHÉP canh cổ 更鼓• cổ bồn 鼓盆 •鼓掌,cổ cầm 鼓琴 • cổ động 鼓动 • cổ động 鼓動 • cổ lệ 鼓勵 • cổ vũ 鼓舞 • cổ xuý 鼓吹 •. CỔ 鼓 là chữ dùng Tượng Hình để HỘI Ý, Giáp Cốt Văn là hình tượng của một người đứng bên tay phải, tay cầm dùi trống giơ cao để đánh vào cái dàn trống được kê trên giá, phía bên tay trái, nên CỔ 鼓 vừa có nghĩa là Cái Trống mà lại vừa có nghĩa là ĐÁNH TRỐNG nữa! Như "Trang Tử CỔ bồn ca" vậy. (Cổ Bồn: là đánh vào cái bồn như đánh trống vậy). CỔ 鼓 còn có nghĩa là Phát động, Xúi giục, làm cho phấn chấn lên, như: CỔ VŨ (VÕ) 鼓舞, CỔ XÚY 鼓吹: Hô hào thúc giục, CỔ LỆ 鼓勵 là Khuyến Khích, CỔ ĐỘNG 鼓動 là Phát động hô hào... CỔ TRƯỚNG 鼓脹: là Phình to như cái trống. Một loại bệnh về đường tiêu hóa, làm cho bụng cứ phình to lên như cái trống. HÀM BÔ CỔ PHÚC 含哺鼓腹: là Ngậm cơm vổ bụng, đây là thành ngữ chỉ sự No Ấm Sung Túc của dân chúng. Ngậm cơm: ý nói là đã no rồi mà còn có cơm trong miệng (nếu đói thì đã nuốt mất tiêu rồi). Vổ Bụng: là No đủ, lạc quan vổ bụng biểu lộ sự thỏa mãn. Theo Trang Tử Ngoại biên, Mã Đề quyển tứ trung 《庄子》外篇•卷四中《马蹄:「 Phù Hách Tư Thị chi thời, dân cư bất tri sở vi, hành bất tri sở chi, hàm bô nhi hi, cổ phúc nhi du, dân năng dĩ thử hỉ . 夫赫胥氏之时,民居不知所为,行不知所之,含哺而熙,鼓腹而游,民能以此矣。」Nghĩa đen: "Phàm vào đời các hách tư thị, dân cư không biết làm gì, đi không biết để tới đâu, ngậm cơm làm vui, vổ bụng dạo chơi, dân được như thế đấy." Có nghĩa là: "Vào thời các hoàng đế xa xưa, dân không phải làm lụng vất vả, khỏi phải bương chải nơi xa, lương thực đầy đủ, vổ bụng mà vui chơi, là thời thái bình thịnh tri nên dân mới được như thế!" Trong tác phẩm SÃI VÃI của Nguyễn Cư Trinh cũng dẫn lời của ông Sãi nói về cảnh thái bình thịnh trị như sau: Già phò gậy ra xem thịnh trị, Trẻ ngậm cơm mừng gặp thái bình... DẠ CỔ HOÀI LANG 夜鼓懷郎: là Đêm nghe tiếng trống mà nhớ chồng. Đây là một bản nhạc cổ do nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác, nói về tâm sự người vợ nhớ chồng lúc về đêm. Từ bản Dạ Cổ Hoài Lang mỗi câu 2 nhịp, các nghệ sĩ sau này chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp, mà thành bài vọng cổ đầu tiên. Nhưng, cái tên VỌNG CỔ lại có một ý nghĩa khác thâm thúy hơn... VỌNG CỔ 望古 : là Nhớ về, hướng về một nẽo hoặc một cái gì xa xưa nào đó... để mà nuối tiếc. DẠ CỔ HOÀI LANG là tên của một BẢN cổ nhạc, còn VỌNG CỔ là tên của một ĐIỆU hát của Cổ Nhạc, nhưng điệu hát Vọng Cổ là do Bản cổ nhạc Dạ Cổ Hoài Lang mà ra. CỔ CHƯỞNG 鼓掌 : là Vổ tay thật to (như tiếng trống vậy). CỔ THỦ 鼓手 : là Tay Trống. Ngày xưa là chững tay gióng trống thúc quân hoặc là những tay trống trong các lễ hội đình làng, còn ngày nay là những tay trống trong các ban nhạc tây, các timpanist, tất cả đều được gọi là CỔ THỦ 鼓手. 蠱 HÁN VIỆT Cổ NGHĨA VIỆT Trùng độc hại, bệnh cổ,… DẠNG KHÁC 蛊 TỪ GHÉP cổ độc 蠱毒 • cổ tật 蠱疾. Chữ Cổ 蠱 trong Tự-điển nghĩa là một giống trùng 虫 ở trong bụng làm cho người ta bị trướng, gọi là bệnh cổ trướng. Trong sách thuốc có nói: Phong, Lao, Cổ, Lại tứ chứng nan-y (bệnh ung nhọt, ho lao, cổ-trướng, cùi lở-lói là bốn chứng bệnh rất khó chữa). Cổ 蠱 cũng là một vật độc làm hại người, ai ăn phải thì sinh ra ngây-dại, mê- man. Cổ 蠱 theo chiết-tự có ba chữ trùng 虫 ở trên chữ mãnh 皿, mãnh là cái chậu; ba chữ trùng là có nhiều sâu bọ trong chậu, có nghĩa là tan rã ghê-tởm, hỗn-độn lúc nhúc như dòi vậy. Khi vật bỏ lâu ngày chẳng dùng thời sâu mọt sinh ra gọi bằng trùng cổ; người say đắm tửu sắc mà tật bệnh sinh ra gọi bằng bệnh Cổ. Thiên hạ trị an lâu ngày mà tệ hại sinh, gọi bằng cổ hoại. 固 HÁN VIỆT Cố NGHĨA VIỆT Kiên cố , vững chắc TỪ GHÉP cố chấp 固執 • cố định 固定 • cố thủ 固守 • củng cố 鞏固 • kiên cố 坚固. Chữ CỐ固(kiên cố), về mặt cấu tạo là một chữ hình thanh kết cấu trong ngoài. Bên ngoài là chữ VI囗 (bao vây) là bộ phận biểu ý, bên trong là chữ CỔ古(cũ , xưa) có tác dụng biểu âm. Chữ Cố liên quan đến chiến thuật phòng ngự của quân đội trung quốc xưa. Khi chinh phạt được một vùng đất nào đó, công việc đầu tiên của các quân vương là xây thành, đắp lũy, nhằm mục đích bảo vệ người dân, tránh sự xâm hại từ bên ngoài vào. Thành lũy được xây dựng bằng nhiều lớp, trên lại có lính canh gác nên được xem là rất kiên cố. Trong chữ CỐ bộ VI囗 là bộ phận tạo nghĩa, 囗là biểu tượng của tường thành vững chắc, kết hợp với âm đọc của chữ CỔ 古 tạo thành chữ固với nghĩa là kiên cố, vững chắc.   谷 HÁN VIỆT Cốc, dục, lộc NGHĨA VIỆT Hang núi, khe, cây lương thực TỪ GHÉP cốc phong 谷風 • cùng cốc 窮谷 • nhai cốc 崖谷 • quỷ cốc tử 鬼谷子 • sơn cốc 山谷 • u cốc 幽谷. Chữ CỐC谷là một chữ hội ý. Bao gồm hai bộ BÁT八(tám, nó là hình ảnh của một cây gậy bị bẻ gãy, (xem lại bài chữ bát)) và bộ KHẨU口(miệng, cũng có nghĩa là mở), khắc họa lại hình ảnh một đường đi giữa hai dãy núi (hai bên của hai chữ bát), chữ口được thêm vào với ý nghĩa là lối ra, lối thoát của thung lũng. Thung lũng có nguồn gốc là các con sông chảy giữa hai dãy núi, sau hàng triệu năm biến đổi địa chất, các dòng sông này khô cạn đi, để lộ ra một vùng đất trũng giữa hai dãy núi gọi là thung lũng. Các từ thường gặp với bộ CỐC là SƠN CỐC 山谷 là Hang Núi, U CỐC 幽谷 là Hang Núi Vắng Vẻ, KHÔNG CỐC 空谷 là Hang Núi trống lỏng... Đọc Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, ta cũng thấy có rất nhiều CỐC, như TUYỆT TÌNH CỐC 絕情谷 trong Thần Điêu Hiệp Lữ, nơi Tiểu Long Nữ nuôi rất nhiều ong mật màu trắng gọi là Ngọc Phong. ĐIỆP CỐC Y Tiên 蝶谷醫仙 trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, nơi thần y Hồ Thanh Ngưu ở có rất nhiều đàn bướm đẹp. ĐÀO CỐC Lục Tiên 桃谷六仙 trong Tiếu Ngạo Giang Hồ ở trong sơn cốc có trồng rất nhiều cây đào tiên... CỐC 谷 còn có nghĩa là Khó Khăn, như TIẾN THOÁI DUY CỐC 進退維谷, nghĩa giống như là TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN 進退兩難 là Tới Lui gì đều gặp phải khó khăn cả! 工 HÁN VIỆT Công NGHĨA VIỆT Công việc, thợ TỪ GHÉP bãi công 罷工 • bao công 包工 • công binh 工兵 • công cụ 工具 • công đoàn 工團 • công nghệ 工藝 • công nghiệp 工業 • công nhân 工人 • công tác 工作. Theo nhiều học giả, chữ CÔNG工 là chữ Hội Ý (cách giải thích khác là chữ tượng hình xin xem ở phía dưới) gồm 3 nét, nét ngang trên cùng tượng trưng cho trời, nét ở dưới là đất. Nét sổ ở giữa là biểu tượng của con người đứng thẳng, trong tư thế đầu đội trời, chân đạp đất. Con người chịu sự chi phối của trời đất, cùng trời đất phát huy đến cao độ ưu thế của con người so với các loài động vật khác trong vũ trụ. Chữ CÔNG 工là công cụ, công cụ do con người sáng tạo ra nhằm phục vụ nhu cầu của mình trong xã hội. Công cụ được phát minh từ đơn giản đến phức tạp, từ thô sơ đến hiện đại. Nó thể hiện bộ óc sáng tạo vô hạn của con người. Từ chữ CÔNG工 làm danh từ chỉ công cụ, nó phát triển thêm các nghĩa kháccó liên quan đến người thợ , sự khéo léo trong công việc…Trong chữ hán CÔNG 工cũng là hậu tố chỉ người như NHÂN CÔNG, VĂN CÔNG,…Chữ CÔNG 工cũng đóng vai trò làm định tố cho từ ghép chính phụ như CÔNG NHÂN, CÔNG TRÌNH, CÔNG CỤ,… Theo một cách giải thích khác, chữ CÔNG工 là một chữ Tượng Hình. Trong chữ Giáp Cốt, chữ CÔNG工 được khắc họa giống như một cái chày mà người xưa dùng để dựng tường (người xưa dùng đất sét đắp tường, dựng và khoét lỗ làm cửa sổ). Kỹ thuật này xuất hiện ở trung quốc vào thời kỳ văn hóa Long sơn, cách đây 4500 năm. Sau này chữ CÔNG工 phát triển thành nghĩa chỉ công cụ lao động nói chung. 公 HÁN VIỆT Công NGHĨA VIỆT Chung, công bằng TỪ GHÉP bất công 不公công bố 公佈• công chính 公正 • công chúng 公众 • công chúng 公眾 • công chức 公職• công cộng 公共. Chữ CÔNG公 là một chữ hội ý, Bao gồm chữ BÁT八 (hình ảnh của một thanh gậy bị bẻ làm đôi, xem lại bài phân tích chữ 八) và KHƯ厶 (một thòng lọng, xem lại bài phân tích chữ厶). Một thanh gậy gãy có ý nghĩa phân bổ, phân chia, trong khi thòng lọng có nghĩa là tài sản sở hữu riêng, khi BÁT 八và KHƯ厶 kết hợp với nhau, nó tạo ra ý nghĩa của thứ gì đó được chia cho mọi người, là thứ dùng chung, công khai. Một cái cho ra, một cái thu về, nên CÔNG có nghĩa là CÔNG BẰNG là vì thế. Nhưng nơi nào làm cái việc Công Bằng đó, chính là Cửa Công, là CÔNG MÔN 公門, tức là Cửa Quan, nhưng ở Cửa Quan ai là người cầm cân nẩy mực? Chính là các ông quan Tư Đồ, Tư Mã, Tư Không gọi là TAM CÔNG 三公. Ở nhà thì ai cầm cân nẩy mực, chính là Ông Nội Ông Ngoại. Ông Nội là NỘI CÔNG 內公, Ông Ngoại là NGOẠI CÔNG 外公. CÔNG còn có nghĩa là CHUNG như CÔNG CỘNG 公共 ngoài nghĩa Công Bằng ra... Các từ phát sinh là: Công Môn, Tam Công, Nội Công, Ngoại Công, Công Cộng là các từ GIẢ TÁ đó! Đặc biệt là từ CÔNG CÔNG 公公 để gọi các ông Thái Giám, vì những người này tự ái bởi bị thiến, mất đi Nam Tính, không có râu lại nói giọng eo éo giống đàn bà, nên thích được gọi bằng đàn ông hơn, và để thỏa mãn tự ái nên gọi luôn CÔNG CÔNG cho... sướng! 共 HÁN VIỆT Cộng, cung, củng NGHĨA VIỆT Cùng, như nhau, cộng TỪ GHÉP cộng đồng 共同 • cộng sự 共事 • cộng tác 共作 • tổng cộng 總共. Chữ CỘNG共 là một chữ hội ý, ở dạng cổ văn miểu tả hình hai bàn tay đang sử dụng công cụ, cũng có ý kiến cho rằng hai cánh tay biểu hiện cho hai người hay nhiều người cùng làm một việc gì đó, biểu trưng cho sự hợp sức cùng hoàn thành mục tiêu. Chữ CỘNG共 có nghĩa chính là hợp lại, chung, nghĩa mở rộng là cung cấp (âm cung) hay sự cung kính (âm củng) nhưng hai nghĩa như vậy đã được thay thế bằng 供và恭. Các cụm từ và thành ngữ với chữ CỘNG tiêu biểu có: CỘNG TÁC 共作 : là chung sức cùng làm một việc gì đó CỘNG ĐỒNG 共同: là thuộc về mọi người, của chung CỘNG HÒA共和 : là một thể chế chính trị, trong đó chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân. Người dân bầu cử những người chung tay lãnh đạo quốc gia theo luật định trong hiến pháp ngược lại với CHUYÊN CHẾ專制. ĐỒNG CAM CỘNG KHỔ 同甘共苦 : là Cùng Ngọt Cùng Đắng với nhau. Ta nói là : Cùng nhau Chia Ngọt Xẻ Bùi. BẤT CỘNG ĐÁI THIÊN 不共戴天 : nghĩa là không đợi trời chung. Thành ngữ này tương tự như thành ngữ:THẾ BẤT LƯỠNG LẬP 勢不兩立 骨 HÁN VIỆT Cốt NGHĨA VIỆT Xương, lõi, cốt cách, xác TỪ GHÉP chẩm cốt 枕骨 • chỉ cốt 指骨 • chi cốt 肢骨 • chuỳ cốt 椎骨 • chưởng cốt 掌骨 • cổ cốt 股骨 • cốt bồn 骨盆 • cốt cách 骨格 • cốt nhục 骨肉 CỐT 骨 là chữ Tượng Hình, trong cổ văn 骨 giống như là bộ xương người đã được lột hết thịt, nên CỐT 骨 là cái LÕI, là phần cứng để chống chọi và bảo vệ cho cơ thể được thẳng đứng. Từ kép của Cốt là CỐT CÁCH 骨胳, ta nói là Xương Cốt. Cốt Cách còn chỉ cái dáng vẻ bên ngoài của một con người, như trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã tả chị em Thúy Kiều là: Mai CỐT CÁCH, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. CỐT NHỤC 骨肉: là Xương Thịt, còn dùng để chỉ bà con anh chị em Ruột Thịt, có liên hệ huyết thống. Ta có thành ngữ CỐT NHỤC TÌNH THÂM 骨肉情深, CỐT NHỤC TƯƠNG TÀN 骨肉相殘 là Anh em hay bà con ruột thịt mà tàn hại lẫn nhau! MINH TÂM KHẮC CỐT 銘心刻骨 : là Chạm vào Tim, khắc vào Xương. Ta nói là "Ghi Lòng Tạc Dạ." Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều nói lời cảm tạ khi Từ Hải giúp nàng báo ân báo oán là: Chạm xương chép dạ xiết chi, Dễ đem gan óc đền nghì trời mây! CỐT 骨 còn chỉ những thứ giống như xương dùng để chống đỡ, như TẢN CỐT 傘骨 là Cái sườn sắt của cây dù. PHIẾN CỐT 扇骨 là Các Nan quạt bằng tre. CỐT 骨 còn chỉ cái Bản Chất bên trong, cái khí khái của con người được biểu hiện qua thơ văn, gọi là cái KHÍ CỐT 氣骨, như trong câu đối Tết của Trần Tế Xương: Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài; 極人間之品價,風月情懷, Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ KHÍ CỐT. 最世上之風流,江湖氣骨。 飢 HÁN VIỆT Cơ, ky NGHĨA VIỆT Đói nghèo, mất mùa DẠNG KHÁC 饥,饑 TỪ GHÉP cơ cùng 飢窮 • cơ hàn 飢寒 • cơ hoả 飢火 • cơ hoang 飢荒 • cơ khát 飢渴 • cơ khổ 飢苦 • cơ khu 飢驅 • cơ ngạ 飢餓 • phòng cơ 防飢 CƠ飢 là chữ Hình Thanh kết cấu trái phải, chữ bao gồm bên trái là bộ THỰC 飠biểu nghĩa và bên phải là CƠ 几 chỉ âm đọc. THỰC 飠là ăn, là tức ăn nên CƠ 飢 là không có đồ ăn, là Đói. Ta có các cụm từ và thành ngữ: CƠ HÀN 飢寒 : là Đói lạnh, chỉ sự nghèo khổ. Sống cảnh Cơ Hàn là chỉ Cảnh sống nghèo khổ. CƠ NIÊN 飢年 : là Năm đói, ý chỉ năm mất mùa. BÁN CƠ BÁN BẢO 半飢半飽 : Ta nói là Nửa Đói Nửa No. CƠ HỎA THIÊU TRƯỜNG 飢火燒腸 : là Cái đói như là lửa đang đốt ở trong ruột, làm người ta vật vã khó chịu. Nguyễn Gia Thiều đã viết trong Cung Oán Ngâm Khúc : Bệnh trần đoài đoạn tâm toan, LỬA CƠ ĐỐT RUỘT, dao hàn cắt da ! Ông bà ta cũng có để lại một câu : Tích cốc phòng CƠ, 積穀防飢, Dưỡng nhi phòng lão. 養兒防老. Có nghĩa : Tích trữ lúa gạo để phòng khi đói kém, còn... Nuôi con cho khôn lớn để phòng khi già cả bệnh tật có con cái chăm nom săn sóc. 句 HÁN VIỆT Cú, câu, cấu NGHĨA VIỆT Câu văn, câu nói TỪ GHÉP cú đoạn 句斷 • cú pháp 句法 • điệp cú 疉句 • giai cú 佳句 • kiệt cú 傑句, tuyệt cú 絶句. Chữ CÚ句là một chữ hội ý mô tả hai lưỡi câu móc vào nhau, cùng với đó là một cái miệng (口). Miệng biểu trưng cho ngôn từ, hai lưỡi câu móc vào nhau biểu tượng của sự móc nối hay sự liên kết. Trong một câu, một từ được nối với từ khác một cách liền mạch, vì vậy, CÚ句có nghĩa là CÂU. Chữ CÚ句 Có chung nguồn gốc với 勾, cả hai cũng có cùng ý nghĩa trong quá khứ. Ngày nay, CÚ 句 chủ yếu có nghĩa là câu văn. Các cụm từ và thành ngữ tiêu biểu với chữ CÚ : CÚ PHÁP 句法 : Là phép tắc viết câu văn, ngắt câu cho đúng. Cũng gọi là CÚ CÁCH格. ĐIỆP CÚ 疉句 : Câu thơ lặp lại. Chẳng hạn trong lối thơ liên hoàn, câu cuối bài trên được lập lại để thành câu đầu bài cuối. TUYỆT CÚ絶句 : Bài thơ Đường luật có 4 câu. Cũng gọi là Tứ tuyệt — Bài văn, câu thơ cực hay. TẦM CHƯƠNG TRÍCH CÚ 尋章摘句: Tìm từng lời, lấy ra từng câu từng chữ mà học, mà xét. Chỉ cái học hẹp hòi, chú trọng hình thức văn chương mà nhẹ về tư tưởng. 懼 HÁN VIỆT Cụ NGHĨA VIỆT Sợ hãi, kính cẩn, khép nép DẠNG KHÁC 惧 TỪ GHÉP chấn cụ 震懼 • cụ phạ 懼怕 • khủng cụ 恐懼 • nguy cụ 危懼 • uý cụ 畏懼 Chữ CỤ(懼) về mặt cấu tạo được hình thành bằng phép Hình Thanh, CỤ(懼) bao gồm bên trái là bộ Tâm đứng 忄chỉ ý và bên phải là chữ CÙ 瞿 chỉ âm đọc. Với bộ Tâm biểu nghĩa nên 懼 là một biểu hiện về cảm xúc và tình cảm của trái tim. CỤ (瞿) có nghĩa là sợ là một trong bảy thứ cảm xúc của con người (七情 thất tình): Hỉ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Cụ, Dục (Vui, Giận, Yêu, Ghét, Buồn, Sợ, Muốn). Sợ hay sợ hãi là cảm xúc tiêu cực xuất hiện từ việc nhận thức các mối đe dọa. Đây là một cơ chế tồn tại cơ bản xảy ra trong phản ứng với một kích thích cụ thể, chẳng hạn như đau hoặc đe dọa nguy hiểm đe dọa. ... Sợ hãi cũng có thể là một phản ứng tức thì đến một cái gì đó hiện tại đang xảy ra. Sợ là một cảm xúc tiêu cực tất nhiên nó không có lợi cho con người ta, vậy làm sao có thể hạn chế hay xoá bỏ nó khỏi cái tâm của một người ? Cổ nhân cho rằng “kẻ có dũng thì không biết sợ”. Trong “Luận ngữ”, Khổng Tử nói: “Trí giả bất hoặc; nhân giả bất ưu; dũng giả bất cụ”. Trí giả bất hoặc, tức bậc trí giả không có điều gì nghi ngờ, là vì người trí tuệ minh tỏ lý lẽ, thấu tỏ nhân quả, cho nên mới có thể không mê không hoặc. Nhân giả bất ưu, là vì nhân giả bằng lòng với số mệnh, mới có thể không buồn không lo. Dũng giả bất cụ, tức bậc dũng giả không sợ, là bởi vì người dũng cảm có thể kiềm chế mọi tác động bên ngoài, vậy nên mới có thể không sợ hãi. Chuyện xưa kể rằng: Xưa có một vị võ sĩ cầm đao chỉ vào một hòa thượng và nói : “Giờ ta sẽ giết ngươi, ngươi có sợ không?”. Vị hòa thượng trả lời : “Ta không sợ. Bởi vì giờ khi ngươi giết ta, ta lập tức lên Thiên đường, còn ngươi lập tức sẽ phải xuống Địa ngục”. Một người không mang tâm sợ hãi, mới có thể trở thành thánh nhân. Có thể thấy rằng nếu loại bỏ được tâm sợ hãi thì nhất định sẽ thông suốt con đường trở thành giác ngộ. Bởi vì, chỉ có người không có tâm sợ hãi, mới có thể không vì cưỡng bức hay đe dọa mà dao động thay đổi, mới có thể vứt bỏ sinh tử trước mắt, mới có thể dũng cảm tiến tới, không chỗ nào không sợ. Cuối cùng thành tựu chính mình. Để tiêu trừ tâm sợ hãi không phải một lần là xong, mà là một quá trình tu sửa lâu dài. Phật giáo cho rằng, đối với các loại cảm xúc của chính mình, ví như sân hận, đố kỵ, ưu sầu, lo lắng, nhớ nhung… cũng cần phải tu chỉnh. Đối với lạnh, nóng, gió, mưa, đói, khát, lão, bệnh, tử… đều có thể thản nhiên mà sinh sống, không sinh tâm sợ hãi, không sinh ra cảm xúc dao động. Kỳ thực, không chỉ ác quỷ mới khiến người ta sợ hãi, mà áp lực công việc , hoàn cảnh không thích hợp… đều khiến người ta sinh tâm sợ hãi. Chỉ có kiên định tín ngưỡng mới có thể khiến người ta không còn sợ hãi nữa, không chỉ rời xa sợ hãi, mà thất tình lục dục, tam giới hữu tình cũng đều rời xa. Có một câu chuyện xưa, kể rằng: Có một bác thợ săn mang theo con chó đi săn thú, ông ta đã bắn trúng chân sau một con thỏ nhỏ. Con thỏ bị thương bắt đầu liều mạng chạy trốn, chó săn cũng lập tức đuổi theo không chịu bỏ cuộc. Đuổi được một lúc, con thỏ chạy trốn càng lúc càng xa. Con chó biết đuổi theo không kịp, đành phải hậm hực trở về bên cạnh chủ. Người thợ săn mắng: “Ngươi thật vô dụng, ngay cả một con thỏ bị thương cũng không đuổi kịp!”. Con chó săn nghe xong thấy không phục, nói: “Tôi chạy hết sức rồi!”. Con thỏ mang theo vết thương bị súng bắn bỏ chạy thành công… Về nhà, các anh em nhà thỏ đều vây lại hỏi nó: “Con chó săn kia thật hung ác, cậu lại đang bị thương, vì sao mà chạy thoát được vậy?”. Con thỏ nói: “Nó là chạy hết sức, còn tôi là chạy hết toàn lực của mình! Nó không đuổi theo tôi, cùng lắm chỉ bị mắng một trận, còn tôi không toàn lực mà chạy thì chỉ có mất mạng!”. Như vậy toàn lực ứng phó là một loại dũng mãnh tinh tấn. Trong cuộc đời mỗi con người, khó tránh khỏi những thử thách và phản đối, các loại mâu thuẫn hay va chạm. Lúc này, chỉ cần đúng mục đích, đúng lựa chọn thì hãy đi làm, hãy kiên trì và kiên định, bởi vì dũng cảm không sợ, dũng cảm tất thắng. 宮 HÁN VIỆT Cung NGHĨA VIỆT Nhà của vua, cung điện TỪ GHÉP âm cung 陰宮 • ẩn cung 隱宮 • cấm cung 禁宮 • chánh cung 正宮 • cung điện 宮殿 • cung đình 宮廷. Chữ CUNG 宮có thể hiểu là một chữ Tượng Hình. Ở thể cổ văn chữ miêu tả một ngôi nhà với các gian phòng (cũng có người hiểu là các ô cửa sổ). Chữ CUNG 宮 có nghĩa ban đầu là nhà cửa, phòng ốc. Ngày xưa nhà của người giàu hay người nghèo đều gọi là CUNG. Từ đời Tần, Hán trở đi, chỉ có nhà của vua ở mới gọi là CUNG. Mặt khác, ngày xưa, những gì liên quan tới nhà vua đều gọi là CUNG cả. Như: bà hoàng hậu gọi là CHÍNH CUNG正宮, các phi tần gọi là LỤC CUNG六宮, thái tử gọi là TRỪ CUNG儲宮 hay ĐÔNG CUNG東宮, các hầu gái ở trong cung gọi là CUNG NỮ宮女, lối ăn mặc trong cung gọi là CUNG TRANG宮裝. Sau này, nhà xây tường cao mà trên uốn cong xuống gọi là CUNG, nhà của vua ở và nhà để thờ thần đều gọi là CUNG. 窮 HÁN VIỆT Cùng NGHĨA VIỆT Nghèo, khốn khó,… DẠNG KHÁC 穷 TỪ GHÉP bần cùng 貧窮 • cố cùng 固窮 • cơ cùng 飢窮 • cùng bách 窮迫 • cùng cực 窮極 • cùng dân 窮民 • cùng đinh 窮丁. Chữ CÙNG窮 ở dạng chính thể 窮 gồm bộ HUYỆT (穴 – cái hang), kết hợp với chữ THÂN (身 – người) và chữ CUNG (弓 – khom lưng). Người xưa cho rằng nhà nghèo lụp xụp, muốn vào trong nhà thì phải khom lưng, cũng có nghĩa là nghèo khó (xem chữ giáp cốt, triện văn). Chữ CÙNG ở dạng giản thể “穷”gồm chữ HUYỆT (穴) và chữ LỰC (力). Ý nói rằng chỉ cần có năng lực và sự nỗ lực, bạn sẽ có nhà để ở. Chữ CÙNG 窮 ngoài nghĩa nghèo khó còn có nghĩa là Triệt để, tận lực, đến cùng. Như: CÙNG CỨU窮究 nghiên cứu đến cùng, CÙNG TRUY BẤT XẢ窮追不捨 truy xét tận lực không thôi Các cụm từ và thành ngữ liên quan đến chữ CÙNG 窮 tiêu biểu có: CÙNG ĐINH 窮丁 : người nghèo khó. Như Cùng dân 窮民. CÙNG QUẪN 窮窘: Nghèo khổ quá, hoặc ở bước đường cùng, rối loạn không biết tính sao. SƠN CÙNG THỦY TẬN 山窮水盡 : Nơi đầu núi cuối sông, chỉ nơi cực xa xôi, không còn nơi nào xa hơn nữa. CÙNG KHẤU VẬT TRUY 窮寇勿追 : Giặc tới đường cùng thì chớ nên đuổi. Ý nói đừng nên dồn người khác tới bước đường cùng, chỉ có hại cho mình. CÙNG ĐIỂU NHẬP HOÀI 窮鳥入懷 : Con chim tới bước cùng thì cũng bay vào lòng người. Ý nói tới bước khốn cùng thì cũng nhờ cậy người khác. 廾 HÁN VIỆT Củng, nhập, trấp NGHĨA VIỆT Chắp hai tay TỪ GHÉP Bộ thủ tạo chữ. Chữ CỦNG廾là một chữ Hội Ý mô tả hai bàn tay chụp vào nhau. Nghĩa gốc của chữ CỦNG廾là chắp tay nhưng ý nghĩa đó được thay bằng拱. Chúng ta hiếm khi thấy chữ CỦNG廾 xuất hiện với vai trò chữ đơn tạo từ ghép. CỦNG廾được sử dụng chủ yếu với vai trò là bộ thủ tạo chữ hán. 九 HÁN VIỆT Cửu NGHĨA VIỆT Số 9 TỪ GHÉP cửu chương 九章 • cửu chương toán pháp 九章算法 • cửu đỉnh 九鼎 • cửu long 九龍. CỬU九được thể hiện Là một chữ thập có thêm đường cong kèm theo, chữ thập là điểm kết thúc hoặc đích trong khi đường cong được đại diện cho tuyến đường quanh co đến đích đó. Ý nghĩa ban đầu của chữ九là để đi đến tận cùng, nhưng ý nghĩa đó sau này đã được thay thế bằng究, bây giờ九có nghĩa là số chín. Mười là số sau chín, mười là số lớn nhất có thể đếm được bằng tay người, đó là số lớn nhất, vì vậy chín là số cận cùng nét cong của chữ CỬU 九cũng thể hiện ý nghĩa đó. Các cụm từ và thành ngữ thường gặp: CỬU CHƯƠNG : có 2 nghĩa : 1. Ngày xưa áo mũ thiên tử trang sức chín loại hình vẽ, gọi là “cửu chương” 九章, gồm có: “long, san, hoa trùng, hỏa, tông di, tảo, phấn mễ, phủ, phất” 龍, 山, 華蟲, 火, 宗彝, 藻, 粉米, 黼, 黻. 2. Tên một phép tính của Trung Hoa thời cổ. Còn gọi là CỬU CHƯƠNG TOÁN PHÁP 九章算法 — Tên một phép toán nhân gồm chín bảng của Phương Tây, trẻ bậc tiểu học phải học. CỬU HỒI TRƯỜNG 九迴腸: Ruột thắt chín lần, chỉ mối lo nghĩ. CỬU TUYỀN 九泉: ta nói là nơi chín suối CỬU TỬ NHẤT SINH 九死一生: Chín phần chết một phần sống, ý nói nguy hiểm lắm. CỬU BẢN DƯƠNG TRƯỜNG 九坂羊腸 : Chín lớp đường núi quanh co như ruột dê. Chỉ đường đời rắc rối. 臼 HÁN VIỆT Cữu NGHĨA VIỆT Cối giã TỪ GHÉP cữu pháo 臼礮 • cữu xỉ 臼齒 • cữu xử 臼杵 • thao tỉnh cữu 操井臼 CỮU 臼 là chữ Tượng Hình , Đại Triện Tiểu Triện là hình tượng của cái cối xay lúa, bên trong có 4 nét tượng trưng cho các răng cối để nghiền cho lúa bóc vỏ ra. Diễn tiến đến chữ viết hiện nay vẫn còn hình tượng của cái vầng xay và CỮU 臼 chỉ tất cả các loại CỐI XAY chứ không riêng gì cối xay lúa. CỮU XỈ 臼齒 : là Răng Cối, bây giờ ta gọi là Răng Hàm, là những cái răng có mặt to, giữa hơi trũng xuống, ở hai bên hàm trên và hàm dưới, dùng để nhai nghiền thức ăn. CỮU CHỮ CHI GIAO 臼杵之交 : Chỉ Mối giao tình giữa Chày và Cối, khắng khít không thể rời xa được. Ở đâu có CỐI thì ở đó có CHÀY! Dân Nam Kỳ Lục Tỉnh cũng có câu nói ví von là: "Phảng ở đâu thì Cù Nèo ở đó" để chỉ sự khắng khít của tình nghĩa vợ chồng: "Chồng ở đâu thì Vợ ở đó." 究 HÁN VIỆT Cứu NGHĨA VIỆT Kết quả, suy xét tỉ mỉ TỪ GHÉP khảo cứu 考究 • nghiên cứu 研究 • tra cứu 查究 • truy cứu 追究. Chữ CỨU究 là một chữ hình thanh kết cấu trên dưới bên trên là chữ HUYỆT穴 (hang động) là thành phần chỉ ý, bên dưới là CỬU 九 (số chín) là thành phần chỉ âm. Công tác nghiên cứu đòi hỏi phải có thái độ thực sự cầu thị, đào sâu suy nghĩ. Vấn đề một khi chưa được làm sáng tỏ, nó chính là một điều bí hiểm, có thể hình dung như một cái hang sâu thăm thẳm. Nghiên cứu một vấn đề cần thực sự vào cuộc. vào cuộc ở đây hình dung như một người bước vào hang vậy, càng vào sâu càng tối, tưởng như không có lối ra. Song, một khi kiên trì thẳng tiến, phía bên kia hang sâu đã được khai thông và ánh sáng sẽ lóe lên, kết thúc một chặng đường tìm tòi khám phá. 夜 HÁN VIỆT Dạ NGHĨA VIỆT Ban đêm TỪ GHÉP dạ hành 夜行 • dạ học 夜學 • dạ khách 夜客 • dạ lai hương 夜來香, dạ quang 夜光 • dạ sắc 夜色 • dạ vũ 夜雨. Chữ DẠ夜 là một chữ hội ý, trong cổ văn nó mô tả một người đàn ông đang nằm duỗi hai tay hai chân với ý chỉ là người này đang nằm ngủ, bên phải anh ta là ánh trăng và một đường chỉ vào nách của người đàn ông này. Nghĩa gốc của夜là nách, nách được che kín, nên夜có ý nghĩa là bóng tối, hình ảnh mặt trăng được thêm vào với ý chỉ đây là ban đêm. Các cụm từ và thành ngữ liên quan: NHẬT DẠ日夜: ngày và đêm, ý nói là nguyên cả ngày. DẠ QUANG 夜光 : Sáng trong ban đêm — Chỉ mặt trăng — Một tên chỉ con đm đóm — Tên một loại ngọc quý, chiếu sáng trong đêm. DẠ LAN HƯƠNG 夜來香: Tên một loại cây có hoa trắng, ban đêm rất thơm ( Pergularis Ordosatiss ma ). DẠ KHÁCH 夜客: Người khách trong đêm, chỉ kẻ trộm. 名 HÁN VIỆT Danh NGHĨA VIỆT Tên, danh tiếng TỪ GHÉP ác danh 惡名 • ái danh 愛名 • • báo danh 報名 • biệt danh 别名 • bút danh 笔名• cải danh 改名 • danh ca 名歌 • danh cầm 名琴. Chữ DANH名là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bao gồm phía trên là bộ TỊCH夕 (chiều tối) và bộ KHẨU口 (miệng). Khi hai người gặp nhau lúc chiều tối, vì không thể thấy rõ mặt nhau nên họ phải gọi lớn tên để xác định người đối diện. DANH là tên là danh tiếng của một người. các cụm từ và thành ngữ thường gặp: CÔNG DANH 功名: Sự việc lập được và tiếng tăm có được MẠO DANH 冒名: Mượn tên tuổi, tiếng tăm của người khác để mưu lợi riêng cho mình. DANH NGÔN 名言: lời nói hay, thường là lời nói của một nhân vật có danh tiếng. CÔNG THÀNH DANH TOẠI 功成名遂: sự nghiệp và tiếng tăm đã được như ý muốn. HÔ DANH KHIẾU TRẬN 呼名叫陣: Khi hai bên dàn trận, gọi đích danh đối phương thách đánh. Thường chỉ hành vi trực tiếp khiêu khích. DANH HOA HỮU CHỦ 名花有主:“Danh hoa” 名花 ngày xưa chỉ người con gái đẹp. Ngày nay “danh hoa hữu chủ” 名花有主 thường tỉ dụ người con gái đã thuộc về một người nào rồi. Ta thường nói là “hoa đã có chủ” 弋 HÁN VIỆT Dặc NGHĨA VIỆT Bắn, chiếm, bộ dặc TỪ GHÉP Một trong 214 bộ thủ, xuất hiện thường xuyên trong cấu tạo các chữ hán. Chữ DẶC弋 là một chữ tượng hình, mô tả lại một loại vũ khí thời Trung Quốc cổ đại, đây là một loại súng bắn đá có cấu tạo rất thô sơ, ban đầu sử dụng chủ yếu để săn bắn chim, sau đó phát triển về kích cỡ và tầm xa và được phổ biến trong quân đội. Đây là đại diện tiêu biểu cho các bộ thủ, chữ hán có liên quan đến vũ khí sau này như QUA戈 (cây mác cán dài) hay VIỆT戉 (búa lớn). Có thể thấy, hình thể các chữ này đều có nguồn gốc từ chữ DẶC弋. 淫 HÁN VIỆT Dâm NGHĨA VIỆT quá mức, quá thừa,buông thả, bừa bãi,mê,…. TỪ GHÉP cưỡng dâm 強淫 • dâm dật 淫泆 • dâm dục 淫慾 • dâm đãng 淫蕩. DÂM (淫) trong chữ Nho xưa bao gồm ba chấm Thủy và chữ DÂM (㸒). Trong đó chữ DÂM (㸒) có nghĩa cổ là tục tĩu, tham lam. Ba chấm Thủy thể hiện sự tràn đầy, dư thừa, nên chữ DÂM (淫) còn để nói về những gì thái quá, dư thừa không cần thiết. Về việc quan hệ giữa người nam và người nữ, nếu không phải là để duy trì nòi giống như thiên chức của những người đã thành vợ chồng, thì mọi quan hệ ngoài luồng liên quan đến tính dục đều bị gọi là DÂM. Đó là một việc làm tham lam hay chính là sự mất kiểm soát của dục vọng, là hoạt động thừa thãi không cần thiết, bởi nó vượt ra khỏi ý nghĩa của hoạt động tự nhiên giúp duy trì nòi giống. Khi đã vượt quá mức cho phép và trở nên bừa bãi phóng túng thì sẽ dẫn đến tà. Nên từ DÂM còn có một nghĩa khác là tà, là không chính. 民 HÁN VIỆT Dân, miên NGHĨA VIỆT người dân, người, dân,… TỪ GHÉP an dân 安民• bình dân 平民 • chúng dân 眾民 . Chữ DÂN民là một chữ tượng hình, phẩn trên là hình một con mắt phần dưới là hình cái dùi đục. ChữDÂN民 đã tái hiện lại một cách đơn giản nhất mà cũng đầy đủ nhất về hình thức sử dụng nô lệ theo kiểu bóc lột, cưỡng bức như một công cụ đơn thuần của chủ nô. Sử sách cũng ghi chép về hình thức bóc lột nô lệ đến dã man, tàn bạo này của giai cấp thống trị. Để tiện cho việc cai trị và sử dụng nô lệ, đồng thời để dễ dàng phân biệt giữa nô lệ và chủ nô,tất cả những người bị bắt về làm nô lệ đầu tiên đều bị chủ nô dùng dùi đục khoét mù một mắt. Con mắt, bàn tay, khối óc của con người luôn được coi là biếu tượng về trí thông minh, sáng tạo, sự khéo léo trong việc cải tạo xã hội và làm chủ thế giới. Vậy mà mọi nô lệ đều mặc nhiên nhiên bị cướp mất con mắt bên trái. Mất con mắt trái là tiêu chí để phân biệt giữa nô lộ và chủ nô. Từ nghĩa là nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, “Dân” chuyển thành nghĩa chỉ tất nhữngngười không thuộc tầng lớp thống trị Phong kiến. Do đó, dân đồng nghĩa với bị trị. Trong xã hội cũ, trừ vua chúa, quan lại, quý tộc ra, trí thức, nông dân, công nhân, thương nhân đều được gọi chung bằng một danh từ là “tứ dân”.. Tứ dân gồm sĩ, nông, công, thương. Trong bốn hoạt động cơ bản, bốn ngành nghề trong xã hội cũng là lực lượng trực tiếp tạo ra mọi thành quả của xã hội, thúc đẩy nền kinh tế. Trong cuốn "Từ chữ nhân", Tiêu Khởi Hồng căn cứ vào Kim văn, giải thích rằng,‘chữ Dân là hình tượng người lao động dùng mắt quan sát mầm chồi hoa màu mới nảy’. Chứng tỏ người dân quanh năm với việc trồng cấy họ luôn quan tâm đến thành quả lao động, lừ lúc gieo mầm đến khi thu hoạch. Vốn là một nước nông nghiệp là chính, lại thường xuyên đối mặt với thiên tai, no ấm đã từng là ưóc vọng ngàn đời của Người dân Trung Quốc. Cái lẽ “quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi thiên”(Nước lấy dân làm gốc, dân lấy cái ăn làm đầu) cũng xuất phát từ lẽ đó. Trong tiếng Hán cổ đại, có sự phân biệt giữa NHÂN và DÂN, NHÂN là chỉ tầng lớp quý tộc, thượng lưu, có vị thế xã hội, còn DÂN chỉ dân đen. Đến xã hội hiện đại, người ta chủ trương xoá bỏ giai cấp, đề xướng bình đẳng, bác ái nên mới có từ ghép NHÂN DÂN chỉ chung cho mọi quần chúng trong xã hội. 酉 HÁN VIỆT Dậu NGHĨA VIỆT Dậu (ngôi thứ 10 hàng chi), gà, họ dậu TỪ GHÉP Bộ thủ chữ hán DẬU 酉 là chữ tượng hình, trong cổ văn DẬU 酉 là hình tượng của một cái hủ bằng sành dùng để đựng chất lỏng, để ủ rượu, ủ giấm, nên tất cả các chữ được ghép bằng bộ DẬU 酉 đều có liên quan tới rượu (là chữ “tửu” 酒 cổ), tới giấm, tới chất lên men, như :TỬU 酒 là Rượu, THỐ 醋 là Giấm, TƯƠNG 醬 là Tương đượu ủ bằng đậu... DẬU 酉 là ngôi thứ mười của Thập Nhị Địa Chi, phối hợp với Thập vị Thiên Can dùng để chỉ năm Âm Lịch, như năm 2017 là năm ĐINH DẬU 丁酉, còn nạn đói năm ẤT DẬU 乙酉 là năm 1945. DẬU NGUYỆT 酉月 là Tháng Tám Âm lịch, ta gọi là Tháng Dậu. DẬU THÌ 酉時 là Giờ Dậu, là từ 5 đến 7 giờ chiều tối. 異 HÁN VIỆT Dị, di NGHĨA VIỆT Khác, lạ, đặc biệt DẠNG KHÁC 异 TỪ GHÉP dị biệt 異別 • dị cảnh 異境 • dị dạng 異樣 • dị đoan 異端 • dị giáo 異教. Chữ DỊ異là một chữ tượng hình mô tả một người đàn ông với cái đầu rất lớn, hình dạng cái đầu trong giống như chữ QUỶ鬼(cũng được miêu tả với một cái đầu rất lớn). Cùng với cái đầu lớn và gương mặt gớm ghiếc, chữ DỊ異 trong kim văn còn được nhấn mạnh bằng đôi tay có móng vuốt. Tất cả những hình ảnh này khắc họa một người đàn ông dị dạng. Vì vậy, nghĩa của異 là khác lạ hay QUÁI DỊ. Các cụm từ và thành ngữ thường gặp: LẬP DỊ 立異: Làm ra vẻ khác người, không thích giống người khác. KINH DỊ 驚異: Thấy quái lạ mà sợ hãi. DỊ KIẾN 異見: chỉ kiến giải riêng biệt, khác thường, ý kiến không giống nhau. DỊ ĐOAN : Niềm tin tưởng khác lạ, chỉ lòng tin không chính đáng.Ngày xưa nhà nho gọi các học thuyết, học phái khác là “dị đoan” 異端. ĐỒNG SÀNG DỊ MỘNG 同床異夢: nằm cùng giường mà mơ lại khác nhau. Ý nói cùng sinh sống hoặc cùng nhau làm việc nhưng ý kiến bất đồng, mỗi người đều có dự tính riêng. ĐẢNG ĐỒNG CÔNG DỊ 黨同攻異: Kết phe với kẻ giống mình mà đánh, chống lại người khác mình. Nói về kẻ tiểu nhân. ĐẠI ĐỒNG TIỂU DỊ 大同小異:Đại cương giống nhau, chỉ khác nhau chút ít không đáng kể. 面 HÁN VIỆT Diện, miến NGHĨA VIỆT Gương mặt, bề mặt, phía bên TỪ GHÉP diện mạo 面貌 • diện mục 面目 • diện tích 面積 • đại diện 代面 • đầu diện 頭面, đối diện 對面 DIỆN 面 là một chữ Tượng Hình, Giáp Cốt Văn là hình của cái Mặt, bên trong có hình con mắt, cả Đại Tiểu Triện về sau, phía bên trong vẫn là chữ MỤC 目 là Con mắt. Điều nầy chứng tỏ từ xưa người ta đã thấy được " Mắt là cửa sổ của tâm hồn " nên trên khuôn mặt, không bao giờ thiếu được CON MẮT. Nên từ kép DIỆN MỤC 面目 là để chỉ Mặt Mày, Mặt Mũi. CHÂN DIỆN MỤC 真面目 là Mặt Mũi Thật, là Bộ Mặt Thật, là BẢN LAI DIỆN MỤC 本來面目 là Bộ mặt vốn có ... của ai đó nên DIỆN còn thể hiện cho Mặt Mũi Phong Cách của con người, như THỂ DIỆN 體面. DIỆN 面 là Bên, là Mặt, như: TẢ DIỆN 左面 là Bên trái, HỮU DIỆN 右面 là Bên phải, TIỀN DIỆN 前面 là Mặt trước, HẬU DIỆN 後面 là Mặt sau. ĐỐI DIỆN 對面 là Ngang mặt. DIỆN 面 là Bề mặt của sự vật, như BIỂU DIỆN 表面 là Bề Mặt. ĐỊA DIỆN 地面 là Mặt Đất. THỦY DIỆN 水面 là Mặt Nước... DIỆN 面 còn là Gặp gỡ, Thấy mặt. như KIẾN DIỆN 見面 là Gặp mặt, HỘI DIỆN 會面 là Gặp Gỡ giống như từ HÔI NGỘ vậy. Ta có các từ ĐẢO như sau: DIỆN KIẾN 面見: là Đích thân mình đi gặp mặt ai đó, cũng có nghĩa là Chính mắt mình nhìn thấy Ai đó hoặc Cái gì đó. DIỆN ĐỐI 面對 là Đang đối mặt với Ai đó hoặc Việc gì đó. DIỆN BÍCH 面壁 là Day mặt vào Vách; đây là một cách tu Thiền của Phật gia. Trong truyện võ hiệp của Kim Dung thì khi các đệ tử trong môn phái phạm phải lỗi lầm, sẽ bị phạt DIỆN BÍCH TƯ QÚA 面壁思過 là Ngồi xoay mặt vào vách để xám hối về những lầm lỗi của mình đã gây ra. DIỆN ĐÀM 面談 : là Đàm thoại trao đổi tận mặt với nhau. DIỆN THIỆN 面善 : là Quen mặt. Ngoài ra, ta còn có một lô thành ngữ về chữ DIỆN mà ta đã biết qua như : Bạch diện thư sinh 白面書生, Nhân diện đào hoa 人面桃花, Mãn diện xuân phong 滿面春風, Tam đầu lục Diện 三頭六面, Ngưu đầu mã Diện 牛頭馬面 ... Bây giò thì ta nói tới một thành ngữ mới : TỨ DIỆN SỞ CA 四面楚歌 : là Bốn mặt đều là bài ca của nước Sở. Ý chỉ bốn bề đều thọ địch, hết phương xoay xở, thua là cái chắc! Theo tích sau đây: Năm 202 trước Công Nguyên, trong trận chiến Cai Hạ, Sở Bá Vương Hạng Võ bị quân của Lưu Bang, Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bố vây chặc bốn phương tám hướng. Quân Hạng Võ tuy tinh nhuệ nhưng it hơn, lại thiếu thốn lương thực. Ban đêm lại nghe tiếng sáo Trương Lương và những bài dân ca nước Sở vang lên bốn phía. Quân của Hạng Võ nhớ nhà xuống tinh thần bỏ trốn rất nhiều. Hạng Võ thấy thế cuộc đã thua đến nơi, cùng với ái thiếp là Ngu Cơ uống rượu trong trướng hát lên bài hát Cai Hạ bi tráng: 力拔山兮氣蓋世。 Lực bạt sơn hề khí cái thế. 時不利兮騅不逝。 Thời bất lợi hề chuy bất thệ. 騅不逝兮可奈何! Chuy bất thệ hề khả nại hà ! 虞兮虞兮奈若何! Ngu hề Ngu hề nại nhược hà ! Có nghĩa : Ta có sức nhổ cả núi hề... hào khí trùm cả cuộc đời, nhưng... Thời cuộc bất lợi cho ta, ôi, ngựa Chuy cũng không chịu chạy. Ngựa Chuy không chịu chạy nầy...ta biết phải làm sao đây? Ngu Cơ, Ngu Cơ ơi ... Ta biết phải làm thế nào đây?!!! Nàng Ngu Cơ cũng hòa theo mà ngâm rằng : 漢兵已略地, Hán binh dĩ lược địa, 四面楚歌聲。 Tứ diện Sở ca thinh. 大王意氣盡, Đại vương ý khí tận, 賤妾何聊生。 Tiện thiếp hà liêu sinh! Có nghĩa : Binh nhà Hán đầy cả mặt đất (bủa vây tứ phía!)... Bốn mặt đều vọng về những bài dân ca nước Sở. Ý chí của Đại Vương cũng đã nhục hết rồi, thôi thì... Tiện thiếp còn muốn sống cô đơn vô vị nữa mà chi!!! Cuối cùng, Hạng Võ bại binh ở Cai Hạ, rồi tự tử ở bến Ô Giang. Sử không có ghi chép gì về nàng Ngu Cơ, nhưng giới văn nghệ sĩ đời sau khi ngâm vịnh hay viết tuồng tích đều cho nàng Ngu Cơ tuẫn tiết chết theo Hạng Võ Sở Bá Vương cả!  贏 HÁN VIỆT Doanh NGHĨA VIỆT Được, thắng,… DẠNG KHÁC 赢 TỪ GHÉP doanh du 贏輸 Chữ “贏” Doanh mang nghĩa Thắng” trong tiếng Hán được hợp thành bởi 5 chữ: 亡- Vong, 口- Khẩu, 月- Nguyệt, 貝– Bối, 凡 – Phàm. Với 5 chữ này đã giải thích rõ ràng rằng người thắng cần phải có đủ 5 tố chất. 1. Chữ “亡 – Vong”: Kiến thức về nguy cơ Thân là người thắng, bất cứ lúc nào cũng phải luôn ý thức được những nguy cơ tiềm ẩn mà mình có thể gặp phải. Kể cả khi đang tiến bước mạnh mẽ đến mục tiêu, họ cũng luôn chuẩn bị trường hợp xấu nhất, luôn cảnh giác và có sự chuẩn bị để ứng phó. 2. Chữ “口- khẩu”: Năng lực giao tiếp Một người thắng, thường không phải là đơn đả độc đấu mà đạt được thành tựu. Vì thế năng lực giao tiếp có tác dụng vô cùng quan trọng.Những người thắng luôn biết tận dụng khả năng giao tiếp khôn ngoan khéo léo của mình, biết tạo ra sự hài hòa cân đối trong tập thể, phát huy được hiệu quả tổng thể, nhờ đó mà đạt được thành tựu. 3. Chữ “月 – Nguyệt”: Ý thức về thời gian Chữ “月 – Nguyệt” tức là mặt trăng, người xưa sử dụng tuần trăng để tính thời gian (ngày âm lịch), vì thế “月 – Nguyệt” là biểu trưng cho thời gian. Những người thắng trên thế giới luôn hiểu được sự quý giá của thời gian, vì thế lúc nào họ cũng chạy đua với thời gian, để xem ai lợi hại hơn.Người thắng luôn tận dụng triệt để thời gian, sử dụng nó vô cùng tinh tế. Còn người thua thì có đặc điểm chung là luôn lãng phí thời gian. 4. Chữ “貝 – Bối”: Kiếm tiền cũng phải có đạo Trong tiếng hán chữ “貝 – Bối” có một nghĩa là “取財有道 – Thủ tài hữu đạo”, tức là kiếm tiền cũng phải thuận theo đạo lý, không làm những việc trái với lương tâm. Những người thắng không tiếp cận lợi ích với một tầm nhìn hạn hẹp, không vì lợi ích mà làm những chuyện nguy hại cho xã hội. Họ hiểu được thế nào là bền vững và lâu dài, vì thế họ sẽ làm ăn đường đường chính chính, từng bước từng bước vững vàng tiến tới. Nếu kiếm tiền bất chính, thì cũng tương đương với đang tự hủy diệt mình. 5. Chữ “凡 – Phàm”: Giữ được tâm thái bình thản Người ta thường nói phàm trần, phàm tục, chữ “凡 – Phàm” ở đây nghĩa là bình dị bình thản. Nhiều người quá coi trọng được mất, chính vì thế rất dễ bị kích động, để rồi cứ luôn phải ở trong vòng luẩn quẩn không tìm được lối ra, rất lâu không thể bình phục lại được. Người thắng khi đối mặt những điều bất lợi hay khó khăn thì sẽ luôn giữ đượctâm thái bình thản để đối đãi, khi mọi chuyện không suôn sẻ họ sẽ biết tự điều chỉnh lại tâm tâm thái của mình, để rồi vượt lên trở lại. Nguyên lai của chữ “贏 – Thắng” chính là hợp thành của 5 yếu tố trên. Vì vậy hãy rèn luyện chúng để trở thành người chiến thắng. 聿 HÁN VIỆT Duật NGHĨA VIỆT Cây bút, cây viết TỪ GHÉP Bộ thủ tạo chữ xuất hiện rất thường xuyên. Chữ DUẬT 聿 là một chữ tượng hình mô tả một bàn tay đang cầm bút, 聿có nghĩa ban đầu là cây bút, nhưng ý nghĩa như vậy đã được thay thế bằng BÚT筆 (xem bài chữ筆), Ngày nay, chúng ta hiếm khi sử dụng 聿 với vai trò là chữ đơn, chữ 聿 xuất hiện rất thường xuyên với vai trò là bộ thủ. 育 HÁN VIỆT Dục NGHĨA VIỆT Nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục,… TỪ GHÉP dưỡng dục 養育 • đức dục 德育 • giáo dục 敎育. Về cấu tạo chữ DỤC育, các học giả ngôn ngữ cho rằng, quan sát hình dạng chữ ban đầu, chữ DỤC育gồm hai phần tạo thành, phần trên giống như hình người mẹ trong tư thế chuẩn bị sinh con. Phần bên dưới rất giống hình đứa trẻ vừa lọt lòng mẹ (xem giáp cốt và kim văn). Thông thường, trẻ sơ sinh từ bụng mẹ ra ngoài, bao giờ đầu cũng ra trước. Đó là tư thế thuận. Quan sát chữ trong giáp cốt và kim văn cho phép ta thừa nhận phán đoán này là có căn cứ. Quan điểm này còn nhấn mạnh trong kim văn, ta còn thấy mấy nét chấm nhỏ là biểu tượng của huyết dịch khi cuộc sinh nở diễn ra. Như vậy có thể coi DỤC育là một chữ tượng hình, vẽ lại toàn cảnh cuộc sinh nở. Nghĩa gốc của DỤC育là sinh sôi nảy nở. Đứa trẻ từ khi còn nằm trong bụng mẹ, đã tiếp thu những tinh hoa của cơ thể mẹ để lớn lên từng ngày. Sự nuôi dưỡng ấy là tự nhiên, không cần tác độngcủa bất cứ hành vi nào. Sau chín tháng thai nghén, đứa trẻ ra đời, lúc đầu chưa thể tự tồn tại được, mà cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ. Kết quả là đứa trẻ dần lớn lên, dần hoàn thiện về thể chất. Về sau, chữ DỤC育,từ nghĩa là sinh thành nuôi dưỡng, phát triển thành nghĩa bồi dưỡng trau dồi, trong các từ giáo dục, trí dục, thể dục,… Đạo làm con ghi nhớ công ơn của cha mẹ thường nhắc đến câu “công sinh thành dưỡng dục”. Cha mẹ nuôi con không chỉ quan tâm đến sự trưởng thành về thể chất mà còn đặc biệt quan tâm đến việc dạy dỗ những kỹ năng sống và những hiểu biết văn hóa. Do đó DỤC育thường đi liền với GIÁO教tạo thành từ ghép giáo dục thể hiện sự đào luyện, trau dồi, nuôi dạy thế hệ trẻ một cách toàn diện về cả thể chất và tinh thần. 欲 HÁN VIỆT Dục NGHĨA VIỆT Ham muốn TỪ GHÉP dục vọng 欲望 • sắc dục 色欲 • tam dục 三欲 • tiết dục 節欲 • tính dục 性欲 • tình dục 情欲. Theo nghiên cứu về lịch sử nguồn gốc chữ hán, có hai quan điểm về ý nghĩa trong cấu tạo chữ DỤC欲. Trước hết DỤC欲là một chữ hình thanh, gồm chữ CỐC谷 (khe núi) và KHIẾM欠(thiếu, thở) hợp thành. Bộ KHIẾM 欠đứng riêng lẻ tạo thành một chữ đơn theo nguyên tắc tượng hình. Quan sát hình dạng của chữ giáp cốt, ta có thể hình dung nó rất giống với hình một người đang há miệng ngáp, thở. Dạng chữ tiểu triện lại khắc họa hình dưới giống chữ NHÂN 人,phía trên giống như luồng hơi do con người thở ra. Từ đó chuyển thành nghĩa là thiếu hụt. Chữ DỤC 欲 do bộ khiếm biểu nghĩa, với ý nghĩa là thiếu thì nảy sinh ham muốn. Không khí là yếu tố vô cùng cần thiết cho sự sống. Người ta có thể nhịn ăn, nhịn uống nhưng không thể không thở. Một số học giả khác cho rằng, chữ DỤC 欲bao gồm bên trái là bộ CỐC 谷(ngũ cốc). Bên phải là bộ KHIẾM欠 (thiếu). Xuất phát từ một nước nông nghiệp nghèò nàn, lạc hậu, cơm no áo ấm là ước mơ của người dân Trung Quốc. Ham muốn đầu tiên của con người xuất phát từ nhu cầu thỏa mãn về ăn uống. Cổ nhân vẫn thường nói : “quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi thiên” (nước lấy dân làm gốc, dân lấy cái ăn làm đầu). Dân gian lại có câu : “có thực mới vực được đạo”. Tất cả đã nói lên vai trò của cơm áo gạo tiền với nhu cầu đời sống của người dân. Dần dần, chữ DỤC đã phát triển chỉ chung cho sự ham muốn trên mọi phương diện cuộc sống, chẳng hạn trong các từ ghép : dục vọng, nhục dục, sắc dục… Khổng Tử nói “Ẩm thực nam nữ, Nhân chi đại dục tồn yên” (ăn uống và quan hệ nam nữ là nơi tàng ẩn sự ham muốn cao độ của con người). Vì thế, trong cuộc sống, những ham muốn chính đáng cần được thỏa mãn. Ngược lại, những cám dỗ bất chính cần được gạt bỏ. 用 HÁN VIỆT Dụng NGHĨA VIỆT Dùng, tác dụng TỪ GHÉP chuyên dụng 專用• công dụng 公用 • dụng cụ 用具 • dụng độ 用度• gia dụng 家用 • lợi dụng 利用. DỤNG用là một chữ Tượng Hình, có nguồn gốc là hình ảnh của một cái thùng đựng nước. Nghĩa gốc chỉ cái thùng đựng nước, nhưng ý nghĩa như vậy sau này đã được thay thế bằng桶. Ngày nay, 用được dùng với nghĩa là sử dụng hoặc tác dụng.Các từ thường gặp là : DỤNG CỤ 用具 : là Đồ Dùng, chỉ chung tất cả những đồ dùng trong cuộc sống hàng ngày. Người Việt gọi là VẬT DỤNG 物用 (Người Hoa không biết từ nầy, đây là từ Hán Việt của người Việt ); người Hoa gọi Vật Dụng là DỤNG PHẨM 用品. SỬ DỤNG 使用 : là từ kép của DÙNG. DỤNG TÂM 用心, DỤNG Ý 用意 : là Dùng lòng dùng ý của mình. ý chỉ : Nhằm vào một Mục Đích nào đó. Còn có nghĩa lá CÓ Ý, là CỐ Ý, như câu nói trong Tăng Quảng Hiền Văn : DỤNG TÂM kế giảo ban ban thác, 用心計較般般錯, Thoái bộ tư lường sự sự nan. 退步思量事事難。 Có nghĩa : CỐ Ý tính toán hơn thiệt từng chút một, thì việc gì cũng hỏng cả (Tính gìa ra non). Còn cứ... Chùng bước mà suy tới tính lui hoài, thì việc gì cũng thấy khó khăn cả! (Không làm được gì cả!) DỤNG BINH 用兵 : là Dùng Binh. Ý chỉ Biết điều khiển quân đội để đánh giặc cho có hiệu quả. DỤNG BINH NHƯ THẦN 用兵如神 : Chỉ những người dùng binh thật giỏi, như Tôn Võ Tử, Gia Cát Khổng Minh.... DỤNG VÕ 用武 : là Dùng Võ Lực để giải quyết vấn đề. DỤNG VÕ còn có nghĩa là Thi thố tài năng của mình, như : Không có đất DỤNG VÕ là Không có điều kiện để thi thố khả năng của mình. Đất Dụng Võ tức là DỤNG VÕ CHI ĐỊA 用武之地. PHÍ DỤNG 费用 : là Số tiền được tiêu dùng vào việc gì đó. VÔ DỤNG 無用 : Không dùng được, là Bất tài, là Vô ích, là không nên Thân như lời mắng : " Thứ đồ Vô Dụng !". BẤT DỤNG 不用 : Khỏi Phải. Như BẤT DỤNG THUYẾT 不用說 : là Khỏi Phải Nói. BẤT DỤNG KHỨ 不用去: là Khỏi Phải Đi... BẤT KHIỂN DỤNG 不遣用 : là Khổng thể điều động để sử dụng được, cũng có nghĩa là : Không còn sử dụng được nữa. CẢM TÌNH DỤNG SỰ 感情用事 : là Xử lý công việc bằng tình cảm. Những người Cảm Tình Dụng Sự rất dễ bị người khác lợi dụng sự mềm yếu và dễ dãi của mình 藥 HÁN VIỆT Dược NGHĨA VIỆT Thuốc, chữa bệnh,… DẠNG KHÁC 药 TỪ GHÉP bổ dược 補藥 • bộc dược 爆藥 • cao dược 膏藥. Trong chữ Hán phồn thể chữ DƯỢC藥 có nghĩa là thuốc. Bên trên là bộ THẢO với hình dạng 艸…, là tượng trưng cho thảo mộc, cỏ cây, dược liệu mà người xưa sử dụng đều là cây cỏ. Ở dưới là chữ LẠC樂 tức là niềm vui. Thân thể có bệnh khó chịu vô cùng, sau khi dùng thuốc thì cơ thể trở nên thoải mái, thân tâm an lạc. Đó là hàm nghĩa của chữ DƯỢC藥. Chữ DƯỢC giản thể 药 vẫn giữ nguyên bộ thảo ở bên trên, nhưng chữ LẠC樂 ở dưới lại bị đổi thành chữ ƯỚC約, nghĩa là ước thúc, trói buộc, gò bó,… hoàn toàn không giống với ý nghĩa ban đầu. 陽 HÁN VIỆT Dương NGHĨA VIỆT Đối lập với Âm, Mặt trời,Dương thế,… DẠNG KHÁC 阳, 昜 TỪ GHÉP An Dương Vương 安陽王 • Âm cực dương hồi 陰極陽回 • Âm dương 陰陽,… Chữ DƯƠNG陽bên trái có bộ PHỤ阝tức là núi đất, bên phải có chữ NHẬT日đứng trên chữ NHẤT一, tạo thành hình ảnh mặt trời mọc. Bên dưới là chữ VẬT勿mang ý nghĩa vạn sự vạn vật được mặt trời chiếu sáng. Chữ DƯƠNG陽thường đi liền với chữ ÂM陰tạo thành hai mặt đối lập. Bởi có DƯƠNG và ÂM, nên mới có sáng và tối, ngày và đêm, nóng và lạnh, thiện và ác, tốt và xấu, trong và đục… Từ Thái Cực mà sinh ra hai khí Âm Dương, Dương phát tán còn Âm thì tụ hội, cho nên Âm Dương bổ sung và tương trợ cho nhau, đặc tính trái ngược nhau nhưng không tương hại, tương khắc mà tương hòa, tương sinh mà tương diệt. 容 HÁN VIỆT Dung NGHĨA VIỆT Tha thứ, bao dung, khoan dung, Bao hàm, dung chứa, chứa đựng,… TỪ GHÉP dung thứ 容恕 • bao dung 包容 • bất dung 不容 Chữ DUNG容gồm bộ MIÊN宀nghĩa là mái nhà, chữ BÁT八nghĩa là số 8, chữ NHÂN人nghĩa là người, và chữ KHẨU口nghĩa là miệng. Kết hợp lại, chữ DUNG giống như một căn nhà tuy chật chội nhưng vẫn chứa được “8 người”. Đây cũng chính là nói đến tấm lòng: chỉ cần luôn bao dung rộng mở thì có thể đón nhận được muôn người. Ở một khía cạnh khác, “bát nhân” cũng là tám kiểu người mà chúng ta cần phải bao dung: “Thân nhân” (người thân), “Hữu nhân” (người bạn), “Lộ nhân” (người qua đường), “Ái nhân” (người vợ, chồng), “Lân nhân” (người hàng xóm), “Ác nhân” (người xấu), “Cừu nhân” (người thù địch) và “Ngu nhân” (người ngu ngốc). 養 HÁN VIỆT Dưỡng, dượng, dường, dạng NGHĨA VIỆT Nuôi dưỡng, sinh sản, chăm sóc,… TỪ GHÉP an dưỡng 安養 • bổ dưỡng 補養 • bồi dưỡng 培養 • cấp dưỡng 給養 • dinh dưỡng 營養 • dưỡng dục 養育. Chữ DƯỠNG養trong Giáp Cốt và Kim Văn miêu tả một con dê (𦍌) bên cạnh nó là một bàn tay đang cầm một ngọn roi, với tính chất hội ý chữ miêu tả việc cầm roi để chăn dắt dê. Bắt đầu từ chữ triện văn trở đi, hình ảnh hình ảnh bàn tay cầm roi được thay thế bằng bộ thực食, ý nghĩa của chữ vẫn là養 chăn nuôi súc vật. Về sau chữ養 mở rộng nghĩa thành sinh đẻ, nuôi nấng, phụng dưỡng…dùng cho cả người. Các cụm từ thường gặp là: TU DƯỠNG 修養: Tu trì hàm dưỡng học vấn đạo đức. ĐIỀU DƯỠNG 調養: Nuôi nấng chăm sóc cho thân thể được bình thường. Người chăm bệnh nhân gọi là Điều dưỡng viên. ẨM THỰC LIỆU DƯỠNG 飲食療養:ăn kiêng, ăn theo chế độ, theo liệu trình. 多 HÁN VIỆT đa NGHĨA VIỆT Nhiều, phần nhiều, dư TỪ GHÉP đa biến 多變 • đa cảm 多感 • đa dạng 多樣 • đa dâm 多淫 • đa đảng 多党• đa đoan 多端. Chữ ĐA多là một chữ hội ý có kết cấu trên dưới, bao gồm hai biến thể của bộ NHỤC肉 (thịt). Chữ多miêu tả hai miếng thịt để song song với nhau. Trong tiếng hán số hai tượng trưng cho số nhiều nên多biểu thị ý nghĩa là nhiều hay dư thừa. Cách dùng hai ba sự vật giống nhau để biểu thị ý nghĩa nhiều ta còn thấy trong các chữ phẩm品, lâm林, sâm森 ,…. 打 HÁN VIỆT Đả, tá NGHĨA VIỆT Đánh đập TỪ GHÉP ẩu đả 敺打 • công đả 攻打 • đả ấn 打印 • đả bại 打敗 • đả chế đả đảo 打倒 • đả động 打動 • Chữ ĐẢ打(đánh) là một chữ Hình Thanh kết cấu trái phải. Trong đó, bộ THỦ扌(tay) bên trái có tác dụng biểu ý, bộ ĐINH丁(người) bên phải có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. THỦ 扌là tay, 扌 khi tham gia tạo chữ hán là thành phần chủ thể cho các nghĩa liên quan đến hành động của tay. Với vai trò là thành phần biểu nghĩa扌kết hợp với âm đọc của chữ 丁 tạo thành chữ ĐẢ 打 với nghĩa là đánh đập. Các cụm từ và thành ngữ thường gặp: ĐẢ THƯƠNG 打傷: Đánh cho ai đó bị thương. ĐẢ LÔI ĐÀI 打擂臺: Lập nơi thi võ nghệ để so tài hơn kém — Đến thi võ nghệ để so hơn kém. ĐẢ ĐẢO 打倒: Đánh đổ. Đánh cho ngã xuống. Chỉ sự phản kháng mạnh mẽ VÔ TINH ĐẢ THÁI 無精打采:Uể oải, rã rời, mất tinh thần. Tương phản với: “tinh thần đẩu tẩu” 精神抖擻, “tinh thần hoán phát” 精神煥發, “tinh thần dịch dịch” 精神奕奕, “hứng cao thái liệt” 興高采烈, “hứng trí bột bột” 興致勃勃. 歹 HÁN VIỆT Đãi, ngạt NGHĨA VIỆT Xấu xa, tệ hại TỪ GHÉP Vai trò chính là bộ thủ tạo chữ hán. Chữ ĐÃI歹là một chữ tượng hình mô tả một cái hộp sọ của người chết. 歹là biến thể của 歺Gồm 卜 and 夕. 卜Là hình ảnh của vết nứt, 歺là hình ảnh của hộp sọ, vì vậy歺là hình ảnh của hộp sọ có vết nứt, có ý nghĩa của thương tích hoặc sự chết chóc. Thời cổ đại người ta thường dùng hình ảnh chiếc đầu lâu và xương xẩu để tượng trưng cho ma quỷ, tội ác hay những điều xấu xa. Ta có các cụm từ: HẢO ĐÃI 好歹 : là Tốt Xấu. ĐÃI ĐỘC 歹毒 : là Độc ác, Xấu xa, Nham hiểm. ĐÃI ĐỒ 歹徒 : là Kẻ Xấu, là Người Gian ác. Tiêu biểu cho bộ ĐÃI có chữ TỬ 死 : là Chết, là Hồn lìa khỏi xác. 隶 HÁN VIỆT Đãi, lệ NGHĨA VIỆT Phụ thuộc, lối viết của chữ LỆ TỪ GHÉP ĐÃI 隶 là chữ Hội Ý. Theo Thuyết Văn Giải Tự - ĐÃI : Cập dã, Tòng hựu tòng vĩ tỉnh, hựu trì vĩ giả tòng hậu cập chi dã. 及也,从又从尾省,又持尾者从后及之也。——《说文》Có nghĩa: Đãi là Kịp, là theo từ phía sau, rồi từ phía sau vượt lên kịp phía trước, nên ĐÃI là ĐUỔI KỊP; ta có từ ĐÃI BỘ 逮捕 là Đuổi theo để Bắt lấy, nghĩa thông dụng của hiện nay ĐÃI BỘ có nghĩa là Bắt Lấy mà thôi. Hiện nay, ĐÃI 隶 được viết như thế nầy 逮 (có bộ XƯỚC để chỉ bước đi), và ĐÃI được mượn theo lối Giả Tá để làm chữ LỆ 隸 viết theo Giản Thể 隶. LỆ 隶 là Lệ Thuộc, là một hình thức Nô Dịch ngày xưa, ta thường gọi là NÔ LỆ 奴隸. LỆ THUỘC 隸屬 : là Chiụ sự điều động sai khiến bởi ai đó hoặc bởi cấp nào đó, tức là TRỰC THUỘC 直屬 vào cấp nào đó hoặc ai đó. LỆ 隸 còn là tên của một loại Thư Pháp gọi là LỆ THƯ 隸書, có xuất xứ như sau : Sau khi thống nhất đất nước, trong chính sách thống nhất văn tự gọi là THƯ ĐÔNG VĂN 書同文 là Viết cùng một loại chữ viết; Tần Thủy Hoàng ngoài việc ra lệnh cho Thừa Tướng Lý Tư hệ thống lại chữ Tiểu Triện, còn tiếp nhận thêm kiểu chữ đơn giản hơn, gọn gàng hơn của Trình Mạc. TRÌNH MẠC 程邈 tự là Nguyên Sầm, người đất Hạ Đỗ, là quan cai ngục trong huyện, sau phạm tội, bị nhốt vào ngục ở Vân Dương. Trong ngục, rảnh rổi ông thấy chữ Tiểu Triện có kết cấu và các nét viết phức tạp, bèn nghĩ cách kéo thẳng các nét ra, bỏ phức tạp lấy đơn giản, biến nét tròn thành nét vuông, sửa đổi trên 3000 chữ dâng lên vua. Tần Thủy Hoàng xem xong, rất vừa ý, chẳng những tha tội mà còn phong cho ông làm quan Ngự Sử, đồng thời ra lệnh tất cả công văn giấy tờ đều phải theo loại chữ đơn giản nầy; vì là chữ của một NÔ LỆ trong ngục tạo ra, cho nên mọi người gọi kiểu chữ đơn giản nầy là LỆ THƯ 隸書, và gọi Trình Mạc là LỆ THƯ CHI TỔ 隸書之祖 là Ông Tổ của Lệ Thư. LỆ THƯ 隸書 là hậu thân của TIỂU TRIỆN 小篆 và là tiền thân của KHẢI THƯ 楷書 là lối chữ chính quy các nhà trường đang cho học sinh tập viết hiện nay, phát sinh từ đời Tấn có nhà thư pháp Vương Hi Chi nổi tiếng với LAN ĐÌNH THIẾP 蘭亭帖 mà Cụ Nguyễn Du đã mượn lời của Hoạn Thư khen Thúy Kiều khi cô đang chép kinh ở Quan Âm Các là: Khen rằng bút pháp đã tinh, So vào với thiếp Lan Đình nào thua! 旦 HÁN VIỆT đán NGHĨA VIỆT Sáng sớm, ngày TỪ GHÉP xuân đán春旦, nguyên đán 元旦.bình đán 平旦chính đán 正旦 • đán đán 旦旦 • đán mộ 旦暮 • đán nhật 旦日 • đán tịch 旦夕 • muội đán 昧旦. Chữ ĐÁN旦là một chữ tượng hình, vẽ lại hình ảnh mặt trời vừa nhô lên khỏi mặt đất. Nét ngang “一”ở dưới tượng trưng cho mặt đất, giống như trong chữ TAM三 ba nét tượng trưng cho tam tài gồm trời , con người và đất, nét vẽ dưới cùng biểu trưng cho mặt đất. Mặt trời vừa mới nhú lên biểu thị một ngày mới bắt đầu. Vì vậy, chữ đán có nghĩa là buổi sáng sớm. Ngoài ra, mỗi ngày chỉ có một buổi sáng cho nên chữ 旦 phát triển thêm nghĩa chỉ một ngày. Trường hợp phát triển nghĩa theo dạng này cũng gặp ở chữ “Xuân” và chữ “Thu”. “Xuân”, “Thu” ngoài nghĩa chỉ một mùa trong năm còn có nghĩa là một năm, như trong từ thiên thu (ngàn năm). Sở dĩ có cách gán này là bởi vì mỗi năm chỉ có một mùa thu hay một mùa xuân (mùa xuân , thu chỉ xuất hiện một lần trong năm). Chữ ĐÁN với nghĩa chỉ ngày xuất hiện trong chữ Nguyên đán元旦với nghĩa gốc là ngày đầu năm (元 là đầu tiên, 旦 là ngày). 島 HÁN VIỆT Đảo NGHĨA VIỆT Đảo, cù lao TỪ GHÉP bán đảo 半島 • côn đảo 崑島 • đảo quốc 島國 • hải đảo 海島• quần đảo 羣島 • tam đảo 三島 Chữ ĐẢO 島 là một chữ Hình Thanh kiêm Hội Ý, bao gồm biến thể của ĐIỂU 鳥 (chim) và SƠN 山 (đồi, núi). Một hòn đảo nằm trên biển phẳng, trông giống như một ngọn đồi nhọn trên đồng bằng. Mặt khác, hòn đảo được bao quanh bởi nước, chỉ có chim mới có thể bay tới đó, vì vậy hình ảnh một con chim đứng trên đỉnh đồi được sử dụng để đại diện cho島. 道 HÁN VIỆT Đạo, Đáo NGHĨA VIỆT Đường, Dòng, Chân lí, Tôn giáo, Tư tưởng,… DẠNG KHÁC 噵 TỪ GHÉP đạo nghĩa 道義 • đạo nhân 道人 • đạo pháp 道法 • đạo sĩ 道士 Chữ ĐẠO道, bắt đầu bằng hai nét phết (丷) tượng trưng cho Âm – Dương, cùng với chữ NHẤT (一) tạo thành ‘Âm Dương hợp nhất’. Bên dưới là chữ TỰ (自), trên dưới kết hợp lại tạo thành chữ THỦ (首) là khởi thủy, ban đầu, đứng đầu. Vũ trụ cũng bắt nguồn từ một thứ nguyên thủy nhất rồi mới sinh ra vạn sự vạn vật. Kinh Dịch viết: “Dịch có Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái sinh Ngũ Hành”, từ ngũ hành ấy mà vạn vật mới xuất sinh. Bên trái chữ ĐẠO là bộ SƯỚC (辶) nghĩa là chạy, bước đi, biểu thị sự vận chuyển không ngừng. Như vậy, bên trong Đạo đã bao hàm cả Âm và Dương, tĩnh và động, động thì không ngừng sinh hóa, tĩnh thì thanh tịnh vô vi. Chữ ĐẠO 道 là Con Đường, được mượn (giả tá) để chỉ Đạo là ĐẠO GIÁO. ĐẠO lại có nghĩa là NÓI rằng. Như: - ĐẠO LỘ 道路 là Đường Đi, Đường Lộ. - ĐẠO PHẬT, ĐẠO THIÊN CHÚA, ĐẠO HỒI... - VĂN ĐẠO 聞道 là Nghe Nói Rằng, như trong bài TẠP THI của Thẩm Thuyên Kỳ đời Đường: VĂN ĐẠO Hoàng Long thú, 聞道黃龍戍, Tần niên bất giải binh. 頻年不解兵 Có nghĩa : * Nghe Nói Rằng những người lính thú ở thành Hoàng Long * Suốt mấy năm ròng vẫn chưa được cho giải ngũ về nhà. Mở đầu ĐẠO ĐỨC KINH của Lão Tử là câu : Đạo khả Đạo, phi thường Đạo. 道可道, 非常道。 Danh khả Danh, phi thường Danh. 名可名,非常名。 Có nghĩa : * Cái ĐẠO mà có thể NÓI (thuyết giảng) được, thì không phải là cái ĐẠO thường. * Cái TÊN gọi mà có thể GỌI TÊN được, thì cũng không phải là cái TÊN thường. Chữ DANH 名 là TÊN cũng được dùng theo lối Giả Tá, bấy giờ DANH là Động Từ, có nghĩa là GỌI TÊN. 燈 HÁN VIỆT Đăng NGHĨA VIỆT đèn DẠNG KHÁC 灯 TỪ GHÉP đăng hiệu 燈號 • đăng hoả 燈火 • đăng hoa 燈花 • đăng tháp 燈塔 • điện đăng 電燈 • hải đăng 海燈. Chữ ĐĂNG燈 là một chữ hình thanh kết cấu trái phải. Trong đó, bộ HỎA火 (ngọn lửa) bên trái có nhiệm vụ biểu thị ý nghĩa, chữ ĐĂNG 登 (lên, bay lên) bên phải có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. HỎA 火 là ngọn lửa, biểu tượng cho ánh sáng. Với vai trò biểu nghĩa chính trong cấu tạo chữ ĐĂNG 燈 kết hợp với âm đọc của tạo thành chữ ĐĂNG 燈 với nghĩa là đèn. Chữ ĐĂNG灯 ở dạng giản thể cũng là một chữ hình thanh bao gồm bộ hỏa biểu thị nghĩa và chữ ĐINH丁biểu thị âm đọc. Chữ ĐĂNG 灯dễ làm chúng ta liên tưởng đến hình ảnh cây đèn được treo trên một cây gậy trong những lễ hội rước đèn hoặc những buổi tuần đêm của lính canh. 豆 HÁN VIỆT Đậu NGHĨA VIỆT hạt đậu, cây đậu, bộ đậu TỪ GHÉP đậu bính 豆餅 • đậu hủ 豆腐 • đậu nha 豆芽 • đậu tương 豆漿 • xích đậu 赤豆. Chữ ĐẬU豆 là một chữ Tượng Hình miêu tả lại một cái bát đậu, cái bát tiện bằng gỗ để đựng vật phẩm vật cúng tế ngày xưa, loại vật dụng này có chân cao, có nắp đậy, ngoài tác dụng đựng đồ cúng tế còn là vật dụng sử dụng trong đời sống hằng ngày khác. Ý nghĩa ban đầu của豆là cái bát đậu. Tuy nhiên, ngày nay ĐẬU 豆chỉ có nghĩa là đậu (giả tá) và nghĩa gốc ít khi người ta dùng đến. 帝 HÁN VIỆT Đế NGHĨA VIỆT Vua chúa TỪ GHÉP đại đế 大帝 • đế chế 帝制, đế vương 帝王 • hậu đế 后帝• hoàng đế 黃帝, ngũ đế 五帝. Chữ ĐẾ帝có cội nguồn gắn liền với xã hội thị tộc mẫu hệ. Đó là một chữ hội ý kết cấu trên dưới. Dạng sơ khai của chữ ĐẾ帝gồm bên trên là hình tam giác cân, đỉnh hướng xuống dưới, là ký hiệu của giới tính nữ (xem bài phân tích chữ bất). Tiếp đó là một nét ngang có hai nét sổ ngắn hai bên, biểu thị ý nghĩa xuyên qua vách ngăn. Phía dưới hình giống chữ TIỂU小. Các học giả ngôn ngữ cho rằng, đó là biểu tượng người phụ nữ trong tư thế sinh con. Nhờ đó mà các thế hệ có thể nối tiếp nhau, có cùng một huyết mạch, một cội nguồn. Trong quá trình diễn tiến của chữ từ giáp cốt đến thể triện, biểu tượng hình tam giác vẫn được duy trì. Chỉ từ dạng chữ khải trở đi, biểu tượng đó mới bắt đầu mờ nhạt, còn thể hiện bằng một nét chấm và một nét phẩy nối nét ngangbên trên. Phần dưới biến thành bộ CÂN巾 (khăn), mất đi dấu ấn ban đầu. Chữ ĐẾ 帝 đã thể hiện sự kính ngưỡng bậc tổ nữ của con người trong xã hội thị tộc mẫu hệ, khi mà con sinh ra chỉ biết mẹ. Từ nghĩa là bậc thủy tổ nữ giới của loài người, chữ ĐẾ 帝 có nghĩa phát sinh là các bậc thần linh trong ý niệm trừu tượng. Sau đó lại phát triển nghĩa chỉ các thủ lĩnh trong các bộ tộc hoặc các bậc vua chúa đã qua đời. Ngày nay cụm từ các bậc tiên đế mà ta vẫn thường nói cũng có nguồn gốc từ đó. Trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, trước thời Chu đã xuất hiện nghĩa chỉ các bậc quân vương của chữ ĐẾ 帝. Sau khi diệt nhà Thương, nhà Chu lên ngôi, Chu thiên tử được xưng là Vương mà không xưng là Đế. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, Tần Doanh Chính tự nhận thấy công đức to lớn của mình và lại khôi phục cách xưng đế. Từ đó HOÀNG ĐẾ lại được dùng để xưng hô các bậc quân vương. 地 HÁN VIỆT Địa NGHĨA VIỆT Trái đất, đất TỪ GHÉP địa bàn 地盤 • địa bì 地皮 • địa cầu 地球 • địa chấn 地震 • địa chất 地質 • địa chỉ 地址 • địa chí 地志 • Trước hết cần phân biệt thổ土và địa 地. Thổ là mặt đất hoặc những thứ có liên quan đến đất, còn thứ đựng chứa muôn vật trên cõi đời gọi là địa, chữ địa cũng dùng để chỉ trái đất (địa cầu) . Như vậy trong địa đã bao gồm cả thổ, cũng có thể nói rằng thổ được tạo nên từ địa. Về mặt cấu tạo chữ ĐỊA地là một chữ hình thanh, kết cấu trái phải. Trong đó, bộ THỔ 土 (đất) có nhiệm vụ biểu nghĩa cho chữ, bộ Dà 也 có tác dụng biểu thị âm đọc. Như đã phân tích ở trên THỔ 土chủ thể về các nghĩa liên quan đến đất, kết hợp với âm đọc của也tạo thành chữ ĐỊA地. Chữ ĐỊA地từ nghĩa là chỉ trái đất hay đất, mở rộng thành nghĩa chỉ khu vực, vị trí, từ nghĩa này lại phát sinh nghĩa chỉ Tâm ý, chỗ ý chí đạt tới như: “tâm địa” 心地hay “kiến địa” 見地 . 點 HÁN VIỆT Điểm NGHĨA VIỆT Chấm, nốt, hạt, chỉ định TỪ GHÉP cao điểm 糕點• chỉ điểm 指點cực điểm 極點 • đặc điểm 特點 • địa điểm 地點 • điểm chỉ 點指 • điểm danh 點名 • điểm huyệt 點穴 • giao điểm 交點 • khởi điểm 起點 ĐIỂM點 thuộc dạng chữ Hình Thanh kết cấu trái phải, chữ bao gồm bên trái là bộ HẮC 黑biểu nghĩa kết hợp với bên phải là chữ CHIÊM 占trong “chiêm tinh” tạo thành. HẮC 黑 vốn miêu tả một bếp lò đang cháy với một ống khói tỏa ra khói đen. HẮC 黑là màu đen nên ĐIỂM 點 với bộ HẮC 黑 biểu ý có nghĩa là “Chấm mực”, vừa là Động từ vừa là Danh từ như ĐIỂM NHẤT ĐIỂM 點一點 là Chấm một Chấm. Câu đối mà Đoàn Viết Luân ra cho em gái là Đoàn Thị Điểm khi bà đang ngồi xăm soi trước gương là: Đối kính họa mi, nhất điểm khuyên thành lưỡng điểm. 對鏡畫眉, 一點圈成兩點, Có nghĩa: Trước gương kẻ mày, một chấm sẽ thành hai chấm. Khi thấy ông anh đang đứng ngắm trăng trên bờ ao, bà đã đối đáp rất khéo là : Lâm trì ngoạn nguyệt, nhất luân biến tác song luân. 臨池玩月,一輪變作雙輪。 Có nghĩa : Bờ ao ngắm trăng, một vầng sẽ biến hai vầng. (Một vầng trên trời, một vầng rọi bóng dưới ao nước) Ta có Mạo từ NHẤT LUÂN NGUYỆT 一輪月 là Một Vầng Trăng, anh của bà lại tên LUÂN, nên có nghĩa là Một anh Luân ở trên bờ, còn một anh Luân ở dưới ao nước. ĐIỂM 點 còn có nghĩa là Rà soát lại, như KIỂM ĐIỂM 檢點, ĐIỂM DANH 點名, ĐIỂM BÁO 點報 ... ĐIỂM ĐẦU 點頭 là Gật đầu. Trong tiếng Nôm ĐIỂM ĐẦU còn có nghĩa là Điểm đứng đầu sổ, là Hạng nhất, như trong bài thơ Trần Tế Xương gởi cho cụ Phan Sào Nam có câu: Mái tóc Giáp Thìn đà nhuộm tuyết, Điểm đầu Canh Tý chửa phai son. ...vì cụ Phan Sào Nam đậu Thủ Khoa thi hương năm Canh Tý. ĐIỂM CHỈ 點指 là Lăn tay. ĐIỂM HUYỆT 點穴 là dùng ngón tay ra sức nhấn vào huyệt vị nào đó, làm cho người ta đứng yên một chỗ, ngứa ngáy, tê dại... Thuật Điểm Huyệt trong võ học được ứng dụng vào y thuật bằng việc Châm Cứu, rất thịnh hành hiện nay. 田 HÁN VIỆT Điền NGHĨA VIỆT Ruộng, đất vườn, cày cấy TỪ GHÉP canh điền 耕田 • đan điền 丹田 • điền chủ 田主 • đồn điền 屯田 • quy điền 歸田 • tá điền 借田 ĐIỀN 田là chữ Tượng Hình, theo hình vẽ miếng đất ruộng mà diễn tiến thành chữ viết. Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn và Đại Tiểu Triện đều là hình vẽ của miếng đất ruộng được chia thành từng ô như ngày xưa, diễn tiến thành chữ viết của ngày nay như hình của chữ Lệ 田 nên ĐIỀN là Đất Ruộng, Đất Canh Tác, là Tài Sản của Nông Dân, được gọi là ĐIỀN SẢN 田產. Ta có các từ như ĐIỀN ĐỊA 田地, ĐIỀN THỔ 田土, ĐIỀN GIA 田家, ĐIỀN VIÊN 田園.... Trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu: Hữu ĐIỀN bất canh thương lẫm hư, 有田不耕倉廩虛, Hữu thư bất độc tử tôn ngu. 有書不讀子孫愚。 Có nghĩa : Có RUỘNG mà không biết cày, thì bồ lúa sẽ trống không; Có sách mà không biết đọc (học), thì con cháu sẽ trở nên ngu ngốc, đần độn. Thành ngữ thường gặp nhất của chữ ĐIỀN là : THƯƠNG HẢI TANG ĐIỀN 滄海桑田 : là Biển xanh và Ruộng dâu, theo tích Ma Cô trong Thần Tiên Truyện của Cát Hồng đời Tấn : Trong một lần đi họp mặt với các thần tiên, Ma Cô đã nói rằng: Tới lui hội họp trong những năm nay, mình đã 3 lần thấy biển đông biến thành ruộng dâu, lần nầy ngang qua biển đông lại thấy nước đã cạn dần có thể sắp biến thành ruộng dâu lần nữa! Vì thế... Thành ngữ THƯƠNG HẢI TANG ĐIỀN chỉ sự biến đổi đến không thể ngờ trước được, sự thay đổi lớn lao của cảnh vật làm cho con người cảm thấy ngỡ ngàng. Thành ngữ nầy còn được nói gọn lại thành TANG THƯƠNG hay THƯƠNG TANG, và được Nôm hóa bằng câu: Bãi Bể hoá Nương Dâu , hay bằng từ Dâu Bể hoặc Bể Dâu như mở đầu Truyện Kiều Cụ Nguyễn Du cũng đã viết : Trải qua một cuộc BỂ DÂU, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ! GIẢI GIÁP QUY ĐIỀN 解甲歸田 : là Cởi áo giáp ra để về làm ruộng, chỉ sau chiến tranh, hòa bình đã lập lại, mọi người được giải ngũ về quê sống cuộc sống bình thường. Vì các nước Châu Á ngày xưa, sống chủ yếu bằng nghề nông, nên về với đồng ruộng là về với đời sống bình thường. Chữ ĐIỀN còn liên quan đến một câu chuyện nổi tiếng sau đây: Trạng Nguyên NGUYỄN HIỀN (1234 - 1255), người làng Dương A, huyện Thượng Hiền, thuộc tỉnh Nam Định hiện nay. Ông đậu Trạng Nguyên năm 12 tuổi. Vì còn thiếu niên nên vua cho ông về quê 3 năm tu dưỡng để học thêm về lễ. Tương truyền sứ thần Trung Hoa đem một bài thơ ngũ ngôn sang thử nhân tài nước Nam. Bài thơ như sau: Lưỡng nhật bình đầu nhật, 兩日平頭日, Tứ sơn điên đảo sơn, 四山顛倒山。 Lưỡng vương tranh nhất quốc, 兩王爭一國, Tứ khẩu tung hoành gian. 四口縱橫間。 Có nghĩa : Hai mặt nhựt bằng đầu nhau, Bốn trái núi nghiêng ngã vào nhau. Hai vua cùng tranh nhau một nước, Bốn miệng cùng ngang dọc nhau. Vua và các quan trong triều đều không ai hiểu là nghĩa gì, nên mới cho mời Trạng Nguyễn Hiền đến. Khi sứ thần đưa bài thơ, Trạng đã giảng như thế nầy: * Hai chữ Nhật 日 đặt bằng đầu nhau thành chữ ĐIỀN 田. * Bốn chữ Sơn 山 trên dưới phải trái ghép lại là chữ ĐIỀN 田. * Hai chữ Vương 王 một ngang một đứng nhập lại là chữ 田. * Bốn chữ Khẩu 口 ngang dọc nhập lại cũng là chữ ĐIỀN 田. Nên 4 câu thơ trên chỉ là chữ ĐIỀN mà thôi ! Sứ thần và triều thần đều phải chịu ông là giỏi! 電 HÁN VIỆT Điện NGHĨA VIỆT Điện DẠNG KHÁC 电 TỪ GHÉP bưu điện 郵電 • điện ảnh 電影• điện bưu 電郵 • điện cơ 電機 Chữ ĐIỆN 電 cũng có dạng cấu tạo giống chữ LÔI 雷, gồm bộ VŨ雨 phía trên dưới là hình ảnh vệt sét lóe lên trên bầu trời mưa. Quan sát chữ giáp cốt, bên dưới bộ VŨ là dạng mô tả lưỡi dao giữa mưa rơi, với ý nghĩa biểu trưng là sét đánh có sức mạnh như dao cắt vậy. Từ dạng chữ kim trở đi hình ảnh lưỡi dao không còn nữa mà chỉ còn tia lửa lóe lên trong mưa. Chữ ĐIỆN电 giản thể ngày nay bỏ luôn cả bộ vũ ở trên. Như vậy chữ ĐIỆN 电 ngày nay chỉ đơn thuần là một ký hiệu. Nó đã thoát hẳn ra dạng tượng hình ban đầu Chữ ĐIỆN電từ nghĩa là tia chớp, phát triển thành nghĩa như ngày nay, theo kịp sự phát triển của xã hội và khoa học kỹ thuật. Nghĩa của điện liên quan đến điện lực, thông tin vô tuyến và đồ điện: BƯU ĐIỆN郵電 • ĐIỆN ẢNH電影 • ĐIỆN CƠ電機• ĐIỆN NĂNG電燈. 鳥 HÁN VIỆT Điểu NGHĨA VIỆT chim TỪ GHÉP ác điểu 惡鳥 • đà điểu 駝鳥 • kinh cung chi điểu 驚弓之鳥 • phi điểu 飛鳥 • quyện phi điểu 倦飛鳥 ĐIỂU 鳥 là chữ Tượng Hình, từ Kim Văn đến Đại Triện đều là hình tượng của con chim đang đậu trên cành, mỏ hướng về phía trước, nhưng sang Tiểu Triện thì con chim quay đầu nhìn lại phía sau. ĐIỂU 鳥 là từ chỉ chung tất cả các loài chim. Như : Phụng Điểu 鳳鳥, Đà Điểu 鴕鳥 ... ĐIỂU SÀO 鳥巢 : là Ổ Chim. Yến Sào 燕巢 là Tổ Én. ĐIỂU THÚ TRÙNG NGƯ 鳥獸蟲魚 : là CHIM THÚ SÂU CÁ. Là Chim chóc, Muông thú, Sâu bọ và Cá tôm. Bốn loại cầm thú sâu bọ sống chung quanh với đời sống con người. ĐIỂU NGỮ HOA HƯƠNG 鳥語花香 : Ta nói là : Hoa thơm Chim hót, thành ngữ dùng để tả cảnh đẹp của mùa xuân. ĐIỂU TẬN CUNG TÀNG 鳥盡弓藏 : Chim hết cất cung, là Chim đã hết rồi thì Cung đã không còn được dùng nữa, nên đem đi cất. Đã hết lợi dụng được nữa thì cất đi. Câu nầy nghe còn nhẹ hơn câu "Vắt chanh bỏ vỏ" của ta nhiều, nhưng tích của nó thì nghe phũ phàng thảm khốc hơn cả "Vắt chanh bỏ vỏ" bội phần... Theo Thuyết Lâm Huấn của sách Hoài Nam Tử có câu : "Giảo thố đắc nhi liệp khuyển phanh, Cao điểu tận nhi cường nổ tàng 狡兔得而猎犬烹,高鸟尽而强弩藏 ". Có nghĩa "Đã bắt được con thỏ giảo quyệt rồi thì nướng con chó săn luôn. Con chim bay cao đã bị bắn rớt rồi thì cất đi cây cung nỏ mạnh". Và theo Việt Vương Câu Tiễn Thế Gia của Sử Ký kể : Phạm Lãi là tướng mạnh và là một trong những mưu thần chủ yếu của Việt Vương Câu Tiễn. Ông đã cùng với Văn Chủng, một mưu sĩ bậc nhất, giúp Câu Tiễn lên kế hoạch phục thù, kiêm cả ngầm huấn luyện chỉ huy quân đội tiêu diệt Ngô Vương Phù Sai, xưng bá trung nguyên. Sau khi diệt Ngô, vì là mưu sĩ và là công thần bậc nhất, nên Việt Vương Câu Tiễn phong Phạm Lãi là Thượng Tướng Quân và Văn Chủng là Thừa Tướng. Phạm Lãi đã không nhận tước phong, từ quan ra đi, ẩn cư ở nước Tề. Vì lo cho số phận của Văn Chủng, Phạm Lãi đã lén cho người đem thư về khuyên bạn hãy từ quan mà ra đi như mình, vì Câu Tiễn là người tâm địa hẹp hòi, chỉ có thể cùng chung hoạn nạn chứ không thể cùng chung phú qúy được. Phải luôn nhớ là "Phi điểu tận, lương cung tàn. Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh 飛鳥盡,良弓藏,狡兔死,走狗烹 (Bắn hết chim bay thì cung cất lại. Bắt hết thỏ thì nướng chó săn)". Nhưng, Văn Chủng không tin là Việt Vương Câu Tiễn sẽ hại mình. Ông nghĩ, mình đã lập được công lớn như vậy, đây chính là lúc mình phải được hưởng thụ, sao lại phải bỏ đi, nên ông kiên quyết ở lại. Ít lâu sau, Câu Tiễn sai người ban cho Văn Chủng thanh kiếm mà Ngô Vương Phù Sai bắt Ngũ Tử Tư phải tự sát, kèm theo câu nói: "Tiên sinh dạy cho Qủa nhân 9 biện pháp để đối phó với nước Ngô. Qủa nhân chỉ mới dùng có 3 biện pháp thì đã tiêu diệt được nước Ngô rồi! Bây giờ phiền tiên sinh đem 6 biện pháp còn lại xuống nói cho tiên đế biết đi!" Đến nước nầy, Văn Chủng mới hỡi ôi, hối hận vì đã không chịu nghe lời khuyên của Pham Lãi. Sau tiếng than dài, ông ta bèn hươu gươm tự sát. Phần Phạm Lãi ẩn vào vùng Ngũ hồ kinh thương, thành một thương lái giàu có ở Động Đình Hồ, lại đổi họ tên thành Đào Chu Công. Theo truyền thuyết dân gian, Phạm Lãi khi từ quan đã lén dắt theo người đẹp Tây Thi để cùng ngao sơn ngoạn thủy, vui hưởng lạc thú nhân gian, thưởng ngoạn hết cảnh đẹp của vùng Ngũ hồ xinh tươi như tranh vẽ. KINH CUNG CHI ĐIỂU 驚弓之鳥 : là Chim đã từng sợ cung, ý nói Chim đã bị chết hụt vì cung một lần rồi. Theo tích sau đây: Theo Sở Sách Tứ của Chiến Quốc Sách kể về kế Hợp Tung thời Chiến Quốc như sau: Sứ của Triệu là Ngụy Gia gặp Xuân Thân Quân của nước Sở để bàn kế đánh Tần. Ngụy Gia hỏi: - Ngài đã có đại tướng chưa? Xuân Thân Quân đáp: - Có ! Đại tướng của ta là Lâm Võ Quân. Ngụy Gia nói: - Lúc nhỏ tôi thích bắn cung, xin được lấy việc bắn cung làm ví dụ. - Được, nhà ngươi cứ nói. Ngụy Gia kể : - Xưa nước Ngụy có một thần tiễn thủ tên là Canh Doanh. Một hôm đang nói chuyện cùng Ngụy Vương, bỗng thấy có một con nhạn bay từ đông sang tây, ông ta bèn giương thẳng cung bắn mạnh một cái, không có tên, nhưng con nhạn vẫn rơi xuống đất. Ngụy Vương qúa ngạc nhiên hỏi: "Nhà ngươi không có bắn tên ra, sao con nhạn lại rơi xuống đất?" Canh Doanh đáp rằng: "Con nhạn nầy bay rất thấp, tốc độ bay lại rất chậm, tiếng kêu lại bi thiết, nên tôi đoán là con nhạn bị lạc bầy, lại bị tiễn thương chưa lành, nên mới cố tình kéo mạnh dây cung cho bậc ra thành tiếng, con nhạn nghe tiếng dây cung bậc mạnh, hoảng qúa, cố vổ cánh để bay cao lên, nên vết thương vỡ ra không bay nổi nữa mà rớt xuống thôi!" Ngụy Vương cho lượm con nhạn tới xem thì qủa đúng như lời Canh Doanh đã nói. Nay Lâm Võ Quân đã từng là bại tướng của quân Tần, giống như con nhạn kia đã một lần bị thương vì tên rồi, trong lòng đà hoảng sợ; giờ lại cử ông ta đem binh đánh Tần, trong lòng ông ta đã ái ngại, lòng quân lại không yên, tôi nghĩ là chỉ có thua chớ không thể thắng được! Xuân Thân Quân nghe xong, ngẫm nghĩ thấy có lý bèn thôi không cử Lâm Võ Quân đi đánh Tần nữa. Ta còn có câu : KINH CUNG CHI ĐIỂU KIẾN KHÚC MỘC NHI CAO PHI 驚弓之鳥見曲木而高飛。Có nghĩa: Con chim sợ cung (Bị cung tên bắn chết hụt một lần rồi), nên thấy làn cây cong tưởng là cung cũng sợ mà bay cao lên. Trong Truyện Kiều lúc Bạc Bà khuyên Kiều lấy chồng, nàng đã đáp rằng: Thiếp như con én lạc đàn, Phải tên giờ đã sợ làn cây cong! TỈ DỰC CHI ĐIỂU 比翼之鳥 : là Đôi chim so cánh cùng bay, ta nói là Đôi chim liền cánh, ý chỉ đôi chim khắn khít với nhau cùng bay cùng đậu, chớ không phải đôi chim có cánh dính liền với nhau. Thành ngữ nầy phát xuất từ 2 câu thơ áp chót của bài thơ trường thiên nổi tiếng của Bạch Cư Dị là Trường Hận Ca, tả lại mối tình của Đường Minh Hoàng và Dương Qúy Phi : Tại thiện nguyện tác tỉ dực điểu, 在天願作比翼鳥, Tại địa nguyện vi liên lý chi. 在地願為連理枝. Có nghĩa : Trên trời thì nguyện làm đôi chim liền cánh để cùng bay, Dưới đất thì nguyện làm cây liền cành nhau để cùng đứng. 丁 HÁN VIỆT Đinh, tranh NGHĨA VIỆT Can thứ 4 trong 10 thiên can, đàn ông TỪ GHÉP bính đinh 丙丁 • cùng đinh 窮丁 • đinh hương 丁香 • đinh khẩu 丁口 • đinh thuế 丁稅 • đinh tráng 丁壯, gia đinh 家丁. Chữ ĐINH丁là một chữ tượng hình mô tả một thân cây cứng cáp, Ngày xưa người ta vẫn sử dụng gỗ để làm đinh thay thế cho đinh sắt, vì vậy丁cũng có nghĩa là cái đinh. Tuy nhiên, ý nghĩa chỉ cái đinh sau đó được thay thế bằng釘, bây giờ 丁chỉ được sử dụng để mô tả một người đàn ông mạnh mẽ, cứng cỏi. Mặt khác, 丁cũng được sử dụng là can thứ tư trong 10 thiên can, vì丁 cũng mô tả một giai đoạn trong quá trình phát triển của một cái cây (xem lại các chữ giáp, ất, bính). 鼎 HÁN VIỆT Đỉnh NGHĨA VIỆT Cái đỉnh, cái vạc, vững vàng, thịnh vượng TỪ GHÉP bạt san cử đỉnh 拔山舉鼎, đỉnh tân 革故鼎新 • chung đỉnh 鐘鼎 • chung minh đỉnh thực 鐘鳴鼎食 • cửu đỉnh 九鼎 • đỉnh chung 鼎鐘 • đỉnh lập 鼎立 • đỉnh tân 鼎新 • ĐỈNH 鼎 là chữ Tượng Hình, trong Giáp Cốt Văn ĐỈNH 鼎 là hình của cái Vạc để nấu và đựng thực phẩm của ngày xưa. Chỉ cần đốt lửa bên dưới là tha hồ nấu những đồ đạc được đựng ở bên trên, mà khỏi cần phải có lò bếp gì cả! Theo diễn tiến của chữ viết khi đã thành hình rồi, ta vẫn còn thấy được cái đĩnh đạc, chửng chạc của cái ĐỈNH thể hiện qua chữ viết. Nên, nhà giàu có thì mới có được cái đỉnh, theo như sách Hán Thư diễn tả sự xa hoa của nhà giàu lúc bấy giờ là: 列鼎而食, Liệt đỉnh nhi thực, 食時擊鐘. Thực thời kích chung. Có nghĩa : Bày đỉnh ra mà ăn, khi ăn thì gỏ chuông làm hiệu (để mọi người biết mà quây quần đến để ăn). Trong bài Đằng Vương Các Tự nổi tiếng của Vương Bột đời Đường cũng có câu: Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia; 閭閻撲地,鐘鳴鼎食之家; Kha hạm mê tân, thanh tước hoàng long chi trục. 舸艦迷津,青雀黃龍之舳。 Có nghĩa : Nhà cửa đầy đất, đều là những gia đình giàu sang phú qúy; Thuyền bè chật bến, đều là những thuyền có trạm trổ hình chim xanh rồng vàng (chỉ thuyền bè của thương buôn và quyền qúy). CHUNG MINH ĐỈNH THỰC 鐘鳴鼎食 là Gỏ chuông bày Đỉnh ra khi ăn, chỉ chung những nhà giàu sang phú qúy, ta hay nói tắt thành CHUNG ĐỈNH, và hay trách người khác bằng câu: "Tham mùi Chung Đỉnh", tức là ám chỉ người ta "ham giàu". ĐỈNH thường có 3 chân và 2 tai đỉnh. Ba Chân là thế đứng vững nhất, ta hay nói là "Thế Chân Vạc", nên lại có câu thành ngữ là: ĐỈNH TÚC NHI LẬP 鼎足而立: là Đứng ở thế chân vạc, chỉ 3 lực lượng, hoặc 3 người cùng hùng cứ, trấn giữ 3 nơi, cùng kềm chế và chống chọi nhau một cách vững vàng. Đây cũng là cái thế của thời TAM QUỐC giữa 3 nước: Ngụy, Thục và Ngô của Tào Tháo, Lưu Bị và Tôn Quyền mà giới chính trị thường hay nhắc nhở bằng câu: TAM QUỐC ĐỈNH LẬP 三國鼎立. ĐỈNH còn là vật báu lưu truyền trong nước thời xưa. Vua "Vũ" 禹 nhà "Hạ" 夏 , tục gọi là HẠ VŨ 夏禹 thâu vàng trong chín châu lại, đúc làm chín cái đỉnh. Về đời "Tam Đại" 三代 (Hạ 夏, "Thương" 商, "Chu" 周) coi là vật báu của nước, cho nên ai lấy được thiên hạ gọi là "định đỉnh" 定鼎. Vì 9 cái đỉnh là tất cả vàng của 9 châu nên rất nặng, để diễn tả uy tín và sự tín nhiệm của lời nói, ta lại có thành ngữ: NHẤT NGÔN CỬU ĐỈNH 一言九鼎: là Một lời đã nói ra thì nặng như là 9 cái đỉnh gọp lại vậy, cho nên, không được ăn nói bừa bãi, và nếu lỡ đã nói ra rồi thì phải cố gắng mà giữ đúng như lời đã nói. Ta cũng có : BẠT SƠN CỬ ĐỈNH 拔山舉鼎 : Nhổ núi nhấc vạc. Chỉ sức mạnh vượt trội Ngoài nặng ra, ĐỈNH còn chỉ sự To Lớn, như câu: ĐỈNH ĐỈNH ĐẠI DANH 鼎鼎大名: Ta nói là "Tên tuổi lẫy lừng" hay "Tiếng tăm lừng lẫy." ĐỈNH LỰC TƯƠNG TRỢ 鼎力相助 : là Hết lòng giúp đỡ; giúp đở với cái sức lực to lớn nhất. 訂 HÁN VIỆT Đính NGHĨA VIỆT Giao ước, ký kết, đóng, bàn định, bàn luận,… DẠNG KHÁC 订 TỪ GHÉP đính ước 订约 • giáo đính 校订 • hiệu đính 校订. Chữ ĐÍNH ( 訂) là một chữ hội ý kiêm hình thanh bao gồm bộ Ngôn (言) với chữ ĐINH (丁). Một lời (言) đã nói ra thì như đinh(丁) đóng cột,..! Theo nét văn hoá và cách ứng xử ngày xưa, người ta rất trọng lời nói, và thông qua lời nói người ta có thể kết giao bạn bè, và hiểu được sự tín nghĩa của bạn bè, hay các mối quan hệ bang giao. Nên cổ nhân luôn có câu cửa miệng để nói về sự tín nghĩa, xem trong ngôn từ, lời hứa, lời đã nói ra rằng : “ NHẤT NGÔN CỬU ĐỈNH TỨ Mà NAN TRUY" " 一言九鼎四馬難追". 定 HÁN VIỆT Định, đính NGHĨA VIỆT ổn, định liệu TỪ GHÉP đính ước 订约 • giáo đính 校订 • hiệu đính 校订. Chữ ĐỊNH定là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bao gồm phía trên là bộ MIÊN宀 phía dưới là dạng thể của chữ CHÍNH正. 宀 chỉ nhà cửa, chỗ ở trong khi chữ CHÍNH正 có nghĩa là đúng đắn, ngay ngắn. Nhà cửa đã được sắp xếp ngay ngắn, mọi thứ đã được chuẩn bị đâu vào đó, chữ 定 vì vậy có nghĩa là sự yên ổn, nghĩa mở rộng là QUY ĐỊNH, QUYẾT ĐỊNH. 短 HÁN VIỆT Đoản NGHĨA VIỆT Ngắn, non, kém TỪ GHÉP đoản binh 短兵,đoản đao 短刀 • đoản kiếm 短劍 • đoản mệnh 短命 • sở đoản 所短. Chữ ĐOẢN 短 là một chữ hình thanh, bao gồm chữ THỈ (mũi tên) là thành phần chỉ nghĩa và chữ ĐẬU豆 (một vật dụng dùng để đựng hạt) có nhiệm vụ chỉ âm đọc. Ngày xưa cung tên là vật gắn liền với con người trong săn bắn và chiến đấu, trong hai vật này cung thì dài hơn mũi tên, cho nên người ta lấy cung làm tiêu chuẩn đo vật dài và lấy mũi tên làm tiêu chuẩn đo vật ngắn. Mặt khác, mũi tên rất ngắn khi so sánh với các binh khí thông dụng khác như kiếm, giáo,…vì vậy 短 được sử dụng để mô tả một vật gì đó ngắn hoặc nhỏ. Từ nghĩa mô tả một vật ngắn, 短 mở rộng nghĩa thành khuyết thiếu, kém, không đầy đủ như trong các từ SỞ ĐOẢN所短 chỗ yếu kém của mình, THỦ TRƯỜNG BỔ ĐOẢN取長補短 lấy cái hay bù cái kém. Hay như: ĐOẢN CẬT THIỂU XUYÊN短吃少穿 thiếu ăn thiếu mặc. 段 HÁN VIỆT Đoạn, đoàn, đoán NGHĨA VIỆT Đoạn, khúc, quãng, khoảng TỪ GHÉP đoạn lạc 段落 • giai đoạn 階段 • tam đoạn luận 三段論 • thủ đoạn 手段 Chữ ĐOẠN là một chữ hội ý, bao gồm biến thể của THẠCH 石 (núi đá, đá) và THÙ殳 (Một vũ khí cổ của Trung Quốc), 殳 trong kim văn là hình ảnh một bàn tay đang cầm búa. Chữ 段 mô tả một hòn đá lớn bị đập nhỏ ra, nhưng ý nghĩa đó đã được thay thế bằng 碫 Và 鍛, Ngày nay 段 chủ yếu được dùng làm lượng từ có nghĩa là khúc hoặc phần. 東 HÁN VIỆT Đông NGHĨA VIỆT phía đông, phương đông,… DẠNG KHÁC 东 TỪ GHÉP á đông 亞東 • cận đông 近東 • đông bán cầu 東半球. Về cấu tạo chữ東có hai thuyết chính, quan điểm thứ nhất cho rằng : Nhìn vào chữ “Đông” (東 – phương đông) sẽ thấy đó là sự kết hợp của chữ “Nhật” (日 – mặt trời) và “Mộc” (木 – cây cối). Trung Quốc nằm ở phương đông trên bản đồ thế giới, vào thời cổ đại được gọi là Đông thổ. Thuở đương sơ khi Thần tạo ra chữ viết, thì chữ tượng hình đã miêu tả một phương Đông rất tươi đẹp: có những thảm thực vật tươi tốt (Mộc – 木) và ở nơi mặt trời mọc (Nhật – 日). Vì có ánh nắng mặt trời lại có thảm thực vật nên tất nhiên sẽ là nơi bừng bừng sinh khí, muôn loài tốt tươi. Đó chính là ý nghĩa của chữ “Đông” (東). Quan điểm thứ hai cho rằng : Chữ 東mô tả một gói đồ của một người sắp lên đường (xem cổ văn). Vì Trung Quốc cổ đại không có điện, với mục đích tậndụng triệt để ánh sáng tự nhiên, người đi thường lên đường vào sáng sớm khi mặt trời vừa mọc từ hướng đông, nên hình ảnh của một gói đồ được sử dụng để thể hiện ý nghĩa là hướng phía đông. Mặt khác, quan điểm trên còn được củng cố bởi chữ 東 có cùng nguồn gốc với chữ thúc (束) (có nghĩa là ràng buộc hoặc bó, ước thúc). Căn cứ vào cổ văn thì quan điểm thứ hai về nguồn gốc chữ 東 được nhiều người chấp nhận và đồng tình hơn so với quan điểm thứ nhất. Chữ 東ngoài nghĩa là hướng đông cũng có ý nghĩa chủ (như trong từ cổ đông, phòng đông,…) vì tầm quan trọng của mặt trời đối với con người và vạn vật. 冬 HÁN VIỆT đông NGHĨA VIỆT Mùa đông TỪ GHÉP đông chí 冬至 • đông hàn 冬寒 • đông qua 冬瓜 • đông thiên 冬天 • đông tiết 冬節 • hàn đông 寒冬 • lập đông 立冬 •. Chữ ĐÔNG冬về cấu tạo là một chữ hội ý. Thực ra, ban đầu trong thể cổ văn (giáp cốt và kim văn) là một chữ tượng hình mô tả một sợi dây thừng được thắt nút ở hai đầu, sau đó đến chữ triện văn chữ仌 (băng) mới được thêm vào. 仌 mô tả các vết nứt trên băng, có ý nghĩa của thời tiết lạnh, trong khi nút thắt trên sợi dây có ý nghĩa của sự cuối cùng hoặc kết thúc, vì vậy冬được sử dụng để đại diện cho mùa cuối cùng trong một năm, và mùa đó rất lạnh. 同 HÁN VIỆT Đồng NGHĨA VIỆT Cùng nhau, giống nhau TỪ GHÉP công đồng 公同 • cộng đồng 共同 • đại đồng 大同 • đồng bạn 同伴 • đồng bào 同胞 • đồng chí 同志• đồng dạng 同樣. Chữ ĐỒNG同là một dạng chữ hội ý. Bao gồm biến thể của chữ PHÀM凡 (thường, chung) và KHẨU口(miệng), 凡là hình ảnh của một vật như chiếc xô hình trụ, chữ 口được thêm vào để thể hiện có một lỗ ở phía dưới hay nói cách khác vật này rỗng bên trong, nghĩa gốc của 同 là một ống tre rỗng, nhưng nghĩa này đã được thay thế bằng 筒, Mặt khác, mọi ống tre đều trông rất giống nhau, nên ĐỒNG 同 có nghĩa là cùng chung hay giống nhau. 洞 HÁN VIỆT Động, đỗng NGHĨA VIỆT Động, hang sâu TỪ GHÉP động đình 洞庭 • hống động 澒洞 • nham động 巖洞 • sơn động 山洞. Chữ ĐỘNG洞về mặt cấu tạo, trong từ điển hán ngữ hiện đại được định nghĩa là một chữ Hình Thanh nhưng trên cơ sở đã tìm hiểu về nguồn gốc chữ ĐỒNG 同 thì 洞 đúng ra phải là chữ hội ý kiêm hình thanh. Chữ 洞bao gồm同 (giống nhau) và氵(nước). Trong cổ văn 同 miêu tả một ống tre rỗng với một đầu được mở (xem lại bài phân tích chữ 同), Như vây, 同 vốn đã có ý nghĩa của một cái lỗ hay một hang động với một cửa hang được mở. Mặt khác hang động được hình thành từ các hoạt động địa chất, trong đó, nước đóng vai trò chủ yếu. Ngoài ra, trong hang động thì luôn có sự xuất hiện của nước. Bộ 氵với vai trò biểu nghĩa kết hợp với âm đọc同của tạo thành 洞với nghĩa là hang động. 突 HÁN VIỆT Đột NGHĨA VIỆT Đột ngột, bất ngờ DẠNG KHÁC 宊 TỪ GHÉP đột biến 突變 • đột kích 突擊 • đột ngột 突兀 • đột nhập 突入 • đột nhiên 突然 • đột phá 突破. Chữ Đột突 (Đột ngột, bất ngờ) là một chữ hội ý, được cấu tạo bởi bộ Huyệt 穴 và Khuyển 犬 . Huyệt 穴 là hang, hoặc cũng có thể là nơi ẩn nấp, Khuyển 犬 là Chó, rộng hơn là chỉ những loài thú trên rừng, đa số các chữ hán về thú ăn thịt đều xuất hiện bộ Khuyển. Cấu tạo chữ Đột突 diễn tả lại cảnh con thú săn mồi bất ngờ lao ra từ nơi ẩn nấp để chộp lấy con mồi. Hành động này diễn ra nhanh và khiến cho con mồi bất ngờ cho nên chữ Đột 突 mang nghĩa nhanh và bất ngờ. 德 HÁN VIỆT Đức NGHĨA VIỆT đạo đức, thiện,… DẠNG KHÁC 徳, 悳, 惪 TỪ GHÉP ác đức 惡德 • âm đức 陰德 • ân đức 恩德 Chữ Đức德được kết hợp từ ba bộ chữ là: chữ Sách (彳)+ chữ Trực (直, chữ Trực ở trên viết theo dạng khác)+ chữ Tâm (心). Trong đó: *Chữ Sách彳có nghĩa là bước đi, hành động; *Chữ Trực nghĩa là ngay thẳng, chính trực; *Chữ Tâm心mang ý nghĩa về sự suy tư, về ý nghĩ, tư duy. Như vậy có thể hiểu một cách khái quát: Chữ Đức德nghĩa là sống thực với chính mình, làm đúng với lương tâm mình. Bàn luận thêm về chữ đức : Người xưa có câu: “Đức phối thiên địa, thiên tất hữu chi”, có nghĩa là đạo đức của người ta mà hài hòa với trời đất thì trời đất ắt sẽ phù trợ. Phong thủy lớn nhất của đời người chính là đức, chỉ khi nào có đạo đức tốt, nhân ái, lương thiện thì hạnh phúc thật sự mới tìm đến gõ cửa. Chữ “德” (đức) được tạo thành từ 5 bộ, bao gồm: “彳”, “十”, “罒”, “一” và “心”. Ý nghĩa như sau: Bộ “彳” (xích) có nghĩa là bước đi chậm rãi, cũng có nghĩa là đức cần phải tích lũy lâu dài. Muốn tích đức thì cần luôn giữ thiện tâm, không phải là nhất thời hứng chí. Phúc đức là kết quả nỗ lực liên tục của cả một đời người. Bộ “十” (thập) có nghĩa là nhiều, là đầy đủ, thập toàn thập mỹ, mười phân vẹn mười, ngụ ý là bất cứ lúc nào hay bất cứ nơi đâu cũng đều phải có thiện tâm, phải đức độ, khoan dung với mọi người. Bộ “罒” (võng) thực chất là bộ mục (con mắt) nằm ngang, nhấn mạnh người có đức có thể nhìn thấy rõ những điều không chân chính, có thể nhận biết được đâu là đúng đâu là sai, đâu là tốt đâu là xấu. Bộ “一” (nhất) là tổng thể, ý rằng người luôn có tầm nhìn bao quát, không ích kỷ, luôn chính trực, lý trí, trung thành, trong lòng không có tạp niệm, không lo lắng mới là người có đức. Bộ “心” (tâm) là nói đến nội tâm, bồi dưỡng “đức” cần phải dựa vào tu ở tâm, chân tâm, thành thâm, chung tâm. “Tâm” nằm ở vị trí cuối cùng của chữ “đức” cho thấy đức là ở tận đáy lòng. “Đức” có nghĩa là đạo đức, phẩm đức, phẩm hạnh. Những tính tốt như chân thành, kiên trì, nhẫn nại, vị tha, v.v. đều được gọi là “đức tính”. Người hay làm điều thiện, tấm lòng bao dung lại được gọi là người “đức độ”. Trong xã hội xưa kia, dù là bình dân bá tánh, quan lại hay kẻ làm vua đều phải biết“tu dưỡng đạo đức”. Điều đó đủ để thấy rằng một chữ “đức” đã gồm thâu lại tất cả những phẩm chất tốt đẹp của con người. Có một câu nói rằng: “Âm dương phong thủy hữu thiện chủ, thử đạo tà dâm nan hữu phúc. Cực thiện chi gia hữu dư khánh, đức phối thiên địa thị chân đồ.” Có nghĩa là phong thủy âm dương chỉ dành cho người sống thiện, những kẻ gian tà mưu mô dâm loạn thì khó mà có phúc. Những người ở lành thì sẽ dư dả, đức hòa hợp với trời đất là con đường đúng đắn nhất. Mặc dù ngày nay đức không được coi trọng như trước kia, nhưng điều đáng quý là, thi thoảng chúng ta lại có dịp thốt lên một câu rằng: “tài đức vẹn toàn”. Có tài mà không có đức thì sẽ gây họa loạn cho xã hội. Có người nói rằng có đức mà không có tài thì cũng vô dụng thôi. Nhưng không phải thế, có đức thì tất sẽ có tài. Nếu không phải cái tài ở phương diện kỹ thuật thì sẽ là cái tài khiến người khác mến phục tin tưởng, bởi vì đức chính là tiêu chuẩn để nhân loại nhận định tốt xấu, phân biệt đúng sai. Chính vì thế, có đức là có tất cả! 家 HÁN VIỆT Gia, cô NGHĨA VIỆT Nhà, chỗ ở, tiếng gọi vợ chồng, chuyên gia,… TỪ GHÉP an gia 安家 • âm dương gia 陰陽家 • âm nhạc gia 音樂家 • ân gia 恩家. Chữ 家 gia (nhà) là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, phần trên là biểu tượng của mái nhà. Bên dưới là chữ 豕 thỉ, 豕 thỉ trong tiếng Hán cổ dùng như một từ đơn chỉ con lợn, tồn tại song song với 猪 chư. 豕 Thỉ trong tiếng Hán hiện đại không dùng độc lập, chỉ còn 猪 chư vẫn dùng như một từ đơn. Đáng lẽ, bên dưới mái nhà phải là chữ 人 nhân (người), dùng để chỉ gia đình là nơi tụ hội, xum họp của những con người có quan hệ hôn nhân (vợ-chồng), huyết thống (cha-con, ông-cháu, anh-em…), nhưng chữ 家 gia trong tiếng Hán lại mang một ý nghĩa xã hội khác, nó ghi lại dấu ấn của quá trình phát triển xã hội từ thời đại nguyên thuỷ, xã hội thị tộc mẫu hệ đến phụ hệ, gia đình hình thành, tập quán sản xuất tiến triển từ hình thức du canh du cư đến định canh định cư, sản xuất nông nghiệp không chỉ chú trọng trồng trọt mà còn chútrọng chăn nuôi trong đơn vị gia đình.Điều đó cũng đánh dấu kết quả người dân thuần hoá các con vật trong thế giới tự nhiên hoang dã thành vật nuôi trong gia đình. Theo Đường Hán, thỉ trong chữ giáp cốt viết thành trác, so với thỉ có thêm một nét chấm nghiêng. Đó là dấu ấn người xưa cắt bỏ bộ phận sinh dục của con lợn đực, vừa làm giảm bớt tính dã thú của loài vật này, vừa có thể trợ giúp việc vỗ béo hiệu quả hơn. Tục thiến lợn đến nay vẫn còn trong chăn nuôi ở nông thôn. Điều đó cũng phản ánh một phần dấu ấn xã hội của nền sản xuất nông nghiệp không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở Việt Nam nữa. Trong gia đình nông thôn Việt Nam, nhà ở của người nông dân ngoài phòng ngủ, phòng khách ra còn có nhà bếp, chuồng lợn kề ngay gần nhà. Những gia đình dân tộc thiểu số dưới gầm nhà sàn là trâu bò, lợn gà… - phần kinh tế chăn nuôi quan trọng của gia đình. GIA có nghĩa là NHÀ . Vì Gia Đình là nền tảng của xã hội, nên những từ được ghép bằng chữ GIA rất nhiều, như: Gia Đình 家庭, Gia tộc 家族, Gia Quyến 家眷, Gia Thuộc 家屬, Gia Phong 家風, Gia Huấn 家訓, Gia Môn 家門, Gia Quy 家規 ... GIA còn là từ dùng để Tự Xưng trưởng bối của mình với người ngoài, như : GIA TỔ 家祖 : là Ông Nội nhà tôi, Ông Tổ nhà tôi. GIA PHỤ 家父 : là Ông Cha nhà tôi, Ba tôi, Tía tui. GIA HUYNH 家兄 : làÔng Anh nhà tôi, Anh tui. GIA TỈ 家姊: là Bà Chị nhà tôi, Chị tui... Đối với tiểu bối thì đổi chữ GIA thành chữ TIỂU, như: TIỂU ĐỆ 小弟 : là Thằng Em nhà tôi, Thằng em trai tui. TIỂU MUỘI 小妹 : là Con Em nhà tôi, Con nhỏ em gái tui. TIỂU NHI 小兒 : là Thằng con nhà tôi, Thằng con tui. TIỂU NỮ 小女 : là Con gái nhà tôi, Con gái tui. GIA còn là từ chỉ những người giỏi hoặc chuyên về một bộ môn nào đó, như : THỂ THÁO GIA 體操家 : là Nhà thể thao. NHIẾP ẢNH GIA 攝影家 : là Nhà nhiếp ảnh. ÂM NHẠC GIA 音樂家 : là Nhà âm nhạc, là Nhạc Sĩ. TÁC GIA 作家 : là Nhà sáng tác, thường chỉ về Văn học. Còn TÁC GIẢ : là Người sáng tác. 嫁 HÁN VIỆT Giá NGHĨA VIỆT Lấy chồng TỪ GHÉP giá thú 嫁娶 • hôn giá 婚嫁 • tái giá 再嫁 • xuất giá 出嫁. Chữ “嫁/ giá” trong từ “giá thú/ 嫁娶” gồm bộ “女/ nữ” và chữ “家/ gia”. Xét về cấu tạo chữ có thể thấy “女/ nữ” theo “家/ gia”. Như đã giải thích, “家/ gia” nghĩa là chồng, nhà chồng, chữ “嫁/ giá” có nghĩa là người con gái theo chồng. Trong tiếng Hán hiện đại, “嫁/ giá” vẫn là từ chuyên dùng cho nữ giới, chỉ việc đi lấy chồng. Như vậy, sự xuất hiện của chữ “嫁/ giá” đã ghi lại dấu tích của tập tục “nữ di cư” theo chồng, phản ánh chế độ hôn nhân thời kỳ xã hội nam quyền. Đến thời nhà Chu (1046 TCN – 256 TCN), chế độ hôn nhân này đã tương đối hoàn thiện. Trong “Nghi lễ/ 《仪礼》 ” có ghi: “Cưới hỏi có sáu lễ: Nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, thỉnh kỳ, thân nghênh trong đó “nạp chinh/ 纳征” thời cổ còn gọi là “nạp tệ/ 纳币”, nhà trai phải mang một lượng tài vật lớn đến nhà gái, gọi là “sính lễ/ 聘礼” (lễ ăn hoi). Sở dĩ nhà trai phải mang cho nhà gái một lượng lớn tiền tài trong lễ ăn hỏi là vì nhà gái đã nuôi nấng con gái mình lớn lên. Nay bị đưa đi nơi khác, phụng sự người khác, nên họ quan tâm đến vấn đề bồi thường để bảo đảm một phần lợi ích của mình. Đối với nhà trai, họ bỏ tiền ra lấy vợ. Người con gái xem như đã được mua lại, đương nhiên sẽ bị họ đối xử chẳng khác gì như một món hàng. “Tân Hoa tự điển/ 《新华字典》 ” giải thích: “‘嫁/ giá’ còn có nghĩa là bán/‘嫁’还有‘卖’、‘售’之义” (Ngụy Kiến Công, 2011). Điều này tương tự như trong “Chiến quốc sách - Tây Chu sách/ 《战国策•西周策》 ” đã ghi: “Đem cô ta bán sang nước Tề/ 以嫁之齐也/ Dĩ giá chi Tề dã” (汉语百度/ Trang Baidu), và trong “Hàn Phi Tử - Lục phản/ 《韩非子•六反》 ” có ghi: “Thời buổi mất mùa đói kém, tất có nhà phải bán vợ bán con/ 天饥岁荒,嫁妻卖子者,必是家也/ Thiên cơ tuế hoang, giá thê mại tử giả, tất thị gia dã” (汉语百度/ Trang Baidu). Người phụ nữ bị coi như món hàng có thể mua đi bán lại, phản ánh tập tục mua bán hôn nhân. Đến nay, cách nói “高价姑娘” (gái cao giá) chính là dấu tích còn lưu lại của tập tục này. Qua đây cho thấy, chữ “嫁/ giá” cũng mang dấu tích của thời kỳ chiếm hữu nô lệ, người phụ nữ sau khi mất đi địa vị trung tâm, đã mất quyền quyết định vận mệnh của mình và trở thành nô lệ của nam giới. 角 HÁN VIỆT Giác, cốc • giốc • lộc NGHĨA VIỆT Sừng, góc , đơn vị diện tích TỪ GHÉP bát giác 八角 • hải giác thiên nhai 海角天涯 • lục giác 六角 • tam giác 三角 • tam giác hình 三角形 • tê giác 犀角 GIÁC là chữ Tượng Hình, giáp cốt văn và kim văn miêu tả một cái sừng của thú vật (trâu bò, hươu nai,..). Hình thể chữ từ Đại Triện đến Tiểu Triện mới dần dần hình thành chữ viết, đến chữ Lệ của đời Tần thì hoàn thành như chữ viết của hiện nay 角. GIÁC 角: là Sừng thú vật, như NGƯU GIÁC 牛角: là Sừng trâu, Sừng bò. LỘC GIÁC 鹿角: là Sừng Hươu, Sừng Nai ... GIÁC còn có nghĩa là Góc Cạnh, như trong Hình Học ta có Hình TAM GIÁC 三角, TỨ GIÁC 四角, LỤC GIÁC 六角... GIÁC LẠC 角落: là Cái Góc nhà, Cái Xó Xỉnh nào đó. GIÁC TÚ 角宿 hay GIÁC TINH 角星: là Một vì sao trong Nhị Thập Bát Tú, là một trong 7 vì sao thuộc nhóm Thanh Long ở phương Đông, thuộc Mộc, tượng trưng cho hình con Giao Long, nên còn có tên là GIÁC MỘC GIAO 角木蛟. GIÁC 角 khi đọc là GIỐC thì là một trong Ngũ Âm của Âm nhạc cổ điển là: Cung Thương Giốc Truỷ Vũ 宮、商、角、徵、羽. Nguyễn Du đã khen tài thanh nhạc của cô Kiều là: Cung Thương lào bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một chương. GIÁC 角 trong tiền tệ là MỘT CẮC (10 xu). Thành ngữ thường gặp của chữ GIÁC là : HẢI GIÁC THIÊN NHAI 海角天涯: Ta nói là Chân Trời Góc Biển hay Trời Thẳm Vực Sâu gì cũng thế, như khi muốn treo ấn từ quan để đi tìm Thúy Kiều, Kim Trọng đã: Nghĩ điều Trời Thẳm Vực Sâu, Bóng chim tăm cá biết đâu mà tìm?! QUẦN HÙNG GIÁC TRỤC 群雄角逐: là Quần Hùng so tài cao thấp với nhau. Ta có từ GIÁC ĐẤU 角鬥 là Vật nhau, là Đô Vật. 解 HÁN VIỆT Giải, Giới NGHĨA VIỆT Giải phóng, giải toả, giảng giải, giải đi, dẫn đi, mổ xẻ… DẠNG KHÁC 觧 TỪ GHÉP áp giải 押解 •giải đáp 解答 • giải hoà 解和 • giải khát 解渴. Giải 解 là giải pháp, Giải phóng, giải toả, giảng giải, giải đi, dẫn đi, mổ xẻ… Giải 解được kết hợp bởi bên trái là chữ Giác 角 là cái sừng. Bên phải là chữ Đao 刀 ở trên, là con dao, chữ Ngưu 牛 dưới (Ngưu là Con Trâu). Tất nhiên muốn giải quyết được cái sừng ra khỏi đầu con trâu thì phải dùng con dao mà mổ lấy ra. Từ ghép và Thành ngữ về chữ GIẢI có : GIẢI THUYẾT 解說 là Cắt nghĩa, ta nói là GIẢI NGHĨA, GIẢI THÍCH 解釋. GIẢI VI 解圍: ta nói là Giải Vây, GIẢI NGUY 解危: là Cứu Nguy, GIẢI TÁN 解散: là Tan hàng, GIẢI ĐÁP 解答: là Trả Lời câu đố hoặc thắc mắc... GIẢI GIÁP QUY ĐIỀN 解甲歸田: là Cởi bỏ áo giáp đi về làm ruộng. Chỉ các binh tướng ngày xưa cởi bỏ áo trận về quê sống cuộc sống thôn dã, Là được Giải Ngũ về quê. GIẢI LINH HOÀN TU HỆ LINH NHÂN 解鈴還須繫鈴: Cởi lục lạc phải là người buộc lục lạc. Ý nói người nào làm ra việc gì đó thì người đó phải gánh lấy trách nhiệm giải quyết. Câu nói nầy hàm chứa một ý THIỀN theo như tích sau đây : Vào đời nhà Minh, trong Thanh Lương Tự ở đất Kim Lăng có Thái Khâm Thiền Sư là người tính tình hào sảng, không thích gò bó bởi giới luật thanh quy. Một hôm, Phương trượng của chùa là Pháp Nhởn Hòa Thượng khai đàn thuyết pháp, có đặt một câu hỏi với mọi người là: "Trên cổ của con hổ có đeo một cái lục lạc vàng, ai có thể lấy cái lục lạc vàng đó xuống?" Tất cả đều không thể trả lời. Lúc đó, Thái Khâm Thiền Sư đến, nghe câu hỏi bèn gợi ý rằng: Sao mọi người không trả lời là "Chính cái người đeo lục lạc vào cổ con hổ, có thể lấy cái lục lạc đó xuống!" Chỉ có Chính Đương Sự mới gở được những rắc rối phức tạp do Chính Đương Sự gây ra mà thôi! 姦 HÁN VIỆT Gian NGHĨA VIỆT Giả dối, Xảo trá,… DẠNG KHÁC 奸, 姧 TỪ GHÉP gian dâm 姦淫 • gian tà 姦邪 • kê gian 雞姦 • trừ gian 除姦. Chữ Gian : (bộ nữ女ở trên) thường được coi người vợ cả trong gia đình, và 2 bộ nữ (女) ở dưới là thể hiện những người thê thiếp, kẻ hầu người hạ của người chồng,...! Theo quan niệm phong kiến lạc hậu xưa, người đàn ông thường là trụ cột trong gia đình, cho nên họ có quyền được lấy nhiều vợ, và sinh nhiều con trai nối dõi, và cũng thêm người giúp việc gia đình,...! Nhưng lâu dần, từ lợi ích cá nhân trong gia đình, thì từ bà vợ cả với những người thê thiếp của chồng sẽ có những nghi kỵ lẫn nhau,..! Vì khi họ sống lâu ngày sẽ nảy sinh ra mâu thuẫn, mà càng nhiều mâu thuẫn thì họ càng sử dụng những trò gian manh để hại lẫn nhau,... Cho nên quan niện nho giáo cổ đại, hay trong các kinh sử đều nói rằng : cứ nơi nào mà có nhiều đàn bà thì nơi đó sẽ có nhiều chuyện thị phi rắc rối xảy ra,... 江 HÁN VIỆT Giang NGHĨA VIỆT Sông lớn, sông cái TỪ GHÉP chiết giang 浙江đà giang 沱江 • giang hồ 江湖 • giang sơn 江山. Chữ GIANG江nguyên chỉ sông Trường Giang, là một tên riêng. Sau này chữ江được dùng để chỉ các dòng sông lớn và sâu. Chữ 江về cấu tạo là chữ hình thanh kết cấu trái phải, bao gồm bộ THỦY氵(nước) chỉ nghĩa và CÔNG工 (công việc) biểu thị âm đọc. 交 HÁN VIỆT Giao NGHĨA VIỆT Tiếp xúc, kết bạn TỪ GHÉP chuyển giao 轉交 • giao cảm 交感 • giao cấu 交媾 • giao chiến 交戰 • giao dịch 交易 • giao du 交遊 • giao điểm 交點 • giao hoán 交換. Chữ GIAO交là một chữ tượng hình, mô tả một người đàn ông với hai chân bắt chéo vào nhau. Chỗ tiếp tiếp giáp của hai cái chân được gọi là giao điểm, cho nên 交 có nghĩa là tiếp xúc. Cũng như việc hai người bắt tay nhau thể hiện sự tiếp xúc thân thiện, chữ 交 cũng chỉ nghĩa giao lưu, kết bạn. 教 HÁN VIỆT Giáo, giao NGHĨA VIỆT Dạy dỗ, tôn giáo,… TỪ GHÉP chỉ giáo 指教 • chính giáo 政教 • công giáo 公教 • danh giáo 名教 • dị giáo 異教. Điền Hán trong cuốn “Mật mã chữ Hán” cho rằng, “chữ 教 giáo gồm ba bộ thủ hợp thành, (bên trái gồm 爻 hào và 子 tử. Bộ thủ thứ nhất là biểu tượng của sự giao cắt giữa những chiếc que gỗ, với ý nghĩa tính toán, bộ thủ thứ hai là phác hoạ hình ảnh đứa trẻ, bộ thủ thứ ba (bên phải) là biểu tượng tay cầm ngọn roi, hội ba hình ảnh lại biểu thị ý nghĩa người trưởng thành tay cầm roi dạy bảo, đốc thúc con trẻ học tập”. Cách lí giải của Điền Hán có lí. Tuy nhiên, trên cơ sở đã tiếp xúc với chữ 孝 hiếu thì chữ 教 giáo nên hiểu là sự kết hợp của chữ 孝 hiếu với bộ thủ bên phải thường gọi là bộ bán văn (còn gọi là phản văn, bộ phộc) có nghĩa liên quan đến roi vọt, cũng là biểu tượng của quyền uy. Theo Tiêu Khởi Hồng, “chữ giáo gồm có chữ 父 phụ đứng sau chữ hiếu, “dưỡng bất giáo phụ chiquá” (nuôi mà không dạy là lỗi của cha)”. Tính chất hội ý của chữ 教 giáo vừa thể hiện nội dung (dạy đạo hiếu, dạy cách làm người) vừa nói lên tính chất, nguyên tắc của việc dạy (dạy phải nghiêm). Dù cho rằng, bán văn là biến thể của chữ 父 phụ thì 父 phụ vốn là một chữ tượng hình, là nét phác họa người cha tay giơ cao cái thước để răn dạy con (thước còn có nghĩa là mực thước). Người cha trong vai trò giáo dục con cái luôn là tấm gương về sự cương trực, thẳng thắn. Cái uy của người cha trong gia đình đã truyền cho các con phẩm chất cứng cỏi, mạnh mẽ, dám nghĩ, dám làm. Thái độ nghiêm khắc của người cha đã hướng các con vào quỹ đạo cuộc sống, không tuỳ tiện làm theo sự sai khiến của bản năng. Việc dạy ngay từ ở gia đình đã cần phải có khuôn mẫu, chuẩn mực và đặc biệt nhấn mạnh tính nghiêm khắc. Người Trung Quốc hiện nay vẫn thường tâm đắc với câu nghiêm sư xuất cao đồ (thầy nghiêm mới có trò giỏi). 夾 HÁN VIỆT Giáp NGHĨA VIỆT Giáp, gần, kèm cặp TỪ GHÉP giáp công 夾攻 • giáp khắc 夾克 • giáp kiềm 夾鉗 • giáp y 夾衣 • tiếp giáp 接夾. Chữ GIÁP夾 là một chữ hội ý, bao gồm chữ ĐẠI大ở giũa và hai bộ NHÂN人hai bên. Trong cổ văn chữ夾 miêu tả một người to lớn đang đứng với hai người kề cận hai bên. Nghĩa gốc ban đầu của夾 là “phụ tá” nhưng nghĩa gốc sau đó gần như không còn được sử dụng. Bây giờ,夾 được dùng để thể hiện thứ gì đó ở gần hay cận kề. 甲 HÁN VIỆT giáp NGHĨA VIỆT Áo giáp, can đầu tiên trong thiên can. TỪ GHÉP binh giáp 兵甲 • giáp xác 甲殼 • hoàng giáp 黃甲• kim giáp 金甲; thiết giáp 鐵甲 • xuyên sơn giáp 穿山甲. Chữ GIÁP甲 là một chữ tượng hình mô tả một con rùa có mai cứng như áo giáp. Trước đây, chữ GIÁP 甲 cũng có nghĩa là bị giam giữ, vì cơ thể của rùa giống như đã bị 'giam giữ' bên trong một cái vỏ, nhưng ý nghĩa như vậy đã được thay thế bằng chữ押. Mặt khác, hạt giống được bao phủ bởi lớp vỏ dày cứng như giáp và hạt giống là giai đoạn đầu tiên của cây, vì vậy 甲được sử dụng làm Can đầu tiên của mười Thiên can (12 thiên can miêu tả quá trình phát triển của một cái cây). 介 HÁN VIỆT Giới NGHĨA VIỆT Khoảng giữa, cách, khoảng cách, làm trung gian TỪ GHÉP cảnh giới 耿介• giới thiệu 介紹 • giới thiệu 介绍 • môi giới媒介. Chữ GIỚI介là một chữ tượng hình, mô tả một người đàn ông đứng giữa hai bức tường, 介có nghĩa là ở giữa hay cách, khoảng cách. Ngoài ra, 介còn có nghĩa là làm trung gian, là người hay vật ở giữa như trong từ môi giới. 界 HÁN VIỆT Giới NGHĨA VIỆT Giới hạn, ranh giới, mốc, cõi DẠNG KHÁC 畍 TỪ GHÉP báo giới 報界 • biên giới 邊界 • cảnh giới 境界địa giới 地界 • giới hạn 界限 • giới tuyến 界線, hạ giới 下界. Chữ GIỚI 界 là một chữ Hội Ý kiêm Hình Thanh (thành phần 介ngoài biểu ý còn biểu âm). Bao gồm ĐIỀN田 (mảnh đất) và 介 (ở giữa), 介 mô tả một người đàn ông đứng giữa hai bức tường (xem bài phân tích chữ介). Vì vậy, Chữ界 có ý nghĩa là ở giữa các đường, biên hoặc ranh giới nằm giữa hai mảnh đất. Chữ界Là dạng biến thể của 畍, cả hai đều có cùng nghĩa và cách phát âm. 下 HÁN VIỆT Hạ, há NGHĨA VIỆT Phía dưới, xuống TỪ GHÉP bộ hạ 部下 • điện hạ 殿下 • hạ cố 下顧 • hạ giá 下價 • hạ giới 下界 • hạ hồi 下囘 • hạ lưu 下流• Chữ HẠ 下 là một chữ chỉ sự (chỉ vào vật để nói nghĩa) mô tả một đường chân trời với một điểm được viết bên dưới với ý là “ở đây, ở dưới này” chỉ rõ một cái gì đó nằm ở phía dưới (đối xứng lại với THƯỢNG上). Hạ cũng có nghĩa là đi xuống, xuống. Cũng giống như THƯỢNG chữ HẠ ngoài vai trò chữ đơn, nó cũng là một trong 214 bộ thủ, xuất hiện rất thường xuyên trong cấu tạo chữ hán. 寒 HÁN VIỆT hàn NGHĨA VIỆT Lạnh TỪ GHÉP cảm hàn 感寒 • cô hàn 孤寒 • đông hàn 冬寒hàn phong 寒風 Chữ HÀN寒là một chữ hội ý. Nếu nhìn vào giáp cốt và kim văn, chữ 寒 bao gồm hình ảnh một người đang co ro, hai bên là hai hàng cây trơ trụi lá, dưới chân nước đã đóng bóng, ở giáp cốt còn có thêm một nét cong thể hiện cho gió lạnh đang lùa tới, bộ miên ngoài nghĩa là mái nhà còn có nghĩa là bao phủ lên, bao gồm. Tất cả những thứ này diễn tả lại cái lạnh của mùa đông, cho nên寒 có nghĩa là lạnh giá, cũng có nghĩa là mùa lạnh hay mùa đông. Mặt khác trong thời tiết lạnh giá như vậy, con người rất khó để hoạt động sản xuất, cây cối không sinh hoa trái, vật nuôi không phát triển tốt dẫn đến thiếu lương thực. Cho nên, 寒mở rộng nghĩa là nghèo hèn hay đói kém như trong từ CƠ HÀN, HÀN MÔN, HÀN SỸ,… 限 HÁN VIỆT Hạn NGHĨA VIỆT Giới hạn, cõi, bậc cửa TỪ GHÉP giới hạn 界限 • hạn chế 限制 • hạn định 限定 • hữu hạn 有限 • kỳ hạn 期限 • mãn hạn 滿限 • quyền hạn 權限 • vô hạn 無限 HẠN限 thuộc dạng chữ Hội Ý kiêm Hình Thanh. Trong cổ văn miêu tả một người đứng nhoái người muốn nhìn ra xa (艮)nhưng bị vách núi cao (⻖) che mất tầm nhìn. HẠN限 nghĩa gốc là CÁCH TRỞ, từ ý nghĩa này phát triển thêm các nghĩa mở rộng như HẠN CHẾ, HẠN ĐỘ,… Các cụm từ và thành ngữ liên quan đến chữ HẠN tiêu biểu có: GIỚI HẠN 界限 : nghĩa là cái MỨC không được vượt qua. KỲ HẠN 期限 : nghĩa là thời gian đucợ quy định trước , hen trước HỮU HẠN 有限 : có mức độ rõ rệt, không được vượt qua giới hạn đó. Ta có : Điện Ảnh Hữu Hạn Công Ty 邵氏電影有限公司 là Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Điện Ảnh. VẬN HẠN 運限 : Thời gian có tai hoạ xảy tới cho cuộc sống. MÔN HẠN門限:là ngưỡng cửa. Liêu trai chí dị 聊齋志異: “Hành chí nhất gia, môn hạn thậm cao, bất khả du” 行至一家, 門限甚高, 不可逾 (Tam sanh 三生) Đi đến một nhà, ngưỡng cửa rất cao, không bước qua được. 行 HÁN VIỆT Hàng, hành NGHĨA VIỆT Hàng, dòng, đi, làm TỪ GHÉP đồng hàng 同行, hàng hoá 行貨 • hàng liệt 行列 • hàng ngũ 行伍ngân hàng 銀行 • nhung hàng 戎行 . Chữ HÀNH行là một chữ tượng hình, mô tả giao điểm của hai con đường, nghĩa gốc của 行 là hàng và cũng có thể sử dụng để mô tả một số ngành nghề được quy định chặt chẽ như trong từ ngân hàng, khi được sử dụng để biểu thị hai nghĩa trên, cách phát âm của nó trong là “hàng”. Mặt khác, cũng được sử dụng để chỉ nghĩa đi bộ, hay thực hiện một công việc gì đó, trong trường hợp này, ta có cách phát âm là “hành” như “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên” 三人行, 必有我師焉 (Thuật nhi 述而) Ba người (cùng) đi, tất có người (có thể) làm thầy ta; hay như trong từ vận hành運行. 幸 HÁN VIỆT Hạnh NGHĨA VIỆT May mắn, hạnh phúc TỪ GHÉP bất hạnh 不幸 • hạnh phúc 幸福 • sủng hạnh 寵幸 • vạn hạnh 萬幸 • vinh hạnh 榮幸. Chữ HẠNH幸là một chữ hội ý, bao gồm biến thể của YỂU夭và biến thể của NGHỊCH屰 (xem triện văn), 夭 có nghĩa là bất hạnh, trong khi屰có ý nghĩa chống lại, vì vậy khi cả hai kết hợp lại, 幸có nghĩa trái ngược với bất hạnh, vì vậy幸có nghĩa là thoát khỏi bất hạnh hay may mắn, hạnh phúc. 爻 HÁN VIỆT Hào NGHĨA VIỆT Hào âm dương, thẻ bát quái TỪ GHÉP Bộ thủ tạo chữ Chữ HÀO là một chữ tượng hình mô tả lại 4 thẻ tre xếp chéo vào nhau, mỗi thẻ tre như vậy tượng trưng cho vạch bát quái trong Kinh dịch (易经). Kinh dịch là bộ sách kinh điển của Trung Hoa. Nó là một hệ thống tư tưởng triết học của người Á Đông cổ đại. Tư tưởng triết học cơ bản dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và thay đổi (chuyển dịch). Ban đầu, Kinh Dịch được coi là một hệ thống để bói toán, nhưng sau đó được phát triển dần lên bởi các nhà triết học Trung Hoa. Cho tới nay, Kinh Dịch đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Á Đông và được coi là một tinh hoa của cổ học Trung Hoa. Nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh... 好 HÁN VIỆT Hảo, hiếu NGHĨA VIỆT Tốt, lành, đep,… TỪ GHÉP an hảo 安好 • hảo hạng 好項 • hoàn hảo 完好. Trong chữ giáp cốt, căn cứ vào kết cấu kết cấu chữ hán, chữ “Hảo” giống như hình người phụ nữ đang bế con. Điều đó thể hiện, từ thời cổ đại xa xưa, việc xinh con đẻ cái chính là việc tốt đẹp nhất. “Hảo” chính là việc người phụ nữ sinh con. Từ đó có thể thấy vai trò vô cùng quan trọng của người phụ nữ trong gia đình mẫu hệ ẩn trong chữ “Hảo”. Vậy tại sao việc “phụ nữ có thể sinh con” thì được cho là tốt đẹp. Từ góc độ lịch sử, thời cổ đại, do lực lượng sản xuất yếu kém, phương thức lao động nguyên thủy lạc hậu cùng với đó là chiến tranh, thiên tai, con người phải nhờ vào mối quan hệ huyết thống mới có thể duy trì sự sinh tồn quần thể. Vì vậy Nguyên nhân quan trọng nhất là muốn gia đình sinh tồn thì nhân khẩu phải tăng lên. Do quy luật sinh tồn cá lớn nuốt cá bé người đông ức hiếp số lượng ít. Đây là đặc tính tồn tại của xã hội nguyên thủy, vì thế đã sinh ra ý thức xã hội về việc mong muốn được đẻ nhiều. 黑 HÁN VIỆT Hắc NGHĨA VIỆT Màu đen, kín, bí mật, hắc ám DẠNG KHÁC 黒 TỪ GHÉP hắc ám 黑暗 • hắc bạch 黑白 • hắc hải 黑海 • hắc mễ黑米 • hắc nô 黑奴 • hắc thuỷ黑水 • hắc tiền 黑錢 HẮC 黑 thuộc dạng chữ Hội Ý, trong cổ văn là hình ảnh Ống khói ở trên (biểu diễn bằng chữ THÔNG 囱), bên dưới là bếp lò đang cháy (là chữ VIÊM 炎). Với ý nghĩa là lửa đốt bên dưới đi qua ống khói tỏa lên phía trên toàn khói đen, nên HẮC 黑 là Đen, là màu Đen như: HẮC BẢNG 黑板 là Bảng đen; HẮC NHÂN 黑人 là Người da đen; HẮC YÊN 黑煙 là Khói đen; HẮC BẠCH 黑白 là Trắng đen... HẮC BẠCH PHÂN MINH 黑白分明: là Đen trắng rõ ràng, ý chỉ là Đâu ra Đó, trắng ra trắng, đen ra đen. HẮC BẠCH BẤT PHÂN 黑白不分 : là Không phân biệt được trắng đen, phải trái ở đời. Lắm khi còn đổi trắng thay đen, nên ta lại có câu HẮC BẠCH ĐIÊN ĐẢO 黑白顛倒 là Đảo ngược trắng đen. Câu nầy tương đương với câu ĐIÊN ĐÃO THỊ PHI 顛倒是非 là Đão lộn phải trái, nói đúng thành sai, nói sai thành đúng, mập mờ đánh lận con đen! Đọc tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, ta còn thấy ông phân chia võ lâm thành hai phe HẮC BẠCH LƯỠNG ĐẠO 黑白兩道: Hắc Đạo là những người xấu, nham hiễm, bất chấp thủ đoạn; còn Bạch Đạo là những người tốt, chính trực, có tinh thần hiệp nghĩa, cứu khổn phò nguy. Có lòng tốt thì gọi là HẢO TÂM 好心, THIỆN TÂM 善心, còn lòng dạ xấu xa, ác độc thì gọi là HẮC TÂM 黑心, NHẪN TÂM 忍心. HẮC 黑 còn có nghĩa là thiếu ánh sáng, là tối, như: HẮC ÁM 黑暗 là Tối Tăm. HẮC DẠ 黑夜 là Đêm tối. HẮC 黑 cón chỉ lén lút, phi pháp, như: HẮC Xà HỘI 黑社會 là Xã Hội Đen, HẮC THỊ 黑市 là Chợ Đen... HẮC ĐIẾM 黑店 : Chỉ các khách sạn ngày xưa, mở ra để gạt gẵm khách qua đường, giết người cướp của... Ngày nay chỉ các hàng quán bán đồ lậu, ma túy, chứa gái... HẮC HẢI 黑海 : Là Biển Đen, Biển nằm giữa lục địa của Châu Á và Đông nam bộ của Châu Âu. HẮC LONG GIANG 黑龍江: Có 2 nghĩa... + Tên Tỉnh cực bắc của Trung Hoa, giáp ranh với nước Nga, thủ phủ là Cáp Nhĩ Tân 哈尔滨, Tỉnh Hắc Long Giang có mỏ dầu lớn nhất nước, chủ yếu là công nghiệp nặng. + Hắc Long Giang (The Heilongjiang River) tên một con sông lớn của Châu Á, chảy qua 3 nước: Mông Cổ, Nga và Trung Hoa, dài 4350 km. Thời gian đóng băng mỗi năm là 6 tháng. Ở cực bắc con sông là ranh giới giữa Trung Hoa và Nga. 很 HÁN VIỆT Hẫn, khấn, ngận NGHĨA VIỆT Rất, lắm, hết sức TỪ GHÉP 很好 Rất tốt, tốt lắm 凶很 Tàn ác. Chữ HẪN很là một chữ Hình Thanh kiêm hội ý, Bao gồm 彳(hành động, phần bên trái của行 (xem lại chữ sách彳)) và CẤN 艮 (hình ảnh một người đàn ông vặn cổ và nhìn lại (xem lại chữ cấn艮)). Khi ai đó vặn đầu và nhìn chằm chằm về phía sau, đầu anh ta bị giới hạn bởi cổ và không thể xoay 360 độ. 艮có nghĩa là khó khăn, ngang ngạnh, nghĩa gốc của很là một hành động cực đoan, nhưng ý nghĩa đó đã được thay thế bằng狠, bây giờ được sử dụng như một tính từ tăng cường. 匸 HÁN VIỆT Hệ, hễ NGHĨA VIỆT Che dấu TỪ GHÉP Bộ thủ cấu tạo chữ. Chữ HỆ匸là một chữ tượng hình mô tả một góc tường, là biến thể của chữ ẨN 𠃊. Cần phân biệt HỆ 匸với PHƯƠNG匚, điểm khác duy nhất là một nét nhỏ ở góc trên bên trái được thêm vào. Ngày nay, chữ匸không được dùng như một chữ đơn, nó chỉ xuất hiện như là một thành phần của chữ hán khác (匸là một trong 214 bộ thủ). 賢 HÁN VIỆT Hiền NGHĨA VIỆT Người có đức hạnh, tài năng TỪ GHÉP chiêu hiền 招賢 • hiền sĩ 賢士 • hiền tài 賢才 • hiền thần 賢臣 • hiền thê 賢妻. Về mặt cấu tạo chữ HIỀN賢là một chữ hội ý, được tạo thành từ ba bộ phận bao gồm chữ THẦN臣 (bề tôi), bộ HỰU又 (tay, làm lại) và bộ BỐI貝(tiền, của cải). Chữ THẦN 臣là chữ tượng hình, trong giáp cốt văn được biểu thị là hình một con mắt đứng thẳng, giống như con mắt người đang quỳ gối nhìn lên, thể hiện sự thần phục của kẻ bề tôi. Bộ HỰU 又 nghĩa gốc chỉ cánh tay, ở đây biểu thị công việc, phục dịch. Bộ BỐI 貝 chỉ về tiền tài, của cải. Ba bộ phận này hợp lại biểu thì ý nghĩa của chữ THẦN 賢 là : kẻ bề tôi là người trực tiếp quản lý công việc được giao phó thì phải đem lại lợi ích cho chủ nhân. Trong quan niệm của người hán về mối quan hệ Quân – Thần – Dân . Một kẻ bề tôi được cho là hiền thần, ngoài sự trung thành tuyệt đối với với đấng minhquân, còn phải là người vừa có tài vừa có đức. Với cương vị là người thay mặt vua cai quản con dân, người bề tôi phải biết sử dụng tài năng và đức hạnh của mình tạo cuộc sống ấm no cho những người dân dưới sự cai quản của mình. Để làm rõ tính chất biểu ý ẩn sâu trong chữ HIỀN xin trích lại một truyện dụ ngôn trong Kinh thánh : "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng mỗi người, đoạn ông ra đi. Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Cũng vậy, người lãnh hai nén cũng làm lợi ra hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc, đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". "Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo và thu nơi không phát, nên tôi khiếp sợ đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ đượcdư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng" 協 HÁN VIỆT Hiệp NGHĨA VIỆT Hợp sức, giúp đỡ DẠNG KHÁC 劦 TỪ GHÉP đồng tâm hiệp lực 同心協力 •hiệp hội 協會 • hiệp lực 協力 • thoả hiệp 妥協. Chữ HIỆP協 là một chữ hình thanh kiêm hội ý, thực ra chỉ mình chữ HIỆP劦đứng riêng cũng đã có nghĩa tương tự rồi. 劦gồm ba bộ力với ý chỉ sự chung tay của nhiều, hợp sức lại cùng làm một việc gì đó. Sau nay người ta thêm bộ THẬP十 vào, bộ十vừa là con số lớn nhất với ý nhấn mạnh sự tham gia của rất nhiều người. Mặt khác, chữ十 cũng tượng trưng cho sự vẹn toàn hay mỹ mãn, 十 được thêm vào để nhấn mạnh sức mạnh khi con người biết đoàn kết, khi con người biết cùng nhau hợp sức thì việc gì cũng có thể thành công mỹ mãn. 孝 HÁN VIỆT Hiếu NGHĨA VIỆT Lòng biết ơn cha mẹ TỪ GHÉP báo hiếu 報孝 • bất hiếu 不孝 • hiếu đạo 孝道. Về cấu tạo của chữ hiếu, các học giả căn cứ vào hình dạng của chữ đưa ra những phán đoán khác nhau. Quan sát chữ hiếu trong kim văn, nửa trên giống như hình người già đầu bạc trắng, tay chống gậy, lưng còng, phần dưới là chữ tử, hai bộ thủ hợp lại giống như một bức tranh phác hoạ hình ảnh người con dìu cha già. Trong cuốn “thuyết văn”, tác giả Hứa Thận căn cứ vào bề mặt của chữ, giải thích nghĩa của chữ hiếu là con kế thừa sản nghiệp của cha. Làm con muốn được cha truyền cho nối nghiệp nhà thì điều kiện đầu tiên là phải biết nghe lời để cha mẹ vui. Nghe lời cha mẹ là sự thể hiện rõ nét nhất của đạo hiếu. Nhằm củng cố và tăng cường địa vị của mình, giai cấp thống trị phong kiến đã đưa ra tiêu chuẩn đạo đức xã hội là 忠 trung và 孝 hiếu. Trong đó, trung là đạo nghĩa của bề tôi đối với vua, hiếu là đạo làm con với cha mẹ. Trung hiếu luôn đi liền với nhau và được coi là hai tiêu chuẩn đạo đức phongkiến định đặt cho con người. Hai tiêu chuẩn đó đã được tuyệt đối hoá đến mức quân sử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu (vua bảo bề tôi phải chết mà bề tôi không chịu chết là bề tôi bất trung, cha bắt con chết mà con không chịu chết là con bất hiếu).Tác giả Tiêu Khởi Hồng giải thích, chữ hiếu là kết hợp của chữ lão và chữ tử. Tác giả nhận định, “mỗi người đều do cha mẹ sinh ra, cha mẹ chính là người già của mình, cũng chính là căn nguyên, nguồn cội của mình. Đó là quan hệ giữa tre và măng. Nói về đạo lí luân thường, chữ hiếu là điều căn bản”. Chữ hiếu là chữ hội ý kết cấu trên dưới. Phần trên là nửa của chữ 老 lão, phần dưới là chữ 子 tử. Bản thân chữ 孝 hiếu đã thể hiện ý nghĩa thế nào là con cái hiếu nghĩa với cha mẹ. Làm con phải biết tôn trọng, đề cao, phụng dưỡng cha mẹ, luôn coi cha mẹ là bậc trên tôn kính của mình. Người Trung Quốc có quan niệm nuôi con để phòng tuổi già. Khi cha mẹ tuổi cao sức yếu thì vừa lúc con cái đã trưởng thành, cha mẹ hy vọng chất cũng như tinh thần cho mình. Những người con cũng cần chủ động đền đáp công ơn cha mẹ đã nuôi dưỡng khi còn tấm bé chưa thể tự lo liệu những đứa con đều có hiếu để làm chỗ dựa vật được. Người Việt Nam cũng có câu trẻ trông cha, già cậy con. Những quan niệm đó đã thể hiện quan niệm về quan hệ gia đình hết sức đúng đắn của dân tộc Hán và dân tộc Việt Nam. 刑 HÁN VIỆT Hình NGHĨA VIỆT Hình phạt, tra tấn,… TỪ GHÉP hình phạt 刑罰, cực hình 極刑 • đại hình 大刑, hành hình 行刑 • hình bộ 刑部• hình sự 刑事. Chữ HÌNH刑là một chữ hội ý kết cấu trái phải, do KHAI开 (mở ra) và bộ ĐAO刀 (con dao) tạo thành. Một khi hành vi phạm tội ở mức nghiêm trọng sẽ bị xử phạt với hình thức cao nhất là chịu tội chết. Khai đao, xử trảm, chém đầu kẻ tội phạm. Mệnh lệnh, hành vi ấy chúng ta thường nghe trong Bao công xử án đã thể hiện điều đó. Chính vì vậy, trong quá trình phán xử, bị cáo thường mong được khai ân để được giảm nhẹ hình phạt. 花 HÁN VIỆT hoa NGHĨA VIỆT Bông hoa, hoa văn, vết loang, pháo hoa TỪ GHÉP HOA 花 thuộc dạng chữ hình thanh kết cấu trên dưới, chữ bao gồm bên trên là bộ THẢO ĐẦU 艹chỉ ý kết hợp bên dưới là HÓA 化 (biến đổi) chỉ âm. THẢO 艹 là cỏ nên HOA 花 trước nhất có nghĩa là hoa của cây cỏ. HOA 花là Bông. Ta gọi là Bông Hoa. Những thứ gì đẹp giống như...BÔNG đều được gọi là Hoa, như : TUYẾT HOA 雪花 : Hoa Tuyết, PHÁO HOA 炮花: Pháo Bông, LÃNG HOA 浪花 : Hoa Sóng... như nhạc sĩ Anh Thy đã viết trong bài HOA BIỂN: ...Em ơi, giận hờn, xin như HOA SÓNG tan trong đại dương! Kiệu được kết Hoa thì gọi là KIỆU HOA; Xe được trang trí Hoa thì gọi là XE HOA, là mơ ước của các cô gái từ xưa đến nay đều muốn được một lần bước lên Kiệu Hoa, Xe Hoa ! HOA còn dùng để chỉ những người đẹp, như : HOA HẬU, HOA KHÔI...và HOA cười ngọc thốt đoan trang... của người đẹp. Và chỉ với HOA ẢNH 花影 là cái Bóng Hoa thôi, Tô Đông Pha 蘇東坡 đời Tống đã cho ta một bài tứ tuyệt tuyệt tác như sau : 重重疊疊上瑤臺, Trùng trùng điệp điệp thướng dao đài, 幾度呼童掃不開. Kỷ độ hô đồng tảo bất khai. 剛被太陽收拾去, Cương bị thái dương thâu thập khứ, 卻教明月送將來 ! Khước giáo minh nguyệt tong tương lai ! Có nghĩa : Cái bóng của những khóm hoa trùng trùng điệp điệp in trên dao đài, đã mấy lần gọi gia đồng quét đi, nhưng lại quét không đi. Mới vừa được ánh nắng dọn dẹp đi (nắng tắt nên bóng hoa cũng mất theo), thì lại được ánh trăng sáng mang NÓ trở lại (Trăng sáng nên bóng hoa lại hiện lên trên dao đài). Diễn nôm : Chập chùng hoa ảnh rợp dao trì Mấy lượt gia đồng quét chẳng đi Vừa lúc nắng chiều thu dọn mất Lại theo trăng sáng rợp dao trì ! Ẩn dụ của bài thơ (ý tại ngôn ngoại): Bóng của hoa cũng đẹp chứ, tại sao Tô Đông Pha 蘇東坡 lại ghét dữ vậy? Mấy lần bảo gia đồng quét bỏ đi! À, thì ra ông ví bóng hoa như những người bất đồng chính kiến, như những người xu nịnh, vừa hết nhóm nầy lại đến nhóm khác quấy nhiễu triều đình làm ông đâm ra bực mình và ví von như thế! 和 HÁN VIỆT Hòa, họa, hồ NGHĨA VIỆT Yên ổn, ấm no,Cùng, trộn lẫn,… TỪ GHÉP bão hoà 饱和 • bất hoà 不和 • biên hoà 邊和 • cầu hoà 求和. Chữ HÒA和 (yên ổn, ấm no) là một chữ hình thanh, hợp bởi chữ HÒA禾là cây lúa (bộ phận này vừa biểu âm và mang nghĩa) bên phải là bộ KHẨU口 (miệng, nhân khẩu). Hai bộ này kết hợp lại hàm ý nói đến cuộc sống no đủ của người dân (Trong chữ kim văn và triện văn thể hiện rất rõ hình ảnh cây lúa trĩu hạt hướng tới cái miệng ăn) Chữ HÒA和 còn được phân tích theo một cách khác, Chữ THIÊN (千 – nghìn) hợp với chữ NHÂN (人 – người) và chữ KHẨU (口 – miệng) tạo thành chữ HÒA là hòa hợp, hài hòa , cũng có nghĩa cả ngàn người có cùng một lời nói là HÒA HỢP, HÀI HÒA… 火 HÁN VIỆT Hỏa NGHĨA VIỆT Lửa, nhiệt, thuốc nổ, sự nóng giận, đơn vị trong quân đội. TỪ GHÉP cứu hoả 救火 • hoả công 火攻 • hoả diệm sơn 火焰山, hoả táng 火葬 • hoả thiêu 火燒 • hoả tốc 火速 • hoả tuyến 火線 Chữ HỎA 火 là một chữ Tượng Hình, chữ mô tả một đốm lửa đang cháy, lửa nóng, vì vậy, HỎA là lửa nhưng cũng được sử dụng để mô tả sự tức giận hay tính khí nóng nảy của một người. Ngoài ra, trong phép binh ngày xưa cứ mười người gọi là một “hỏa”. Người trong một hỏa gọi là “hỏa bạn” 火伴. HỎA火thường được dùng để ghép vào phía trái hoặc phía dưới chữ. Nhưng khi nằm phía dưới HOẢ còn được viết thành 4 chấm như sau: 灬 . Có khỏang trên 400 chữ được ghép bởi bộ Hỏa ớ bên trái và khoảng 40 chữ được ghép bởi bộ Hỏa bằng 4 chấm nằm bên dưới. 化 HÁN VIỆT Hóa, hoa NGHĨA VIỆT Biến hóa, Biến đổi TỪ GHÉP biến hoá 變化 • cảm hoá 感化. Trước hết, nói về tính chất biểu ý của hóa 化. Hóa 化 đứng riêng rẽ cũng là một chữ Hán, cấu tạo theo nguyên tắc hội ý gồm hai bộ thủ tạo thành. Theo cách lí giải của Đường Hán, “hình dạng ban đầu của chữ化hóa trong giáp cốt văn rất giống hình hai người đứng ngược chiều nhau, bằng cách so sánh dạng người đứng xuôi (chân chạm đất, đầu đội trời) và dạng ngược (đầu chạm đất, chân hướng lên trời) để biểu thị sự biến hóa” . Phía trước là bộ nhân đứng, khắc họa hình ảnh người trong tư thế đứng thẳng, đầu đội trời, chân đạp đất - người đang sống và hoạt động. Phía sau là hình ảnh người trong tư thế ngược lại, đầu quay xuống dưới, chân hướng lên trên. Tư thế đảo ngược âm dương đó với hàm ý là người đã chết, quay đầu về đất. Con người sinh ra cũng như vạn vật, sự sống hữu hạn trong vòng trăm năm, từ sống đến chết là một sự thay đổi lớn nhất của kiếp người. Từ nghĩa gốc chỉ sự sống chết của con ngườichuyển thành nghĩa bóng chỉ sự biến đổi của sự vật như hóa họa vi phúc, hóa hiểm vi di (hóa nguy vi an)… Tiếp đó phát triển thành yếu tố cấu tạo nên động từ như tự động hóa, công nghiệp hóa, cơ giới hóa (tiếng Việt cũng mượn yếu tố “hóa” làm thành một từ đơn hoặc từ tố của động từ, sử dụng với tần số lớn và kết hợp khá tự do với các yếu tố Hán và yếu tố thuần Việt, như hóa thân, hóa kiếp, hóa vàng …). Gần đây còn có những từ mới xuất hiện theo cách cấu tạo này như lục hóa trong cụm từ lục hóa thành thị (phủ xanh thành phố). Trong những từ và cụm từ ấy, hóa vẫn mang nghĩa là thay đổi, biến hóa. 貨 HÁN VIỆT Hóa NGHĨA VIỆT Hàng hóa TỪ GHÉP bách hoá百貨• tạp hoá 雜貨. Theo từ điển quy phạm hán ngữ hiện đại, chữ HÓA貨 (hàng hóa) là một chữ hình thanh do bộ HÓA化 ở trên biểu âm, và chữ BỐI貝ở dưới biểu ý tạo thành. Tuy nhiên nhiều học giả vẫn cho rằng chữ HÓA貨 là chữ hội ý kết cấu trên dưới gồm bộ HÓA化 (biến hóa, chuyển đổi) và chữ BỐI貝 (vỏ sò, tiền tệ) tạo thành. Tính chất hội ý ở đây là dùng tiền trao đổi hàng hóa. Phân tích tính chất biểu ý của chữ hóa có thể thấy được nhận thức của người xưa về hoạt động thương mại và tính chất của hàng hóa. Chữ HÓA với tính chất biểu ý của nó phản ánh thuộc tính của hàng hóa và quy luật lưu thông phân phối. Hàng hóa phải được lưu thông, khâu bán hàng là khâu chuyển đổi từ dạng vật phẩm sang tiền tệ. Vật phẩm貨 (hàng hóa)>> HÓA化(chuyển đổi) >> BỐI貝 (tiền)Ngược lại, với người mua, vốn có tiền, họ đem tiền của mình đổi lấy vật phẩm BỐI貝 (tiền) >> HÓA化 (chuyển đổi) >> Vật phẩm貨 (hàng hóa) Hoạt động thương mại là một vòng tuần hoàn hàng – tiền – hàng – tiền phản ánh đúng bản chất của hàng hóa và hoạt động sản xuất hàng hóa. 畫 HÁN VIỆT Họa, hoạch NGHĨA VIỆT Vẽ, bức tranh, vạch ra TỪ GHÉP chuẩn tắc 準則 • nguyên tắc 原則 • quy tắc 規則 • Chữ HỌA畫là một chữ hội ý, bao gồm bộ DUẬT聿(cây bút) và biến thể của 田 (cánh đồng, mảnh đất). 聿 mô tả một bàn tay đang cầm bút, nghĩa là vẽ. Đất đai, ruộng vườn là những tài sản có giá trị, biên giới giữa chúng cần được phân định rõ ràng, người ta sử dụng bút để vẽ và phân biệt chúng ra, vì vậy畫 có nghĩa ban đầu là vạch ra hay kế hoạch hoặc phân định, nhưng nghĩa đó đã được thay thế bằng劃 , ngày nay chữ 畫 chủ yếu có nghĩa là vẽ. Mặt khác, phần dưới của劃 trong giáp cốt không phải là hình ảnh của một mảnh đất, ý nghĩa của nó vẫn chưa được biết chính xác, có thể được xem như một kiểu mẫu hoặc thiết kế. Tuy nhiên, bất kể đó là thứ gì khác, ý nghĩa của 畫 vẫn được xác lập. 或 HÁN VIỆT Hoặc, vực NGHĨA VIỆT Hoặc là, có thể, có lẽ, liên từ liệt kê. TỪ GHÉP gián hoặc 間或 • hoặc giả 或者 • hoặc hứa 或許. Chữ HOẶC或là một chữ Hội Ý, bao gồm VI 囗 (bao vây) và QUA戈 (một ngọn giáo), nó mô tả vùng đất của ai đó đang được bảo vệ bằng vũ lực. Trước đây, 或 có nghĩa là một vùng đất có ranh giới nhất định, nhưng ý nghĩa đó sau đó đã được thay thế bằng VỰC 域 và QUỐC 國, cho nên 或chỉ có nghĩa là 'hoặc' hoặc 'có thể', vì kẻ thù có thể đến từ các hướng khác nhau, không có cửa nhất định cho lính canh , đôi khi họ cần bảo vệ ở đây, đôi khi ở chỗ kia. Ngày nay, 或 được sử dụng như phó từ với nghĩa Hoặc, có thể, có lẽ, chắc, lời nói còn ngờ, chưa quyết định hẳn. Như: “hoặc hứa” 或許 có lẽ, “hoặc nhân” 或人 hoặc người nào. Cũng có thể dùng như một liên từ biểu thị sự chọn lựa, liệt kê. Như: “hỉ hoặc nộ” 喜或怒 mừng hay giận, “ai hoặc lạc” 哀或樂 buồn hay vui, “khứ hoặc bất khứ” 去或不去 đi hay không đi. 坏 HÁN VIỆT Hoại NGHĨA VIỆT Hư, xấu, kém TỪ GHÉP bại hoại 败坏• huỷ hoại 毁坏 • phá hoại 破坏 • Chữ HOẠI坏 (hư xấu kém) gồm chữ THỔ土 (đất) và chữ BẤT 不 hợp thành. Với ý nghĩa là kinh huyết thải ra là những thứ ô uế , bẩn thỉu, cần phải tránh xa (xem bài phân tích chữ bất). Những người phụ nữ có ý thức mỗi kỳ kinh đến đều rất cẩn thận e dè trong sinh hoạt, giao tiếp và nhất là xử lý huyết thải một cách kín đáo tế nhị. Huyết thải đó rơi vào đâu, nơi đó thái sẽ thành bĩ, đất ở đó sẽ khó sinh sôi. Trong đời sống văn minh hiện đại ngày nay, trong giao tiếp, tiếng Hán cũng như tiếng Việt đều có những từ ngữ uyển chuyển thay cho những từ cấm kị. Từ đó trong tiếng Hán hiện đại, HOẠI 坏phát triển thành nghĩa xấu , kém, tồi, bị đào thải,… 患 HÁN VIỆT Hoạn NGHĨA VIỆT Hoạn nạn, lo lắng, bệnh tật,… TỪ GHÉP bệnh hoạn 病患 • hậu hoạn 後患 • hoạn nạn 患难 Chữ HOẠN (hoạn nạn, bệnh, tai họa: “患”) do chữ Xuyến (xuyên suốt, kết ghép: “串”) và chữ Tâm (“心”) tạo thành. Bên dưới là một chữ tâm, bên trên chữ tâm là chữ xuyến, có nghĩa rằng có quá nhiều tâm. Một người không thể một lòng, nhất tâm đối đãi với được mất, thứ này cũng muốn, thứ kia cũng muốn, sợ mất đi thứ này, sợ mất đi thứ kia thì sao không sinh ra sầu lo, họa nạn? Một người không thể nhất tâm làm việc, việc này cũng muốn làm, việc kia cũng muốn làm, chần chừ không an tâm thì sao có thể thành công được? Một người không thể nhất tâm đối với người khác, luôn đa nghi, ngờ vực, thì sao có thể coi là một người khỏe mạnh được? 黃 HÁN VIỆT Hoàng, huỳnh NGHĨA VIỆT Màu vàng, bộ hoàng DẠNG KHÁC 黄 TỪ GHÉP hoàng giáp 黃甲 • hoàng hà 黃河 • hoàng hải 黃海 • hoàng kim 黃金 • hoàng oanh 黃鶯. Chữ HOÀNG黃là một chữ chỉ sự, mô tả một người đàn ông ốm yếu với cái bụng sưng phồng đang ngẩng đầu lên đây là triệu chứng của bệnh gan. Thêm một dấu hiệu nữa đi kèm với cái bụng chướng là da của người bệnh có màu vàng. Về nguồn gốc của chữ 黃 đến nay vẫn có nhiều tranh cãi, quan điểm trên về nguồn gốc chữ 黃 được nhiều học giả tán thành hơn cả. 活 HÁN VIỆT Hoạt NGHĨA VIỆT Hoạt động, sống,… TỪ GHÉP hoạt bát 活潑 • hoạt động 活動. Chữ HOẠT活là chữ hội ý, gồm bên trái là bộ THỦY氵(nước), bên phải là chữ THIỆT舌 (cái lưỡi). Từ xa xưa khi tri năng về chức năng của các bộ phận cơ thể, người ta phát hiên ra lưỡi là cơ quan đóng vai trò quan trong trong việc nói năng. Trong tiếng việt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn có câu :” uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình”; Dân gian có cách nói “miệng lưỡi thế gian” hay “uốn ba tấc lưỡi”… đều thể hiện sự tri nhận của con người với vai trò của lưỡi. Chữ THIỆT 舌 thêm ba chấm THỦY 氵 hợp lại thành HOẠT 活với nghĩa là sống. Điều đó đã thể hiện sự khẳng định vai trò của nước đối với sự sống. Người ta có thể nhịn ăn hàng tuần nhưng không thể nhịn uống quá ba ngày. Mặt khác khi quan sát hoạt động nói năng của con người, ta thấy, khi nói, lưỡiphải thật sự linh hoạt, nước bọt cần phải tiết ra đủ để cho hoạt động phát âm diễn ra bình thường. Người già khi đau yếu, miệng khô, lưỡi cứng, cũng là lúc không thể nói được nữa. Dân gian gọi là cấm khẩu. 學 HÁN VIỆT Học NGHĨA VIỆT Học tập DẠNG KHÁC 学 TỪ GHÉP ấu học 幼學 • bác học 博學,du học 遊學 • đại học 大學. Hình dạng chữ HỌC學, từ chữ giáp cốt đến chữ kim văn có những thay đổi nhất định. Do đó, mỗi học giả có những phán đoán khác nhau. Chữ HỌC學trong giáp cốt văn gồm ba bộ thủ tạo thành. Bộ thủ thứ nhất gồm hai bàn tay xòe ra, bao lấy bộ thủ thứ hai. Bộ thủ thứ hai là chữ HÀO學hình dung giống 4 que tính đan vào nhau. Hai bộ thủ này hợp lại thể hiện ý nghĩa là dùng tay để làm phép tính. Bộ thủ thứ ba là bộ MIÊN宀hình dung như mái nhà. Cả ba bộ ghép lại thể hiện ý nghĩa “dạy người làm phép tính trong nhà”. Đến chữ kim, chữ triện và chữ khải ngày nay, ba bộ thủ này vẫn tồn tại, có điều ngoài ba bộ thủ này ra còn có thêm bộ thứ tư, bộ TỬ子 (con) ở dưới bộ MIÊN 宀. Điều đó chứng tỏ việc học phải được tiến hành từ sớm, môi trường học đầu tiên là gia đình, cha mẹ là người thầy còn con là người học trò. Việc học của con cái phải được tiến hành từ khi đứa trẻ mới ra đời. Việc học bắt đầu là sựmô phỏng, đứa trẻ bắt chước người lớn để khám phá thế giới, hòa nhập cộng đồng. Học giả Tiêu Khởi Hồng lại có cách lý giải hơi khác một chút. Chữ CỮU 臼thể hiện đứa trẻ vừa mọc răng. Việc học, việc dạy dỗ phải được hành khi trẻ mới nhú răng. Chữ hào là biểu tượng văn tự đời cổ. Điều đó có nghĩa là giáo dục từ vỡ lòng phải được bắt đầu bằng việc dạy chữ. Kết hợp với hai bộ phận còn lại thể hiện ý nghĩa việc học là quá trình tất yếu giúp cho trẻ trẻ từng bước mở mang trí tuệ. Dù hiểu theo cách nào thì HỌC cũng là việc mà người trung quốc xưa nay rất coi trọng. Học luôn gắn liền với dạy. Giáo học tương trưởng là chân lý mà trong tác phẩm Lễ ký đã được khẳng định. 虎 HÁN VIỆT Hổ NGHĨA VIỆT Cửa một cánh, nhà, gia đình TỪ GHÉP bạch hổ 白虎 • bạo hổ 暴虎 • hổ cốt 虎骨 • hổ huyệt 虎穴 • hùng hổ 雄虎 • mãnh hổ 猛虎 Chữ HỔ 虎 trong cổ văn vốn là chữ Tượng Hình, Giáp Cốt và Kim Văn chữ hổ là hình tượng một con hổ đang nhe nanh múa vuốt, con hổ với đầy đủ đầu, thân, bốn chân và phần đuôi. Diễn tiến chữ HỔ 虎 về sau nay là sự kết hợp của bộ HÔ虍 và NHI 儿. HÔ 虍vốn là chữ tượng hình miêu tả những vằn vện trên mình con hổ, đây là nét đặc trựng nhất để phân biệt hổ với các loài thú ăn thịt khác. HỔ虎 là con hổ là biểu tượng của uy vũ, của dũng mãnh, như HỔ UY 虎威, HỔ TƯỚNG 虎將, HỔ TRƯỚNG 虎帳 (Trướng Hùm.... Khi Kiều Báo ân trả thù thì: Trướng Hùm mở giữa trung quân, Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi. TIẾU DIỆN HỔ 笑面虎 : là Mặt cọp cười, thường dùng để chỉ những ngưởi nham hiểm như Hoạn Thư : Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiễm giết người không dao! Ta cũng hay gặp những nhân vật có ngoại hiệu là TIẾU DIỆN HỔ trong các tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình; mặt luôn nở nụ cười nhưng hành vi lại rất tàn nhẫn ác độc. LOÁT HỔ TU 捋虎鬚 : là Vuốt râu Hùm, chỉ cả gan dám làm những việc nguy hiễm mà ít ai dám làm. HỌA HỔ BẤT THÀNH 畫虎不成 : là Vẽ cọp không thành... lại trông giống chó. Chỉ làm việc gì đó không xong lại làm trò cười cho người khác, như lời dân chúng nói với Lục Vân Tiên : E khi HỌA HỔ BẤT THÀNH, Khi không mình lại xô mình vào hang. HỔ LẠC BÌNH DƯƠNG 虎落平陽: là Cọp đi lạc xuống đồng bằng, mất đi cái thế của núi rừng, nên... chó cũng đâm ra dữ ngươi khi dễ; cũng như con người khi sa cơ thất thế, hoặc lúc hết thời cũng dễ dàng bị những người tầm thường khác ăn hiếp coi rẻ. Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu : Long du thiển thuỷ tao hà hí, 龍游淺水遭蝦戲, HỔ LẠC BÌNH DƯƠNG bị khuyển khi. 虎落平陽被犬欺。 Có nghĩa : Rồng lội trong nước cạn thì bị tôm tép giởn mặt, còn... Cọp đi lạc xuống đồng bằng cũng bị chó khinh khi. HỔ ĐẦU XÀ VĨ 虎頭蛇尾: là Đầu cọp mà Đuôi rắn. Chỉ làm việc gì đó rất rầm rộ lúc ban đầu, nhưng sau cùng lại không nên cơm cháo gì cả! Có tiếng mà không có miếng! Ta nói là: "Đầu voi mà Đuôi chuột!" NHƯ HỔ THIÊM DỰC 如虎添翼: là Như hùm thêm vây, như cọp thêm cánh. Chúa sơn lâm vốn dĩ đã dũng mãnh dữ dằn rồi, bây giờ lại mọc thêm cánh có thể bay lên được thì lại càng dũng mãnh dữ dằn hơn nữa! HÀ CHÍNH MÃNH Ư HỔ 苛政猛於虎: là Chính trị hà khắc còn hung dữ hơn là cọp nữa! Đây là câu nói của đức Khổng Phu Tử có xuất xứ từ sách Luận Ngữ như sau : Khổng Tử đi ngang qua núi Thái Sơn, nghe có tiếng đàn bà khóc lóc thảm thương, bèn cho Tử Lộ đến hỏi nguyên do. Tử Lộ đến hỏi: "Bà khóc thảm thiết thế kia, chắc có chuyện đau buồn?" Người đàn bà đáp: "Cha chồng tôi bị hổ vồ chết, chồng tôi cũng bị hổ ăn thịt, nay con trai tôi cũng bị hổ vật chết luôn, không khóc lóc thảm thương sao được!" Khổng Tử hỏi: "Thế sao bà không dời đi chỗ khác ở?" Người đàn bà đáp rằng: "Chính quyền nơi đây không hà khắc, quan rất thương dân!" Khổng Tử bèn quay sang nói với chúng đệ tử rằng: "Các trò nhớ lấy "Chính trị hà khắc còn dữ hơn là cọp dữ nữa!" 戶 HÁN VIỆT Hộ NGHĨA VIỆT Cửa một cánh, nhà, gia đình DẠNG KHÁC 戸;户 TỪ GHÉP âm hộ 陰戶• hộ chủ 戶主 • hộ đầu 戶頭 • hộ khẩu 戶口. Chữ HỘ戶là một chữ tượng hình, Mô tả một cửa ra vào chỉ có một cánh cửa, có thể được xem là một nửa của 門 (cửa có hai cánh), vì cửa là cả lối vào và lối ra của một ngôi nhà, là bộ phận rất quan trọng trong cấu trúc ngôi nhà, vì戶vậy nghĩa rộng của chữ HỘ 戶 là NHÀ, như trong từ HỘ KHẨU 戶口 và Thành ngữ: THIÊN GIA VẠN HỘ 千家萬戶 : là chỉ chung DÂN CHÚNG với Ngàn Vạn Nóc Gia, với Muôn Ngàn Nhà Cửa. Thành ngữ gây đau khổ nhất cho các cặp trai gái yêu nhau từ xưa tới nay là "MÔN ĐĂNG HỘ ĐỐI 門當戶對" là 2 Nhà có Cửa Ngõ ngang bằng với nhau, tức là phải cùng Giàu hay cùng Quyền Thế như nhau, nếu không thì không thể "Làm Suôi" với nhau được! Trong bài thơ "Thắm thoát 50 năm" kể lại mối tình đầu thuở học sinh của tôi có vế thơ sau: ... Ấy thế, tình ta sớm nhạt màu, Người đời miệng tiếng lắm xôn xao. HỘ ĐỐI MÔN ĐĂNG muôn kiếp vẫn... là rào ngăn cách kẻ yêu nhau! Có 3 hình thức của chữ HỘ như sau : 户, 戶, và 戸 . Ngoài nghĩa là CỬA là NHÀ ra, HỘ còn có nghĩa Hệ Phái, Bộ Tộc hay Phe Nhóm nào đó. Đọc tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, ta hay thấy từ "Thanh Lý Môn Hộ" là "Làm sạch môn phái", tức là "Giải quyết vấn đề rắc rối riêng của nội bộ môn phái đó" mà người ngoài không thể can thiệp vào được. Cái gì có Cửa ra vào thì cũng được gọi là HỘ, như : ÂM HỘ 陰戶 : là chỉ Cửa Mình của phái nữ . Nhưng ... DƯƠNG HỘ 陽戶 : thì lại là Nhà cất xây về hướng mặt trời mọc. Như 2 câu thơ của Viên Hoằng Đạo đời Minh, trong bài " Hí đề Đạo Sĩ Phục" là : 明袁宏道《戏题道士洑》诗: 陽戶開北面, DƯƠNG HỘ khai bắc diện, 東流水西還。 Đông lưu thuỷ tây hoàn. Có nghĩa : Đáng lẽ ... Nhà phải hướng về đông thì lại xây mặt về hướng Bắc, Nước đều chảy về đông thì lại ngược về Tây. 回 HÁN VIỆT Hồi, húi NGHĨA VIỆT Bẻ gãy, phân ra DẠNG KHÁC 囘 TỪ GHÉP hồi âm 回音 • hồi báo 回報 • hồi quy 回归 • hồi quy 回歸 • hồi sinh 回生thu hồi 收回. Chữ HỒI回 ở cổ văn (giáp cốt, kim văn) là một chữ Tượng Hình miêu tả lại một vòng xoáy. Vòng xoáy này sau đó được thay thế bằng hai hình vuông lớn nhỏ lồng vào nhau bắt đầu từ thể triện văn. 昏 HÁN VIỆT Hôn NGHĨA VIỆT Tối, mờ TỪ GHÉP hoàng hôn 黃昏 • hôn ám 昏暗 • hôn lễ 昏禮 • hôn loạn 昏亂 • hôn mê 昏迷 • hôn muội 昏昧 • hôn quân 昏君. Chữ HÔN 昏 là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bao gồm chữ THỊ 氏 ( họ, có nguồn gốc là hình ảnh của một người đàn ông cúi đầu) và 日 (mặt trời). 氏có cùng nguồn gốc với低 (thấp), 氏 trong quá khứ được sử dụng để mô tả một cái gì đó ở vị trí thấp. Mặt trời (日) xuống quá thấp (氏), gần với đường chân trời chứng tỏ trời đã sẩm tối. 昏 cũng dùng để chỉ sự tối tăm, mê muội như trong từ hôn quân昏君. Ngoài ra, ngày xưa cưới xin cứ đến tối mới đón dâu nên gọi là “hôn lễ” 昏禮, sau mới đổi dùng chữ “hôn” 婚, tuy nhiên, thỉnh thoảng người ta vẫn dùng 昏 với nghĩa là lễ cưới. 婚 HÁN VIỆT Hôn NGHĨA VIỆT Cưới, lễ cưới TỪ GHÉP bức hôn 逼婚 • cầu hôn 求婚 • chủ hôn 主婚• đính hôn 訂婚 • • hôn lễ 婚礼. Chữ “婚/ hôn” xuất hiện trong thời kỳ mang dấu tích của tục cướp hôn. Chữ “婚/ hôn” được cấu tạo từ bộ nữ và chữ “昏/ hôn” trong “hoàng hôn/ 黄昏”. Trong “Thuyết văn giải tự/ 《说文解字》 ” có ghi: “Hôn, là nghi lễ tổ chức nhà gái, lấy vợ lúc hoàng hôn/ 婚,妇家也礼,娶妇以昏时/ hôn, phụ gia dã lễ, thú phụ dĩ hôn thời” (Hứa Thận, 1998). Tập tục này mang nhiều dấu tích cướp hôn, thừa lúc chập choạng tối, cướp lấy nữ nhi về làm vợ. Trong “Lễ ký 《礼记》 ” cũng ghi về tục cướp hôn: “Hôn lễ không chúc mừng, nhà gái đêm đến không tắt đèn vì lo phải chia ly con gái; nhà trai ba ngày không cử nhạc linh đình để giữ bí mật tránh nhà gái đề phòng và vì còn nghĩ đến việc nối dõi/ 婚礼不贺,嫁女之家三夜不息烛,思相离也;娶妇之家三日不举乐,思嗣亲也/ Hôn lễ bất hạ, giá nữ chi gia tam dạ bất tức chúc, tư tương ly dã; thú phụ chi gia tam nhật bất cử nhạc, tư tự thân dã”. Hiện nay, dân tộc Dao và Miêu (Mèo) ở Trung Quốc vẫn còn lưu dấu tích thực thi giả định tập tục này. 紅 HÁN VIỆT Hồng NGHĨA VIỆT Màu hồng, màu đỏ DẠNG KHÁC 红 TỪ GHÉP hoa hồng 花紅• hồng hà 紅河 • hồng hải 紅海hồng nhan 紅顏 . Chữ HỒNG紅là một chữ hình thanh, kết cấu trái phải. trong đó bộ MỊCH糸 (tơ) đóng vai trò biểu nghĩa, gắn liền với văn hóa dệt nhuộm của người xưa. Màu đỏ tươi sáng là thứ màu sắc được con người chú ý đến đầu tiên. Ban đầu con người dùng màu sắc của vật thể để biểu thị màu sắc. Như chữ XÍCH赤gồm chữ ĐẠI大và HỎA 火tạo thành, con người dùng màu sắc của đốm lửa lớn để chỉ màu đỏ. Chữ HỒNG 紅lấy MỊCH làm ký hiệu biểu ý, mà tơ lại có màu trắng. Sau khi ngành dệt may đã phát triển, nhuộm là phương pháp chủ yếu để tô màu cho vải sợi, vải gai. Những người tạo chữ đã lấy làm căn cứ để cấu tạo một cách có quy định các chữ chỉ màu sắc. HỒNG 紅chỉ màu sắc trung gian, tức màu sắc tương giao giữa màu trắng và đỏ, tương tự như màu hồng ngày nay. Người xưa không cho nó là màu sắc chính. Đến đời đường HỒNG 紅mới thực sự chuyển sang chỉ màu đỏ. 合 HÁN VIỆT Hợp, Hạp, Hiệp NGHĨA VIỆT Hợp lại, gộp lại, hợp lý,… TỪ GHÉP bách hợp 百合 • bất hợp 不合 • bất hợp lệ 不合例 • bất hợp lý 不合理 • bất hợp pháp 不合法. Chữ HỢP合 nghĩa là Hợp lại, gộp lại, hợp lý,.. Có người phân tích chữ 合 bao gồm bộ NHÂN bộ NHẤT và bộ KHẨU tức là nhiều người cùng chung một tiếng nói hay quan điểm thì gọi là HỢP. Cách giải thích này hợp lý, nhưng trên cơ sở tìm hiểu nguồn gốc chữ hán, HỢP ban sơ có ý nghĩa hơi khác một chút : Chữ HỢP 合 ban đầu có hình ảnh cái chum, cái vại đang được đậy nắp lại (xem hình ảnh Giáp cốt văn, kim văn, triện văn sẽ thấy rõ). Chúng ta chỉ đậy được nắp lại khi cả nắp và chum cùng kích cỡ và ăn khớp với nhau, giống như ta vẫn nói “ nồi nào vung nấy”, cho nên, 合trước tiên có nghĩa là vừa vặn hayăn khớp. Mặt khác chum vại dùng để đựng lúa gạo hay nói cách khác là tập hợp chúng lại để dễ bề sử dụng nên cũng có nghĩa là tụ lại, họp lại. Có một câu chuyện vui về chữ HỢP như sau: Dương Tu là quân sư của Tào Tháo. Rất nhiều lần ông vượt tài chủ mình, khiến Tào tăng trưởng tật đố. Có lần, người ta đem tới tặng cho Tào Tháo một hộp bánh, Tào ăn thử một miếng, khen ngon rồi viết lên trên hộp bánh chữ “一合酥” nghĩa là “một hộp bánh“, Dương Tu thấy thế đem bánh ra chia cho lính mỗi người một miếng ăn chơi. Tào Tháo biết thế tức lắm, nhưng vì quý trọng người tài nên hậm hực hỏi Dương Tu sao lại làm vậy? Dương Tu trả lời: “Ôi Chủ Công của tôi ! Ngài viết lên trên hộp bánh là “mỗi người một miếng”, tôi làm sao dám trái lệnh?“. Lý do là trong tiếng Hán, chữ “一合酥” ( nhất hợp tô) có thể tách thành “一人一口酥” ( nhất nhân nhất khẩu tô – bỏ cái mũ của chữ 合 xuống thành chữ 人 và chữ 一) có nghĩa là “mỗi người một miếng“. Lúc này Tào đã bắt đầu cảnh giác với Dương Tu. 凶 HÁN VIỆT Hung NGHĨA VIỆT Ác, sợ hãi TỪ GHÉP hung ác 凶悪• hung bạo 凶暴 • hung hiểm 凶險 • hung khí 凶器 • hung tàn 凶殘 • Có quan điểm cho rằng, chữ HUNG凶 là một chữ tượng hình vẽ lại một cái miệng với những chiếc răng sắc nhọn, thể hiện sự dữ tợn, hung ác. Tuy nhiên nếu căn cứ vào quá trình phát triển của hình thể chữ từ giáp cốt cho đến dạng chữ ngày nay, có thể khẳng nói, chữ HUNG凶là một chữ chỉ sự. Trong giáp cốt và triện văn, hình dạng chữ HUNG giống như hình một cái hố sâu, ở dưới hố là hai thanh cây đan chéo vào nhau. Từ hình dạng chữ có thể suy đoán, hai thanh tre đan chéo vào nhau biểu thị cho những cây chông sắc nhọn. Cái hố thật chất là một cái bẫy với những cây chông đáng sợ, chết chóc. Hình dạng cái hố sau này được viết lại hoàn chỉnh hơn với bộ KHẢM凵 (há miệng, cái hố) và thêm hai gạch chéo “X” tạo thành chữ HUNG 凶 như ngày nay. 雄 HÁN VIỆT hùng NGHĨA VIỆT Trống, đực, mạnh mẽ TỪ GHÉP anh hùng 英雄 • gian hùng 奸雄 • hào hùng 豪雄 • hùng dũng 雄勇 • hùng hậu 雄厚• hùng hồn 雄渾 • hùng khí 雄氣 • hùng tráng 雄壮 Chữ HÙNG (雄) là một chữ hình thanh kết cấu trái phải, bao gồm bên trái là chữ HOÀNH 厷 chỉ âm và bên phải bộ CHUY 隹 chỉ ý. CHUY 隹 là chữ tượng hình miêu tả một con chim đuôi ngắn nên HÙNG (雄) là chim trống, là giống đực, là đàn đàn ông như trong từ “ANH HÙNG 英雄” tức là người NAM tài giỏi, vượt trội. HÙNG cũng được dùng để chỉ sự to lớn và mạnh mẽ như trong các từ “Hùng hậu”, “hùng vĩ”,... Đối lại với HÙNG 雄 là THƯ 雌, về mặt cấu tạo THƯ 雌 cũng là chữ hình thanh bao gồm THỬ 此 bên trái chỉ âm và bên phải là CHUY 隹 biểu thị ý nghĩa. THƯ 雌 nghĩa là con chim mái, là giống cái, là người nữ như trong từ “ANH THƯ” nghĩa là người phụ nữ tài hoa, xuất sắc. THƯ cũng dùng để chỉ sự mềm mỏng và yếu đuối như trong Đạo Đức Kinh 道德經: “Tri kì hùng, thủ kì thư, vi thiên hạ khê” 知其雄, 守其雌, 為天下谿 - Biết mình cứng mạnh, nhưng vẫn giữ ở chỗ mềm mỏng, làm khe nước cho thiên hạ. Trong văn ngôn xưa và nay ta hay nghe “quyết một trận thư hùng”, vậy hiểu cụm từ trên như thế nào cho đúng ? Ta có,THƯ là con chim mái HÙNG là con chim trống, vậy THƯ HÙNG là trống mái, ở ta hay nói là SỐNG MÁI; cho nên khi nói “quyết một trận thư hùng” tức là “quyết một trận sống mái” có nghĩa: Đấu một trận cho rõ ràng trống ra trống mái ra mái, nhất định so tài hơn kém rõ rệt như trống với mái. 血 HÁN VIỆT Huyết NGHĨA VIỆT Máu, bộ huyết TỪ GHÉP băng huyết 崩血, bổ huyết 補血 • huyết cầu 血球. Chữ HUYẾT血là một chữ tượng hình, mô tả một cái chén (皿) với một giọt máu trong đó. 血có liên quan đến nghi thức “cắt máu ăn thề “ ngày xưa. Đây là nghi thức để kết tình huynh đệ. Những người đàn ông gồm 2 hay nhiều hơn tuy không có quan hệ anh em máu mủ, họ hàng nhưng có quan hệ mật thiết, thân tình với nhau như những người anh em thật sự bằng những lời tuyên thệ kết nghĩa với nhau. Trong những buổi lễ, sẽ có nghi thức cắt máu ăn thề, vái trời đất hoặc trao các tín vật làm tin. Đặc biệt là nghi lễ cắt máu ăn thề để chứng tỏ một lời thề máu, máu của mỗi người được trộn lẫn vào nhau, có thể rỏ vào rượu để uống. Máu thể hiện trái tim , tấm lòng của con người, khi máu hòa quyện với nhau thì những người bạn tuy hai mà lại một, không đồng sinh nhưng thề đồng tử, sống chết có nhau. 穴 HÁN VIỆT Huyệt NGHĨA VIỆT Hang, lỗ, hố, huyệt người chết, huyệt vị TỪ GHÉP điểm huyệt 點穴 • đồng huyệt 同穴 • hổ huyệt 虎穴 • huyệt cư 穴居 • khai huyệt 開穴 • khổng huyệt 孔穴 • long huyệt 龍穴 • sào huyệt 巢穴 HUYỆT 穴là chữ Tượng Hình, trong Kim Văn Đại Triện và Tiểu Triện là hình tượng của một đồi núi, bên dưới có hai cái lổ như hang động, nên HUYỆT 穴 vốn là những hang lổ bằng đất. Vì thế mà ta có các từ như : THẠCH HUYỆT 石穴 : là Hang Đá. KHỔNG HUYỆT 孔穴 : là Hang Lổ. SÀO HUYỆT 巢穴 : là Hang Ổ. LONG ĐÀM HỔ HUYỆT 龍潭虎穴 : là Đầm rồng hang cọp, chỉ những nơi hung hãn nguy hiểm bội phần. MỘ HUYỆT 墓穴 : Cái lổ để chôn người chết. HUYỆT ĐẠO 穴道 : Những điểm tập hợp ở đầu hoặc cuối dây thần kinh, nơi có thể Châm Cứu để trị bệnh. Trong võ học có thuật Điểm Huyệt để làm tê liệt một bộ phận hay toàn bộ cơ thể con người. 螢 HÁN VIỆT Huỳnh NGHĨA VIỆT Con đom đóm DẠNG KHÁC 萤 TỪ GHÉP Huỳnh phách 螢魄. HUỲNH螢 là con đom đóm. Chữ được kết hợp bởi chữ VIÊM炎 phía trên là ánh lửa bốc lên, đốt cháy, bừng lên...Bộ MỊCH冖 là bao trùm, trùm lên.. và bộ TRÙNG虫 là côn trùng, sâu bọ. Một loại côn trùng được bao phủ bởi những đốm lửa sáng chỉ có thể là 螢 đom đóm. 香 HÁN VIỆT Hương NGHĨA VIỆT Mùi, hương vị,… TỪ GHÉP đinh hương 丁香hương cảng 香港 • hương giang 香江 • hương hoả 香火 • Chữ HƯƠNG香 là chữ hội ý kết cấu trên dưới, gồm bộ HÒA禾 (cây lúa) và bộ CAM甘 (ngọt) tạo thành (xem kim văn và triện văn để thấy rõ chữ cam). Người dân trung quốc tròng và chế biến ngũ cốc. Dù chế thành rượu hay nấu thành cơm, ngũ cốc đều có hương vị thơm ngọt. Người ta cảm nhận, thưởng thức thành quả lao động nông nghiệp của mình bằng khứu giác và vị giác. Thành quả lao dộng được kết tinh lại thành những hạt gạo hương thơm, vị ngọt nuôi sống con người. Trải qua quá trình phát triển, chữ HƯƠNG 香 hiện nay vẫn còn giữ nguyên bộ HÒA 禾 phía trên, chữ cam phía dưới đổi thành chữ NHẬT日(mặt trời). Tính chất hội ý của chữ HƯƠNG 香 (hòa 禾 + nhật日) sẽ là hoa lúa phơi dưới nắng, tỏa mùi hương thoang thoảng. Đó là hương thơm mà ai cũng có thể dễ dàng cảm nhận khi mùa vê “nắng thơm rơm mới, đồng quê gặt mùa”. 休 HÁN VIỆT Hưu, hu NGHĨA VIỆT Nghỉ ngơi, thôi, dừng, tốt lành,… DẠNG KHÁC 庥 TỪ GHÉP cáo hưu 告休 • hồi hưu 回休, hưu trí 休致. Chữ Hưu休 Nghĩa là nghỉ ngơi, thôi dừng làm một việc gì đó. Hợp bởi bên trái là chữ nhân亻là người và bên phải là bộ Mộc木là cây cối. Ngày xưa công việc chính của người á đông chủ yếu cả ngày trên đồng ruộng. Những lúc nắng nóng, mệt mỏi người ta thường tìm đến những cây tán lá rộng có bóng mát để nghỉ ngơi lấy sức, cho nên 休 mang nghĩa nghỉ ngơi. “Nhân tựa mộc, mộc kề nhân Đố em biết được nên vần chữ chi” 牺 HÁN VIỆT Hy NGHĨA VIỆT Vật tế thần DẠNG KHÁC 犧 TỪ GHÉP hy sinh 牺牲. Chữ HY牺khắc họa lại tập tục cúng tế của người trung quốc khi xưa. Trong cấu tạo của chữ HY bao gồm bộ NGƯU và Dậu (chỉ bình rượu) là các vật phẩm gần như bắt buộc phải có trong nghi thức cúng tế. Trong chữ HY犧ban đầu có thêm hình ảnh DƯƠNG羊 (con dê) và TÚ秀 (lúa) cũng là những vật phẩm dùng để cúng tế dâng lên thần linh. Sở dĩ người ta dùng Trâu bò hay dê làm vật cùng tế bởi chúng là những động vật ăn cỏ hiền lành lại gần gũi với con người. Trâu bò, dê, lúa, rượu hay vải lụa đều là những sản phẩm do hoạt động sản xuất của con người mà ra. Con người dùng những vật phẩm này để dâng tế thần linh cầu mong mưa thuận gió hòa, cuộc sống ấm no. 喜 HÁN VIỆT Hỷ, hy, hý NGHĨA VIỆT Vui mừng, tốt lành TỪ GHÉP báo hỉ 報喜 • cung hỉ 恭喜 • đại hỉ 大喜 • hỉ hoan 喜欢 • hỉ hoan 喜歡 • hỉ kịch 喜剧 • hỉ kịch 喜劇 • hỉ sự 喜事. Chữ HỶ (喜) về cấu tạo là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, phía trên là TRÚ (壴) kết hợp với bộ KHẨU (口) bên dưới. Trước hết nói về chữ TRÚ (壴) , 壴 là một chữ tượng hình miêu tả một cái trống, ở giữa là mặt trống, trên có vật trang trí và ở dưới là đế trống. Chữ 壴 là gốc của chữ CỔ 鼓 (cái trống, đánh trống) Trong cổ văn 鼓 miêu tả một bàn tay cầm dùi đánh vào mặt trống. TRÚ (壴) là một loại nhạc cụ dạng trống dùng trong lễ hội, ca múa. Phần dưới của chữ HỶ (喜) là bộ KHẨU (口) biểu thị cho lời hát, lời chúc mừng. Như vậy HỶ (喜) là tay đánh trống miệng hò reo chúc mừng, HỶ (喜) có nghĩa là việc tốt lành, việc vui mừng. Trong lễ ăn hỏi, đám cưới của người Việt Nam, do ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa nên chữ Hỷ màu đỏ xuất hiện rất nhiều không chỉ một chữ mà là “song hỷ” (囍) , từ thiệp cưới, phông cưới đến vỏ hộp bánh cốm, chè, hạt sen, quả cau, lá trầu… Có khi đôi chữ hỷ đám cưới còn được dán ở nhà, ngoài ngõ để thông báo với mọi người về đám cưới. Nguồn gốc của biểu trưng này xuất phát trong phong tục cưới hỏi Trung Quốc. Ngày xưa, song hỷ mang ý nghĩa thể hiện hai niềm vui lớn: đại đăng khoa – thi đỗ làm quan và tiểu đăng khoa – cưới vợ. Ngày nay, đôi chữ này biểu thị cho niềm vui cũng như sự chúc phúc của hai họ dành cho đôi uyên ương. Chữ “Hỷ”(囍) trong đám cưới được ghép lại từ 2 chữ “Hỷ” (喜) và được gọi là song hỷ. Song có nghĩa là hai, hỷ mang ý nghĩa mừng vui. Khi ghép lại, song hỷ mang ý nghĩa niềm vui nhân đôi. Bên cạnh đó, cụm từ “song hỷ lâm môn” cũng được sử dụng trong nhiều đám cưới Việt, đặc biệt là trong hôn lễ người Hoa. Bởi chúng biểu thị cho niềm vui nhân đôi đã cùng nhau tới cửa, mang ý nghĩa không thể nào tốt đẹp hơn cho ngày vui của các đôi uyên ương. Chữ song hỷ trong đám cưới gắn với một giai thoại đẹp, đầy yếu tố may mắn, trời định về tình duyên, thi cử của bậc danh sĩ nổi tiếng đời nhà Tống, một trong “Đường Tống bát đại gia” – Vương An Thạch. Giai thoại về ông liên quan đến chữ song hỷ như sau: Thuở nhỏ Vương An Thạch học rất giỏi, năm 20 tuổi chàng lên kinh đô cách quê chừng 200 dặm để dự thi. Dọc đường Vương An Thạch đi qua một vùng trù phú. Nhà Mã Viên ngoại của vùng đang kén chồng cho con gái rất xinh đẹp. Viên ngoại là người có học nên muốn chọn rể giàu chữ làm hiền sĩ chứ không phải lắm của nhiều tiền. Khi Vương An Thạch qua đó cũng là lúc Viên ngoại đang mở tiệc mừng thọ. Trong nhà treo đèn kết hoa rực rỡ, khách khứa ra vào đông như hội. Bên ngoài cổng có treo một lồng đèn lớn, kẻ qua người lại xúm nhau xem xét, bàn tán. Vương An Thạch thấy lạ, ghé vào nhìn thì thấy trên đèn kéo quân dán một vế đối: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ” (Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân. Vương An Thạch nghĩ mãi không đối được, nhưng vẫn nói cứng: “Câu này dễ đối thôi”, rồi bỏ đi. Người nhà của Mã Viên ngoại nghe được, chưa kịp vào trình với Viên ngoại thì Vương An Thạch đã lên đường lên kinh đô. Tại trường thi, Vương An Thạch làm bài thi xong, đem nộp quyển trước tiên. Quan chủ khảo lật ra xem, tấm tắc khen tài, vấn đáp ông trả lời trôi chảy đã có ý lấy ông đỗ đầu. Nhà vua cho vời ông vào triều để biết mặt và thử tài thêm. Thấy ở sân rồng có một lá cờ lớn, trên có thêu một con hổ, Vua ra cho ông một vế đối: “Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân (Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình). Vương An Thạch chợt nhớ tới vế đối trên đèn kéo quân trước nhà Mã Viên ngoại và thấy âm, ý rất hay và rất chỉnh khi đối với câu nay liền ứng khẩu đọc luôn: Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ. Vua và chủ khảo thấy Vương có tài ứng đối mau lẹ, vế đối rất chỉnh, có ý nghĩa xuất sắc nên đã chấm Vương An Thạch đậu thủ khoa kỳ thi đó. Trong khi chờ đăng tên lên bảng vàng, Vương An Thạch trở về quê nhà. Khi đi ngang qua Mã gia trang, người nhà của Mã Viên ngoại nhận ra Vương là người đã từng nói vế ra dán trên đèn kéo quân dễ đối, nên mời Vương vào nhà trình với Mã Viên ngoại. Mã Viên ngoại yêu cầu Vương An Thạch đọc vế đối, Vương liền lấy câu của Vua ra đọc lên thành: Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ; Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân. Mã Viên ngoại vô cùng mừng rỡ, thấy vế đối rất chỉnh, rất khéo lại ẩn ý khoe tương lai nên nói với Vương An Thạch rằng: “Vế đối dán trên đèn kéo quân là của con gái lão, nó kén chồng nên thách đối như thế, nếu ai đối được nó mới đồng ý lấy làm chồng. Để lão gọi con gái lão ra cho hai đàng giáp mặt. Sau đó đám cưới được tổ chức linh đình tại Mã gia trang”. Vương An Thạch cưới được vợ tài giỏi và giàu có, ở luôn tại nhà Mã Viên ngoại. Ngay liền trong ngày đó, triều đình đăng bảng, Vương An Thạch đậu Trạng nguyên, được triều đình gọi lên kinh đô nhậm chức. Thế là chàng họ Vương nhờ may mắn mà đạt được một lượt hai điều vui mừng: cưới được vợ tài giỏi giàu có và đậu Trạng nguyên. Vương An Thách bèn hứng chí ngâm nga: Vận may đối đáp thành song hỷ, Cờ hổ, đèn quân kết vợ chồng. Sau đó lấy giấy viết hai chữ hỷ rất to trình lên nhạc gia và gửi về gia đình mỗi nhà một bản. Thông báo lại hai việc cực kỳ may mắn, tốt lành là đại đăng khoa (thi đỗ) và tiểu đăng khoa (lấy vợ). Với việc viết hai chữ hỷ đám cưới liền nhau đọc là “song hỷ”, vị Trạng nguyên tài danh này đã sáng tạo ra một chữ mới, chữ song hỷ. Như vậy, nguồn gốc của chữ song hỷ là do điển tích vừa cưới được vợ đẹp giỏi, vừa thi đậu Trạng nguyên. Ngày nay, chữ song hỷ vẫn là hình ảnh quen thuộc trong những hôn lễ Việt. Với ý nghĩa tốt đẹp, cách dán chữ đám cưới này luôn có một chỗ đứng vững chắc trong lòng các đôi uyên ương. Chúng như thể hiện lời chúc phúc của hai bên gia đình về một cuộc sống hôn hạnh phúc và đầy ấp niềm vui cho các đôi vợ chồng son. Không chỉ thế, song hỷ còn xuất hiện trong những mẫu thiệp cưới đẹp, phông cưới đến vỏ hộp bánh cốm, chè, hạt sen, quả cau, lá trầu…Trong đó, thiệp cưới chữ song hỷ luôn là sự lựa chọn hàng đầu của các cặp đôi để tạo ấn tượng đầu tiên với những vị khách quý. Nhiều người nói rằng, chữ hỷ đám cưới còn mang ý nghĩa cho hai việc vui mừng song song với nhau, nhà trai cưới được vợ cho con trai, nhà gái gả được chồng cho con gái. Và cũng được các cặp đôi ưa chuộng cho ngày trọng đại của đời mình. 右 HÁN VIỆT Hữu NGHĨA VIỆT Bên phải TỪ GHÉP hữu biên 右邊 • hữu ngạn 右岸• hữu thủ 右手 • tả hữu 左右 • tả xung hữu đột 左衝右突. Chữ HỮU右là một chữ ở dạng hội ý kiêm hình thanh. Ở đây, để thuận tiện cho việc ghi nhớ chữ xin phân tích theo dạng hội ý. Chữ HỮU 右 mô tả một bàn tay 𠂇với口(cái miệng) bên cạnh nó. Vì bàn tay phải thường mạnh hơn và nhanh nhẹn hơn giữa hai bàn tay, chúng ta sử dụng nó để làm hầu hết các công việc thường ngày. Việc ăn uống là việc rất quan trọng với con người, tay phải cũng phụ trách việc đưa thức ăn vào miệng vì vậy chữ口 được thêm vào để thể hiện nó là tay phải hay bên phải. Mặt khác,chữ 又 là nguồn gốc của 右. Trong quá khứ, 又có nghĩa là bàn tay phải, nhưng sau khi右đã được phát minh, 又cũng chỉ có nghĩa là tay. Ngày nay 右 và 又 sử dụng với cùng một cách phát âm, có thể coi đây là một bằng chứng của sự tiến hóa ngôn ngữ vậy. 友 HÁN VIỆT Hữu NGHĨA VIỆT Bạn bè TỪ GHÉP bằng hữu 朋友 • cố hữu 故友 • giao hữu 交友 • giáo hữu 教友. Quan sát chữ HỮU友 từ giáp cốt đến dạng triện văn, ta thấy rõ chữ do hai bộ THỦ手 (cánh tay) tạo thành. Sang dạng lệ và khải thư có thay đổi một chút, phần trên là biến thể của bộ thủ phần dưới là HỰU又cũng là biến thể của bộ THỦ. Các nhà nghiên cứu cho rằng, hai bộ THỦ ghép lại với ý nghĩa là mối giao hữu, tình bạn hữu nghị khăng khít, bình đẳng được biểu trưng bằng hình ảnh hai cánh tay đưa ra một trên một dưới giao kết với nhau. Quan hệ bạn bè là một trong ngũ luân, cùng với quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em song song tồn tại. Trong thực tế cuộc sống có những nỗi niềm buồn vui của bản thân không thể chia sẻ với cha mẹ, vợ chồng, anh em mà chỉ có thể thổ lộ tâm sự với bạn bè. Do đó quan hệ bạn bè là sự kết giao về mặt tình cảm. Bạn bè chia sẻ giúp đỡ nhau về tình cảm và tình thần vô điều kiện, không tính toán. Tình bạn là sự thể hiện cao độ của lòng nhân ái. 有 HÁN VIỆT Hữu, hựu, dựu NGHĨA VIỆT Có, sở hữu TỪ GHÉP chiếm hữu 佔有 • hi hữu 希有 • hiện hữu 現有•hữu dụng 有用 • hữu duyên 有緣 • hữu hiệu 有效 • hữu ích 有益. Chữ HỮU有 là một chữ hội ý, mô tả một bàn tay đang cầm một miếng thịt (bộ nhục肉). Thịt rất có giá trị ở Trung Quốc cổ đại, khi ai đó có một miếng thịt, anh ta nghĩ rằng mình thực sự sở hữu một cái gì đó quý giá. Trong cấu tạo chữ有 ngày nay, bộ nhục肉 được viết rất giống bộ nguyệt月, điều này dễ gây ra sự hiểu lầm cho người học chữ hán. 又 HÁN VIỆT Hựu, hữu NGHĨA VIỆT Cái tay, lại, lại nữa DẠNG KHÁC TỪ GHÉP Là bộ thủ tạo chữ. Chữ HỰU又là một chữ tượng hình mô tả một bàn tay phải. Tay phải mạnh hơn tay trái, vì vậy nó có thể được sử dụng nhiều lần. Nghĩa gốc của 又 chỉ bàn tay phải sau đó được thay thế bằng 右, Điều đáng chú ý là, cách phát âm của cả右và又đều giống nhau. Trong cấu tạo chữ hán, 又đóng vai trò là bộ thủ với ý nghĩa chỉ về tay nói chung. Chữ HỰU 又 cũng có nghĩa là làm lại, thêm nữa (như đã giải thích ở trên). 開 HÁN VIỆT Khai NGHĨA VIỆT Mở DẠNG KHÁC 开 TỪ GHÉP công khai 公開 • khai giảng 開講•khai hoá 開化. Chữ KHAI (開) có nghĩa là mở, chữ ở dạng chữ Hình Thanh kiêm Hội Ý gồm bộ Môn (門 – cánh cửa) và bên trong là chữ开vẽ hai cánh tay mở hai cánh cửa (开). Vì thế, KHAI có nghĩa là mở, mở ra, mở đầu, bắt đầu, ví dụ các từ: khai hội, khai mạc, khai sinh, khai tử, khai hỏa, khai xuân, khai nghiệp, khai trương… 看 HÁN VIỆT Khán, khan NGHĨA VIỆT Xem, nhìn TỪ GHÉP khán giả 看者 • khán hoa 看花 • khán hộ 看護. Chữ KHÁN看về mặt cấu tạo là một chữ hội ý, kết cấu trên dưới. Chữ được tạo bởi bộ THỦ手(tay) ở phía trên, kết hợp với bộ MỤC目(con mắt) ở dưới. Tính chất hội ý của của chữ KHÁN 看 là dùng tay che phần trên mắt để nhìn. Khi cần quan sát một vật ở xa, để quan sát được dễ hơn người ta thường có thêm động tác dùng tay che phần trên của mắt. Việc làm này giúp mắt có thể tập trung vào một điểm, không bị ảnh hưởng bởi ánh sáng phía trên, giống như khi người ta sử dụng một ống nhòm đơn giản vậy. Từ việc ghi lại thói quen này ở con người, người ta đã tạo ra chữ KHÁN 看 với nghĩa là xem, nhìn như trong các từ KHÁN GIẢ, KHÁN THÍNH PHÒNG. Trong văn ngôn xưa và nay thành ngữ liên quanđến chữ KHÁN có khá nhiều tiêu biểu có: PHẬT NHÃN TƯƠNG KHAN 佛眼相看: là Nhìn nhau bằng con mắt của Phật, là con mắt của từ bi bác ái. Có nghĩa là Đối xử với nhau rất hòa nhã thân ái và bao dung. BẠCH NHÃN TƯƠNG KHAN 白眼相看: là Nhìn nhau bằng con mắt trắng, là nhìn ngước lên trên hoặc xéo qua một bên, nên chỉ thấy có tròng trắng. Ý chỉ khi dễ, coi rẻ mà không thèm nhìn thẳng vào ai đó QUÁT MỤC TƯƠNG KHÁN 刮目相看: là Khoét mắt nhìn nhau. Ý nói là "Bỏ đi cái Nhìn xưa cũ mà Nhìn nhau bằng cái nhìn mới." Lấy tích từ LỮ MÔNG một danh tướng của Đông Ngô thời Tam Quốc, dốt chữ từ nhỏ vì nhà nghèo. Sau trận Xích Bích được phong làm Đại Tướng và được Đô Đốc Lỗ Túc (sau khi Chu Du chết) cùng chủ tướng Tôn Quyền khuyến khích học tập. Chỉ một thời gian ngắn sau đã trở nên văn võ song toàn. Khi Lỗ Túc đến thăm đã phải ngạc nhiên tán thán. Lữ Mông mới nói là: SĨ CÁCH TAM NHỰT, QUÁT MỤC TƯƠNG ĐÃI 士隔三日,刮目相待。Có nghĩa là: Kẻ sĩ ba ngày không gặp nhau, thì phải đối đãi nhau bằng cái nhìn khác rồi! Ý muốn nói, chỉ cần ta chịu khó học tập, thì chẳng mấy hồi cũng sẽ có được sự tiến bộ vượt bậc. Sau Lữ Mông làm đến chức Đô Đốc của Đông Ngô. 拷 HÁN VIỆT Khảo NGHĨA VIỆT đánh tra khảo, tra tấn, đánh đập,… TỪ GHÉP khảo tra 拷查 ; khảo vấn 拷問 Chữ Khảo 拷 được hình thành từ 2 phép tạo chữ vừa là Hình thanh vừa là Hội ý. Bao gồm bộ thủ 扌là Tay và chữ Khảo考 ( thử, thí nghiệm). Khảo 考 có nghĩa là thí nghiệm. Nhưng nếu có thêm bộ thủ 扌là cái tay nữa tác động vào là đánh tra, làm cho đau đớn, khổ sở. Là một sự thử thách lớn với người ta thường gọi là khảo thí, tra tấn, tra khảo… 氣 HÁN VIỆT Khí, Khất NGHĨA VIỆT Hơi thở, hơi, không khí, nổi giận,…. DẠNG KHÁC 气 ,気 TỪ GHÉP âm khí陰氣•khí cốt 氣骨• khí quản 氣管 • khí quyển 氣圈 • khí sắc 氣色. Khí (氣) nghĩa là không khí, hơi thở... Chữ氣được viết gồm bộ mễ (米) và chữ khí giản thể (气). Theo nền văn minh lúa nước của người Á Đông : người ta khi nấu rượu từ gạo, ngô, ngũ cốc thuộc họ mễ (米), khi đun chín nước bốc hơi thành khí. Cho nên văn hoá thờ cúng của người á đông cũng phải có tam bửu bông, rượu, trà tương ứng với tinh, khí, thần tượng trưng cho linh khí trời đất và vạn vật. Khí còn là Cái Hơi toát ra từ phong cách của một con người, nên mới có câu : Đồng thanh tương ứng, 同聲相應, Đồng KHÍ tương cầu. 同氣相求。 Có nghĩa : Cùng tiếng nói, tiếng kêu, tiếng hót... thì ứng tiếng với nhau. Cùng một khí chất, cốt cách, giọng điệu... thì cùng cầu cạnh nhau, cùng đến với nhau. Ta nhớ trong Kiều, lời của con ma Đạm Tiên trách cô Kiều khi Kiều hỏi cô "Đào Nguyên lạc lối đâu mà đến đây?" là: Thưa rằng: THANH KHÍ xưa nay, Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?! Ta có thành ngữ : HÒA KHÍ SANH TÀI 和氣生財 : là Cái không khí hòa thuận của gia đình, của anh em, của bạn bè, của bạn cùng làm ăn với nhau... mà có hòa thuận vui vẻ thì mới phát tài được! Cũng đúng thôi, tối ngày cứ cãi nhau ỏm toỉ, nghịch mười hai, thì làm sao mà làm ăn khá cho được, chứ đừng nói chi làm giàu! 器 HÁN VIỆT Khí NGHĨA VIỆT Đồ dùng, dụng cụ, cơ quan, bộ phận,… DẠNG KHÁC 噐 TỪ GHÉP binh khí 兵器 • cơ khí 机器. Chữ 器 khí (dụng cụ/ cơ quan trong cơ thể) gồm 犬khuyển (chó) kết hợp với bốn bộ 口khẩu (miệng) cùng biểu thị ý nghĩa. Người xưa đã dựa vào đặc tính của chó là đánh hơi nhanh, cất tiếng sủa liên hồi để báo cho chủ biết có đối tượng lạ xuất hiện, độ nhanh nhạy ấy của chó đã được dùng để hình dung với độ nhanh nhạy của cỗ máy khi được vận hành. Trong tiếng Hán hiện đại, chữ 器 khí vẫn được dùng với ý nghĩa như vậy, chẳng hạn như 电器 điện khí (đồ điện), 吸尘器 hấp trần khí (máy hút bụi), 助听器 trợ thính khí (máy trợ thính)... 欠 HÁN VIỆT Khiếm NGHĨA VIỆT Thiếu thốn, ngáp TỪ GHÉP khiếm khuyết 欠缺 • khiếm nhã 欠雅 • khiếm thị 欠視. Chữ KHIẾM欠là một chữ tượng hình miêu tả một người đàn ông đang ngáp. Không khí sẽ bị thổi ra khi ai đó ngáp, cơ thể anh ta sẽ mất một chút không khí, vì vậy KHIẾM欠có nghĩa là thiếu. Trong quá khứ, KHIẾM欠 cũng có nghĩa là hành động thổi, nhưng ý nghĩa như vậy đã được thay thế bằng吹. Nên bây giờ KHIẾM 欠 : là THIẾU, là NỢ Các cụm từ thường gặp liên quan đến KHIẾM 欠 : KHIẾM KHUYẾT 欠缺 : là Thiếu Thốn, là Sứt mẻ, là Cái gì đó không được trọn vẹn. Còn KHIẾM KHUYẾT là còn chưa đầy đủ, chưa Hoàn chỉnh, còn cần phải bổ sung. KHIẾM THỊ 欠視 : là Thiếu về Thị giác, là Mắt kém, Mắt mờ. KHIẾM NHà 欠雅 : là Thiếu Trang Nhã, là Bất Lịch Sự. KHIẾM AN 欠安 : là Thiếu Bình An, là Không Khỏe, là Bị bệnh. KHIẾM TRÁI 欠債 : là Thiếu Nợ, là Mắc Nợ. ĐẢ A KHIẾM 打呵欠 : là Ngáp, là Vươn Vai để Ngáp. Đây là nghĩa gốc của chữ KHIẾM 科 HÁN VIỆT Khoa NGHĨA VIỆT Phân loại, bộ môn,… TỪ GHÉP hy sinh 牺牲, sinh sát 牲殺• sinh súc 牲畜. Chữ KHOA科là một chữ hội ý kết cấu trái phải, bao gồm bộ HÒA禾 (cây lúa) và bộ ĐẨU斗 (sao bắc đẩu). Tính chất biểu ý của nó là con người biết khám phá quy luật tự nhiên, các điều kiện khí hậu thời tiết vận dụng vào điều kiện sản xuất thực tế, tạo ra mùa màng bội thu. HÒA 禾 tượng trưng cho nền sản xuất nông nghiệp lấy cay lúa làm thứ lương thực chủ yếu. Sao ĐẨU 斗 hay sao bắc cực còn được gọi là Hùng tinh, là tượng trưng cho các vì tinh tú trên trời, cũng là sao chủ về thời tiết. Việc cấy trồng xưa đều dựa vào thời tiết theo cách tính âm lịch. Nền nông nghiệp trong thời kỳ khoa học kỹ thuật chưa phát triển, người ta dựa vào kinh nghiệm là chính để trồng cay theo đúng mùa vụ, thời tiết. Nhờ có mưa thuận gió hòa mới có được mùa màng tươi tốt. Nhận thức của ngườidân xưa về khoa học trước hết nhằm mục đích phục vụ nhu cầu đời sống. Ý nghĩa của chữ KHOA 科 phản ánh sinh động nền văn hóa nông nghiệp lấy trồng trọt làm chính của người trung quốc. Cũng như người Trung Quốc, người việt nam ngay trong ca dao đã đúc rút kinh nghiêm cấy trồng theo mùa vụ và truyền lại cho thế hệ mai sau lấy đó làm kinh nghiêm : tháng chạp là tháng trồng khoai, tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà… Chữ KHOA 科 từ nghĩa là đo lường, phân loại, phân biệt các loại ngũ cốc, sau đó chuyển thành nghĩa chủng loại. 苦 HÁN VIỆT Khổ NGHĨA VIỆT Vị đắng, khổ cực, vất vả TỪ GHÉP cùng khổ 窮苦 • cực khổ 極苦 • gian khổ 艱苦 • khổ nhục 苦辱 • khổ qua 苦瓜 • khổ sai 苦差. Chữ KHỔ苦 về mặt cấu tạo là một chữ hình thanh kết cấu trên dưới. Trong đó, bộ THẢO艹 (cây cỏ, dạng chính thể là艸) ở phía trên có tác dụng biểu thị ý nghĩa, chữ CỔ古(cũ, xưa) phía dưới có nhiệm vụ biểu thị âm đọc (xem bài phân tích chữ “cổ”). Bộ THẢO 艹 biểu thị ý nghĩa liên quan đến cây cỏ, dây leo. Với vai trò biểu nghĩa chính kết hợp với âm đọc của古 tạo nên chữ KHỔ 苦với nghĩa chỉ một loại cây cho quả có vị đắng. Từ nghĩa ban đầu chỉ vị đắng chữ 苦 phát triển thành nhiều nghĩa khác như khổ cực, vất vả hay thử thách. 犬 HÁN VIỆT Khuyển NGHĨA VIỆT chó DẠNG KHÁC 犭 TỪ GHÉP chỉ kê mạ khuyển 指雞罵犬 • khuyển nho 犬儒 • khuyển tử 犬子 • lạp khuyển 獵犬 • ưng khuyển 鷹犬. Chữ KHUYỂN犬là một chữ tượng hình, mô tả hình ảnh một con chó. Trong tiếng hán hiện đại, 犬đã được thay thế bằng một từ khác là 狗, 犬hầu như không được sử dụng một cách độc lập như một chữ đơn (犬 được dùng chủ yếu với vai trò bộ thủ),犬là chữ đơn chỉ tồn tại trong thành ngữ, cổ văn. Tuy nhiên 犬đơn lẻ vẫn đang được sử dụng trong tiếng Nhật. KHUYỂN 犭(犬) : là CHÓ, là loài CHÓ: Những con vật có 4 chân. Ta có 2 hình thức của bộ KHUYỂN: 1. 犭 khi ghép với chữ hoặc bộ khác thì nằm bên tay Trái, như: CẨU 狗 là Chó, HỒ 狐 là Chồn, HẦU 猴 là Khỉ.... 2. 犬 khi ghép với chữ hay bộ khác thì nằm bên tay Phải, hoặc bên dưới, như: THÚ 獸 Chỉ loài vật có 4 chân chạy trên mặt đất. NGAO 獒 là loại chó hung dữ như chó Berger, có thể giúp người đi săn các loại thú khác. KHUYỂN còn được huấn luyện để trở thành chuyên nghiệp, như: Chạy đua, Săn bắt cướp, Phát hiện Ma tuý, chất nổ, Đánh giặc... thành một đội QUÂN KHUYỂN hẵn hoi. Mắng người ta thì chưởi là: "Quân CẨU trệ 狗彘!" Còn mang ơn người ta thì nói là: "Sẽ làm thân KHUYỂN mã 犬馬 để đáp đền!" Xưng hô với người khác thì gọi con của mình là: "KHUYỂN tử 犬子 " như trong tiếng Việt ta thường giới thiệu với bạn bè: "Đây là thằng "CÚN con" của tôi đây!" vậy! 厶 HÁN VIỆT Khư, mỗ NGHĨA VIỆT Bộ khư (214), riêng tư TỪ GHÉP Là bộ thủ rất hay gặp trong cấu tạo chữ hán. Chữ KHƯ厶miêu tả một vòng dây. Người Trung Quốc cổ đại đã sử dụng một chiếc vòng dây để khoanh tròn tài sản của họ như cây trồng và gia súc, để cho người khác thấy rằng đó là những thứ thuộc sở hữu của ai đó, vì vậy厶có nghĩa là tài sản riêng. Ngày nay, chúng ta hiếm khi sử dụng厶làm chữ đơn biểu nghĩa, bởi ý nghĩa chính của nó đã được chữ 私 thay thế. Chữ KHƯ厶bây giờ đóng vai trò là thành phần tạo chữ (một bộ trong 214 bộ thủ). 去 HÁN VIỆT Khứ, khu, khử NGHĨA VIỆT Bỏ, đi, qua TỪ GHÉP khứ hồi 去囘• quá khứ 過去tống khứ 送去 • vãng khứ 往去. Chữ KHỨ去là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, trong các dạng cổ văn chữ khứ miêu tả hình ảnh một người đàn ông, sau lưng anh ta là một ô nhỏ, ô nhỏ này sau đó được thể hiện là bộ khư厶, là một cái vòng dây biểu tượng cho sự sở hữu hay riêng tư (xem bài phân tích bộ khư厶). Cho nên có thể hiểu hình ảnh trên diễn tả một người đàn ông đang rời khỏi nhà, gia đình để đi kiếm sống. chữ 去 có nghĩa ban đầu là rời đi, mở rộng thêm các nghĩa như từ bỏ, xóa bỏ… 嗅 HÁN VIỆT Khứu NGHĨA VIỆT Ngửi TỪ GHÉP khứu giác 嗅覺. Chữ嗅 có nghĩa là ngửi, đánh hơi. Được hợp bởi bộ Khẩu口 và chữ Xú臭. chữ 臭 Xú dùng để chỉ đặc tính loài vật khi cầm thú lọt vào tầm ngắm của thợ săn mà bỏ chạy, nó ngửi mùi cũng có thể biết được dấu tích của loài cầm thú ấy, đó là loài chó săn. Chữ này gồm bộ 犬khuyển và 自tự tạo thành. chữ 臭xú là chữ hội ý kết cấu trên dưới, gồm 自tự (nghĩa gốc là mũi) và 犬khuyển (chó) tạo thành. Tính chất biểu ý của chữ Hán này là ngửi, được hình thành trên cơ sở nhận thức về đặc điểm của loài chó mũi rất thính, phát hiện được mùi. Tiếp theo đó, từ nhận thức về loài vật này thường ăn chất cặn bã nên 臭xú còn có nghĩa là mùi hôi thối (xú khí). Chữ 嗅 khứu (ngửi) gồm 臭xú (mùi hôi thối) kết hợp với 口khẩu (miệng/ lỗ thông hơi) cùng biểu thị ý nghĩa là cảm nhận thấy mùi bằng mũi. Chữ 嗅 khứu này đều thể hiện ý nghĩa chó có cơ quan khứu giác rất nhạy bén, phát hiện được mùi lạ nhanh nhạy nhất. Đồng thời, mùi mà chó phát hiện được thường là mùi hôi. Điều đó cho ta phán đoán rằng,trong hoàn cảnh nền nông nghiệp Trung Quốc lạc hậu, năng suất thấp, cung không đủ cầu, con chó ở xã hội Trung Quốc xưa sống nhờ vào chất thải loại, ôi thiu. Để tồn tại, chúng phải dựa vào cơ quan khứu giác nhạy bén để phát hiện những thứ dù là hôi thối dùng làm đồ ăn. Con chó trong xã hội nông nghiệp Việt Nam xưa cũng tương tự.   杰 HÁN VIỆT Kiệt NGHĨA VIỆT Tài giỏi, tài trí,… DẠNG KHÁC 桀 TỪ GHÉP hào kiệt 豪杰 • kiệt xuất 杰出. Chữ 杰 kiệt có nghĩa Người giỏi, kẻ tài trí hơn người. “Thế gian cũng lắm sự hài Dưới cây(木) đốt lửa(灬)người tài 杰 ló ra” Đọc xong hai câu thơ trên làm chợt nhớ đến một câu chuyện ly kỳ truyền tụng nhiều đời ở Trung Quốc: Chuyện kể rằng vào thời Xuân Thu (770-221) trước công nguyên, các nước thôn tính lẫn nhau, thái tử Trùng Nhĩ nhà Tấn phải chạy lánh nạn khắp nơi, hết chạy sang nước Địch lại trốn sang nước Vệ, nước Tề, nước Sở. Theo hầu thái tử có người tôi trung thành tận tuỵ là Giới Tử Thôi. Trong suốt 19 năm lận đận, gian nan, có lúc hết lương ăn, Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình nấu cho chủ công ăn. Trùng Nhĩ ăn xong hỏi ra mới biết, lòng cảm phục vô cùng. Khi thành sự, Trùng Nhĩ phục quốc lên vua tức Tấn Văn Công. Tấn Văn Côngphong thưởng cho những người có công rất hậu nhưng lại quên mất Giới Tử Thôi là người công đầu giúp mình trong khó khăn hoạn nạn. Thấy mọi người được ân huệ, còn mình thì bị bỏ quên, Giới Tử Thôi không oán giận gì, cho rằng đó là nghĩa vụ của bầy tôi rồi tủi phận về nhà dắt mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn (còn có tài liệu viết núi Miên Sơn). Hai mẹ con sống yên phận trong rừng, không mơ giàu sang phú quý. Mãi sau Vua Tấn nhớ ra cho tìm Giới Tử Thôi nhưng không thấy. Vua cho người vào Điền Sơn tìm không được, đoán biết Tử Thôi còn ở trong đó bèn sai đốt rừng để buộc Tử Thôi phải ra.( Dưới cây(木) đốt lửa(灬)người tài ló ra) Không ngờ Tử Thôi quyết chí, hai mẹ con cùng chịu chết cháy trong rừng. Vua thương xót, cho lập miếu thờ trên núi và phong cả khu rừng đó làm tự điền. Hôm Tử Thôi bị đốt cháy là ngày 5 tháng 3 âm lịch. Về sau người ta lấy ngày 3 tháng 3 cho tiện. Người quanh vùng thương xót Tử Thôi bậc trung thần, cứ mỗi năm đến ngày ấy kiêng đốt lửa 3 ngày, ăn toàn đồ nguội, ngay cả cỗ cúng cũng làm từ hôm trước.(tết HÀN THỰC) Theo nghĩa chữ Hán "Hàn" là lạnh, "thực " là ăn; " Tết Hàn thực" là tết ăn đồ lạnh. 己 HÁN VIỆT Kỷ NGHĨA VIỆT Chính mình, can thứ 6, bộ kỷ TỪ GHÉP ích kỉ 益己 • tri kỉ 知己 • tư kỉ 私己 • tự kỉ 自己 • vị kỉ 爲己 • vô kỉ 無己. Chữ KỶ己Là hình ảnh của một sợi dây thừng uốn lượn. Có ý nghĩa là sự kiềm chế, trói buộc và kỷ luật, nhưng ý nghĩa đó đã được thay thế bằng chữ 紀. Bây giờ己chỉ có nghĩa là chính mình, vì bản thân là người duy nhất có thể kiềm chế chính mình. 見 HÁN VIỆT Kiến NGHĨA VIỆT nhìn DẠNG KHÁC 见 TỪ GHÉP bái kiến 拜見 • chứng kiến 證見 • dự kiến 預見kiến địa 見地• kiến thức 見識. Chữ KIẾN見 là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, gồm phía trên là bộ MỤC目 (con mắt) phía dưới là bộ NHI 儿(người). Xem hình dạng chữ ở giáp cốt, kim và triện văn, chữ KIẾN 見 là hình ảnh một con mắt lớn được gắn lên một hình người. Hình người này ở dạng chữ khải thư bị biến đổi chỉ còn hai chân giống như chữ NHI儿vậy. Tính chất hội ý của hai bộ phận này là đứng lên và đi ra ngoài để nhìn thấy rõ hơn, nhìn thấy được nhiều thứ hơn. Thật vậy, con người ta sẽ chẳng thấy gì hay ho ngoài bốn bức tường nếu suốt ngày cứ ngồi một chỗ. Phải đi ra ngoài để nhìn thấy thế giới bao la với bao điều thú vị. Nếu có mắt mà không sử dụng chúng để đem lại kiến thức, hiểu biết cho mình thì cũng xem như người bị mù vậy. Ta có từ kép và thành ngữ liên quan đến chữ KIẾN: KHÁN KIẾN 看見 là trông thấy. HÃN KIẾN 罕見: là Hiếm thấy, như Hãn Hữu là Hiếm có vậy. KIẾN NGHĨA DŨNG VI 見義勇為: là Thấy việc nghĩa mà dũng cảm đi làm, tức là "Hăng Hái Làm Việc Nghĩa". Trái với... KIẾN LỢI VONG NGHĨA 見利忘義 : là Thấy lợi quên nghĩa, chỉ biết có Lợi mà không màng đến Nhân Nghĩa nữa! KIẾN còn có nghĩa là Gặp Gỡ, như KIẾN DIỆN 見面 là Gặp mặt. TIẾP KIẾN 接見 hay HỘI KIẾN 會見: là Gặp gỡ với ai đó. KIẾN còn có nghĩa là Hiểu biết về sự vật, sự việc gì đó, như ... KIẾN THỨC 見識 : là Sự Hiểu Biết. KIẾN GIẢI 見解 : là Hiểu rõ ràng về sư việc nào đó. KIẾN CƠ NHI TÁC 見機而作: là Hiểu rõ được cái thời cơ, cái cơ hội như thế nào đó mà làm. Có nghĩa "Tuỳ thời cơ mà làm" nghĩa cũng giống như là "Tuỳ cơ ứng biến 隨機應變" vậy! LỘ KIẾN BẤT BÌNH 路見不平: là "Đi trên đường mà thấy chuyện bất bình." Đây chỉ là một vế của câu nói: Lộ Kiến bất bình, bạt đao tương trợ 路見不平,拔刀相助. Có nghĩa : "Đi trên đường mà thấy chuyện bất bình, thì rút dao ra mà giúp đỡ nhau." Đây là tinh thần hiệp nghĩa của các hiệp sĩ thời xưa mà ta thường thấy trong các truyện võ hiệp kỳ tình. Ngày nay, đó là lòng Nhân Ái Hào Hiệp tương thân tương trợ giữa con người với nhau như Từ Hải đã nói với với cô Kiều là : Anh hùng tiếng đã gọi rằng, Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha! KIẾN LONG TẠI ĐIỀN 見龍在田: là Thấy Rồng ở Ruộng, có nghĩa là Rồng hiện thân ở trên ruộng, ý muốn chỉ đã bắt đầu phát tích khá lên. Đây cũng là một chiêu trong Hàng Long Thập Bát Chưởng (Ta quen đọc là Giáng Long Thập Bát Chưởng) của Cái Bang mà Kim Dung đã căn cứ vào Kinh Dịch để đặt tên các chiêu thức nầy, như chiêu đầu tiên mà Hồng Thất Công đã dạy cho Quách Tỉnh là Kháng Long Hữu Hối 亢龍有悔. Theo một câu nói có tính thứ tự từng giai đoạn trong Kinh Dịch như sau: Tiềm Long vật dụng; Kiến Long tại điền; Phi Long tại Thiên; Kháng Long hữu hối 潛龍勿用→見龍在田→飛龍在天→亢龍有悔. Có nghĩa : TIỀM LONG VẬT DỤNG là Rồng nằm còn chưa phát tích, còn phải tu dưỡng học tập cho giỏi giang. KIẾN LONG TẠI ĐIỀN là Rồng đã hiện hình trên ruộng trống, là đã phát tích, đã có đất dụng võ. PHI LONG TẠI THIÊN là Rồng đã bay lên trời, ý chỉ đã thành đạt vượt bậc. Như mặt nhựt giữa trời, Kinh Dịch gọi là "Cửu Ngũ", tôn quý như Vua lên ngôi, gọi là "Cửu Ngũ chi Tôn 九五之尊". Ta cũng hay thường nói là "Lên ngôi Cửu Ngũ" là Lên Ngôi Làm Vua đó. KHÁNG LONG HỮU HỐI là Phải biết lúc nào nên quy ẩn, thoái vị về hưu, mặc dù "Trăng chưa thật tròn, Hoa nở còn chưa thật đẹp", nhưng nếu đợi cho "Thật Tròn Thật Đẹp" thì Trăng cũng bắt đầu khuyết và Hoa cũng bắt đầu tàn rồi. 金 HÁN VIỆT kim NGHĨA VIỆT Vàng, tiền, kim loại TỪ GHÉP bạch kim 白金 • hoàng kim 黃金 • hợp kim 合金• kim giáp 金甲 • kim hoàn 金環. Chữ KIM金mô tả quá trình rèn một chiếc rìu. Ở Trung Quốc cổ đại, KIM金có thể đại diện cho tất cả các loại kim loại, để tránh sự nhầm lẫn, họ bắt đầu phân loại kim loại và tạo ra các ký tự mới từ chữ 金 như銅, 鐵 and 銀, 金, sau đó chỉ có nghĩa là vàng là kim loại đắt nhất và cũng có nghĩa là tiền. 京 HÁN VIỆT Kinh NGHĨA VIỆT Kinh đô, to lớn DẠNG KHÁC 亰 TỪ GHÉP bắc kinh 北京 • đế kinh 帝京 • đông kinh 东京 • đông kinh 東京 • kinh đô 京都 Chữ KINH京là một chữ tượng hình vẽ lại cung điện của nhà vua. Trong giáp cốt và kim văn cung điện nhà vua được miêu tả là một ngôi nhà cao lớn phần trên là mái nhà có hình tam giác, phần dưới là phần chân của ngồi nhà. Đặc điểm kiến trúc với phần mái hơi lớn hơn vẫn thường thấy trong các công trình quan trọng của người Trung Quốc, nhiều công trình trong số đó vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Chữ KINH 京với nghĩa ban đầu chỉ cung điện vua về sau cũng chỉ luôn là kinh đô, kinh thành nơi đặt cung điện của vua, hay thủ đô của một nước. Chữ KINH cũng được dùng với nghĩa to lớn như trong từ kinh đài (thành cao). 鯨 HÁN VIỆT Kình, canh NGHĨA VIỆT Cá voi, cá lớn,… DẠNG KHÁC 鲸 TỪ GHÉP kình ngạc 鯨鱷, kình ngư 鯨魚, kình nghê 鯨鯢 Chữ KÌNH鯨có nghĩa là cá Kình hay cá Voi. Hình tuy giống cá mà thực ra thuộc về loài thú. Có con to dài đến tám chín mươi thước. Chữ KÌNH là một chữ hình thanh, Phân tích chữ ta thấy bên trái là chữ Ngư 魚 là con cá (chữ này có nhiệm vụ biểu ý) bên phải là chữ Kinh 京 danh từ là Kinh đô nơi ở của Vua, Họ kinh... Tính từ mang nghĩa cao hay to lớn (chữ này chủ yếu có tác dụng chỉ âm đọc). Một loài cá to lớn, vua của các loài cá thì là cá Kình hay cá Voi. 技 HÁN VIỆT Kỹ NGHĨA VIỆT Kỹ thuật, khéo léo TỪ GHÉP kỹ lưỡng 技倆 • kỹ năng 技能 • kỹ thuật 技術 • tạp kỹ 雜技. Chữ KỸ技có thể hiểu theo hai cách, một là chữ hội ý, hai là chữ hình thanh. Nếu coi đây là một chữ hình thanh thì bộ biểu nghĩa là bộ THỦ 扌 và chữ CHI支 (chi nhánh) biểu thị âm đọc. Nếu lý giải là chữ hội ý thì KỸ 技 gầm ba bộ thủ tạo thành. Một là bộ THỦ扌(tay) hai là bộ HỰU又(làm lại) và ba là chữ THẬP十 (số mười, số nhiều, tròn đầy mĩ mãn nhất). Với tính chất hội ý này, KỸ 技 chính là sự khéo léo của đôi tay. Trong quá trình làm việc, do cần mẫn và sáng tạo, làm đi làm lại nhiều lần, mỗi một năng lực thực hành nào đó sẽ được rèn luyện đến mức thành thục, khiến cho kết quả được trọn vẹn. KỸ 技 nghĩa là lao động bằng tay thành thục, tinh xảo xuất hiện trong các từ ghép : kỹ năng, kỹ xảo, kỹ thuật,… 記 HÁN VIỆT ký NGHĨA VIỆT Nhớ, ghi lại TỪ GHÉP ký tụng 記誦 • nhật ký 日記 • thư ký 書記 • trích ký 摘記 • truyện ký 傳記 . Chữ KÝ記là một chữ dạng hình thanh kiêm hội ý. Bao gồm bộ NGÔN 言 (lời nói hay ngôn từ) và KỶ 己 (hình ảnh của một sợi dây cuộn, xem lại bài chữ己). Người Trung Quốc cổ đại đã tạo ra các bản ghi bằng cách buộc các nút thắt, bộ言là lời nói, ngôn từ, là công cụ để giao tiếp, vì vậy 記 ban đầu có ý nghĩa là các bản ghi, ghi lại các câu chuyện trong cuộc sống. 羅 HÁN VIỆT La NGHĨA VIỆT Lưới bắt chim TỪ GHÉP la võng 羅網 • bà la môn 婆羅門,lân la 鄰羅• lâu la 嘍羅. Chữ LA羅 (lưới bắt chim) là một dạng chữ hội ý. Kết hợp bởi ba bộ phận MỊCH糸 (tơ lụa) , bộ CHUY隹 (con chim) và bộ VÕNG罒 ở trên là những mắt lưới nhỏ. Chữ LA 羅 biểu thị ý nghĩa là dùng lưới có mắt lưới nhỏ để bắt chim, nghĩa gốc là lưới bắt chim. Lưới bắt chim có đặc điểm là mắt lưới nhỏ và dày. Do vậy, thế hệ sau gọi cái sàng có lỗ nhỏ là cái la. Ngoài ra một thứ nữa cũng gọi là la , có chất liệu nhẹ, mỏng, sau khi chúng được đan lại với nhau, tạo thành một sản phẩm dệt có mắt lưới rõ rệt. Nó thường làm tất hoặc áo mùa hè. 來 HÁN VIỆT Lai, lãi NGHĨA VIỆT Đến, đến nơi TỪ GHÉP cận lai 近來 • cố bất quá lai 顧不過來, cổ lai 古來 • lai hồi 來回 • lai lâm 來臨 • lai lịch 來歴. Chữ LAI來là một chữ tượng hình mô tả lại một cây lúa mì với những chiếc tai lúa khụp xuống. Nghĩa ban đầu của 來 là cây lúa mạch, nhưng nghĩa này sau đó đã được thay thế bằng chữ mạch麥. Mặt khác hình ảnh trên báo hiệu lúa đã đến kỳ thu hoạch, thu hút người dân đến để gặt lúa. Vì vậy, 來 cũng có nghĩa là đến nơi hoặc đến. 狼 HÁN VIỆT Lang NGHĨA VIỆT Con sói TỪ GHÉP lang bạt kì hồ 狼跋其胡• sài lang 豺狼. Chữ LANG 狼 trong SÀI LANG là một chữ hình thanh điển hình kết cấu trái phải. Trong đó, bộ KHUYỂN 犭 bên trái có tác dụng biểu nghĩa cho chữ, chữ LƯƠNG 良 (lương thiện) có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. 犭là con chó, một loài vật có nguồn gốc hoang dã, được con người thuần hóa trở thành vật nuôi giữ nhà. Trong chữ hán bộ 犭 được dùng rất nhiều với vai trò biểu nghĩa khi tham gia tạo chữ. Các chữ hán trong đó có bộ 犭 đa số có ý nghĩa liên quan đến hành vi của loài chó, một số khác chỉ tên các loài vật, đặc biệt là các loài vật ăn thịt. Trong cấu tạo chữ 狼 với vai trò biểu nghĩa kết hợp với âm đọc “liǎng” của 良 tạo thành chữ 狼 với nghĩa là con sói. Cũng chỉ loài sói và được dùng song song với 狼 là chữ SÀI 豺 trong "sài lang 豺狼" - chỉ những kẻ gian ác hay làm hại người. LANG cũng có nghĩa là lộn xộn, bừa bãi như trong từ "lang tạ 狼藉" nghĩa là bừa bộn, ngổn ngang (ở ta hay dùng "lang chạ" với nghĩa là chung đụng một cách bừa bãi). Ngày nay trong giao tiếp hàng ngày hay dùng một thành ngữ có liên quan đến loài sói là “lang bạt kì hồ 狼跋其胡”- Khi nghe câu trên nhiều người nghĩ ngay đến hình ảnh một người sống phiêu bạt giang hồ, nay đây mai đó. Nhưng thực ra, đây là một câu thành ngữ Hán-Việt. Lang là con Sói, bạt là giẫm đạp, kỳ là đại từ chỉ chính con sói, hồ là vạt yếm dưới cổ (cũng giống yếm con bò, chỉ phần thịt dưới cổ). Vậy Lang bạt kỳ hồ có nghĩa là con Sói dẫm vào chính cái yếm của nó. Ý nói người náo đó đang rất lúng túng, quẩn quanh không tìm ra lối thoát. 靈 HÁN VIỆT Linh NGHĨA VIỆT Linh hồn, tinh thần, nhanh DẠNG KHÁC 灵 TỪ GHÉP hiển linh 顯靈 • linh dược 靈藥 • linh đơn 靈丹 • linh hoạt 靈活 • linh hồn 靈魂. Chữ LINH靈ở dạng phổn thể là một chữ hội ý, gồm trên là chữ VŨ雨, giữa là ba chữ KHẨU口 và dưới là chữ VU巫 (phù thủy). Chữ VŨ 雨 (mưa) biểu tượng của thiên nhiên. Vốn là một nước nông nghiệp, mùa màng được mất trước đây chủ yếu dựa vào thời tiết, khí hậu. Khi mà khoa học chưa phát triển, mọi sinh hoạt đời sống, trong đó có cả hoạt động sản xuất đều chịu ảnh hưởng và chịu sự chi phối của hoàn cảnh tự nhiên. Tín ngưỡng dân gian ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh tinh thần, sự gửi gắm, niềm hy vọng của người dân lao động vào những lực lượng siêu phàm – đó là thần linh. Hoạt động cúng tế, cầu đảo và nhóm người làm nghề cúng tế xuất hiện. họ được coi là cầu nối giữa con người với thần linh. Chữ VU 巫 (thầy phù thủy) kết hợp với ba chữ KHẨU 口 là biểu tượng củahoạt động tín ngưỡng dân gian, tế lễ gọi mưa, gọi gió, cầu thần linh phù trợ. Dạng Giáp Cốt của chữ VU 巫 là một chữ Tượng Hình, vẽ lại những đạo cụ do bà đồng sử dụng. Từ đó phát triển thành nghĩa chỉ người đồng cốt hóa thân vào thần linh. Cũng có quan điểm cho rằng, chữ VU 巫 là sự hội hợp của ba bộ thu là chữ CÔNG 工 (thợ) và hai chữ NHÂN 人 (người) hai chữ NHÂN 人 lại được ngăn cách bởi vách ngăn. Ý nghĩa của chữ vu là nhờ vào công lực của thầy phù thủy mà người và thần linh dù bị ngăn cách bởi không gian và thời gian vẫn có thể giao tiếp được với nhau. Chữ LINH 靈 là sự thể hiện sinh động niềm tin của dân gian gửi vào thần linh qua hoạt động tín ngưỡng. 牢 HÁN VIỆT Lao, lâu, lạo NGHĨA VIỆT Chuồng, nhà lao TỪ GHÉP lao ngục 牢獄 • lao sầu 牢愁 • lao tốt 牢卒 • lao tử 牢死 • quân lao 軍牢 • toạ lao 坐牢. Chữ LAO牢 là một chữ hội ý điển hình có kết cấu trên dưới, bao gồm bộ MIÊN宀 (nhà) và bộ NGƯU 牛 (con trâu). Chữ 牢 miêu tả một con trâu bị nhốt trong một cái nhà chật hẹp. nghĩa ban đầu của chỉ cái chuồng để nhốt gia súc. Mặt khác, khi con vật bị nhốt, nó sẽ bị hạn chế về mặt không gian và bị quản chế của người chủ nên 牢 cũng dùng để chỉ nhà ngục, là nơi giam giữ những phạm nhân mắc tội. 臨 HÁN VIỆT Lâm, lấm, lậm NGHĨA VIỆT Nhìn xuống, đến, gần, sát, thống trị, hạ cố TỪ GHÉP giáng lâm 降臨 • lâm chung 臨終 • lâm trận 臨陳 • quang lâm 光臨. Chữ LÂM臨 trong giáp cốt văn miêu tả một người đàn ông khom lưng nhìn xuống, phía dưới chân anh ta là một số vật phẩm. Để nhìn rõ thấy được vật dưới chân, người đàn ông phải khom lưng, ghé sát mắt vào vật cần xem.Nên LÂM là CƯ CAO LÂM HẠ 居高臨下, có nghĩa là: Ở trên cao mà nhìn xuống. Trong qúa trình phát triển văn tự, LÂM có những nghĩa phát sinh như sau: LÂM là Đến, như QUANG LÂM 光臨: là từ Khách sáo của ĐẾN. ví dụ: Mừng bạn Quang Lâm tệ xá, có nghĩa là "Rất hân hạnh được bạn đến nhà tôi." Ngày xưa, ông vua đi đến đâu thì gọi là GIÁ LÂM 駕臨 đến đó. LÂM là Gặp Phải, như : LÂM NGUY 臨危 là Gặp phải chuyện nguy nàn. LÂM NẠN 臨難 : là Đang gặp phải tai nạn. LÂM ĐỊCH 臨敵 : là Đang gặp phải kẻ địch. LÂM SÀNG 臨床 : là Đang trên Giường bệnh, nên Thí Nghiệm Lâm Sàng là "Thí nghiệm thực tế bệnh tình của người bệnh đang nằm trên giường." LÂM còn có nghĩa là Gần, Sắp, như LÂM CHUNG 臨終: là lúc sắp chết. LÂM BỒN 臨盆 : là Lúc sắp sanh. LÂM TRẬN 臨陣 : là Lúc ra trận. LÂM HÀNH 臨行: là Lúc sắp ra đi, lúc sắp lên đường. Nhắc đến từ LÂM HÀNH làm ta lại nhớ đến bài Du Tử Ngâm của Mạnh Giao đời Đường như sau : DU TỬ NGÂM 遊 子 吟 Từ mẫu thủ trung tuyến, 慈 母 手 中 线, Du tử thân thượng y. 遊 子 身 上 衣. LÂM HÀNH mật mật phùng, 臨 行 密 密 缝, Ý khủng trì trì quy. 意 恐 遲 遲 歸. Thùy ngôn thốn thảo tâm, 誰 言 寸 草 心, Báo đắc tam xuân huy. 報 得 三 春 暉. Có nghĩa : Sợi chỉ trên tay từ mẫu, khâu nên chiếc áo trên mình của người du tử. LÚC RA ĐI mẹ đã chắc chiu khâu thật chặt từng mũi một, Ý sợ rằng con mình sẽ mê mãi giang hồ mà chậm ngày về quê (áo sứt chỉ sẽ không có người khâu hộ). Ôi, Ai dám bảo rằng tấm lòng của một tấc cỏ, có thể báo đền được ánh nắng của ba tháng mùa xuân ấm áp?! Cụ Nguyễn Du cũng đã mượn ý nầy để diễn tả nỗi lòng của Thúy Kiều khi nàng cân nhắc giữa tình và hiếu rồi quyết định bán mình chuộc tội cho cha: Hạt mưa xá nghĩ phận hèn, Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân! 林 HÁN VIỆT Lâm NGHĨA VIỆT Rừng cây, đông đúc,… TỪ GHÉP hàn lâm 翰林 • kiểm lâm 檢林. Chữ LÂM林được cấu tạo theo nguyên tắc hội ý kết cấu trái phải gồm hai bộ MỘC木tạo thành. MỘC木là cây, hai biểu thị cho số nhiều, hai bộ MỘC木hợp lại biểu thị ý nghĩa nhiều cây tụ họp lại thành rừng 林. Thời đại nguyên thủy con người sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm. Rừng là nhà, là không gian rộng lớn cho con người sinh sống. Ngoài CÂY ra, bất cứ cái gì cùng tập hợp lại thật nhiều đều gọi được là LÂM, như: THƯ LÂM 書林 : là Rừng Sách, chỉ có thật nhiều sách. NGHỆ LÂM 藝林 : là Rừng Văn Nghệ, chỉ nhiều bộ môn văn nghệ. NHO LÂM 儒林 : là Rừng Nho, chỉ rất nhiều sách vở, tư tưởng... của Nho Gia. Nhớ hồi học lớp Đồng Ấu, bài Học Thuộc Lòng đầu tiên sau khi học qua Vần Ngược là: RỪNG NHO bể thánh khôn dò, Khuyên trò gắng học học cho thành tài Siêng năng ôn cố ngày ngày, Mỗi khoa mỗi học mỗi ngày mỗi nhanh. Chữ rằng "Hữu chí cánh thành." Gắng công thì sẽ nên danh có ngày! * Hữu Chí Cánh Thành 有志竟成: Có chí tiến thủ thì chắc chắn sẽ thành công. Ta nói là "Có Chí Thì Nên." LÂM 林 còn là một trong Bách Gia Tính: Họ LÂM. Trong văn học có người đẹp Lâm Đại Ngọc 林黛玉 trong Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Đây là người đẹp đa sầu đa cảm đa tài, rất giỏi về văn thơ đã thương khóc cho những cánh hoa rơi như thương cho thân phận của mình, rồi chôn hoa, rồi ngâm thơ điếu hoa hẵn hoi với bài TÁNG HOA NGÂM với những lời thơ thật đẹp như: ... 願儂此日生雙翼﹐ Nguyện nông thử nhật sanh song dực, 隨花飛到天盡頭 Tùy hoa phi đáo thiên tận đầu. 天盡頭!何處有香丘 Thiên tận đầu! Hà xứ hữu lương khâu? 未若錦囊收艷骨 Vị nhược cẩm nang thu diễm cốt, 一抔淨土掩風流﹐ Nhất phôi tịnh thổ yễm phong lưu!... 禮 HÁN VIỆT Lễ NGHĨA VIỆT Lễ nghi,thái độ, phép tắc,… DẠNG KHÁC 礼 TỪ GHÉP kính lễ 敬禮 • lễ bái 禮拜• lễ đường 禮堂 • lễ giáo 禮教 • lễ nghi 禮儀 Chữ “Lễ” (禮) bao gồm chữ “Kỳ” (礻, 示 – Thần đất, biểu thị) cùng với chữ “Phong” (豐 – phong phú) tổ hợp thành. “Phong” (豐) còn có một nghĩa nữa, đó là chỉ loại khí cụ được sử dụng trong các nghi lễ cúng tế thời xưa để biểu đạt thành ý và sự tôn trọng đối với các vị Thần.Lễ trước nhất là thức trong đời sống xã hội, là phép tắc, chuẩn tắc, quy phạm đạo đức cũng như là những thái độ và động tác biểu thị tôn kính trong giao tiếp hàng ngày. Các cụm từ liên quan đến LỄ 禮 tiêu biểu có: LỄ MẠO 禮貌 : Vẻ bên ngoài trông lễ độ, là Lễ Phép. PHI LỄ 非禮 : là Không đúng với Lễ Nghĩa. Ta nói là Làm Bậy, như Phi Lễ với Phụ Nữ: là đem lời chọc ghẹo suồng sã, thô lổ với phụ nữ. TẾ LỄ 祭禮: là Cúng tế, như TẾ THẦN 祭神 : là Cúng bái thần thánh. LỄ PHƯỢNG禮讓: chỉ thái độ và cử chỉ bày tỏ sự kính nhường TIÊN LỄ HẬU BINH先禮後兵:nghĩa là trước đối xử ôn hòa tôn kính sau mới dùng võ lực. Tam quốc diễn nghĩa 三國演義có câu: “Lưu Bị viễn lai cứu viện, tiên lễ hậu binh, chủ công đương dụng hảo ngôn đáp chi” 劉備遠來救援, 先禮後兵, 主公當用好言答之 (Đệ thập nhất hồi) Lưu Bị từ xa lại cứu, trước dùng lễ sau dùng binh, chúa công nên lấy lời tử tế đáp lại. 亂 HÁN VIỆT Loạn NGHĨA VIỆT Rối loạn, hỗn độn DẠNG KHÁC 乱 TỪ GHÉP bạo loạn 暴亂 • biến loạn 變亂• dâm loạn 淫亂 • đảo loạn 搗亂. Chữ LOẠN亂là chữ hội ý. Quan sát chữ LOẠN亂ở dạng chữ kim văn, hình thù giống như hai bàn tay đang gỡ rối trên dàn. Sau khi tơ được kéo ra phải có sự xử lý kịp thời, phải cuốn tơ lại, nếu không sẽ bị rối. Trong chữ hán khi cấu tạo chữ LOẠN亂người ta cũng lấy hiện tượng trên làm căn cứ. Tổng thể của chữ LOẠN亂là hình ảnh bó tơ được xử lý trong hai bàn tay, ở giữa có một nét “—“, biểu thị chiếc giá cuốn tơ, người xưa gọi nó là hỗ. Loạn vốn nghĩa là xử lý, khuôn phép đồng thời LOẠN亂cũng có nghĩa là hỗn loạn, hỗn độn, chưa qua xử lý. Trong chữ LOẠN ở dạng khác là乱cũng có nghĩa là hỗn loạn, rối rắm. trong cấu tạo chữ, có chữ THIỆT舌 (lưỡi). Nhiều người cho rằng chữ乱 biểu thị ý nghĩa là cái miệng (lưỡi) là nguyên do của mọi rắcrối. Thực ra , chữ 乱chỉ đơn giản là một cách viết giản dị của chữ LOẠN 亂. 龍 HÁN VIỆT long • lũng • sủng NGHĨA VIỆT Rồng, chỉ vua, người tài TỪ GHÉP cửu long 九龍 • long bào 龍袍 • long biên 龍編long cung 龍宮 • long mạch 龍脈 • long môn 龍門 • long nhãn 龍眼 • long nhan 龍顏 • LONG 龍 là chữ Tượng Hình, như ta đã biết Rồng là con vật thần thoại, đầu lân mình rắn, có 4 chân như thú, lại có vẩy như cá, có thể đi trên bờ, lội dưới nước, bay lên mây làm mưa làm gió... nên Tượng Hình của con rồng từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại Triện cũng vừa như rắn, vừa như cá, vừa như thú. Đến Tiểu Triện thì mới có dạng của chữ viết, nhưng vẫn mang Hình tượng nhe nanh múa vuốt như... Rồng! Rồng là LONG 龍 không có thật, nhưng KHỦNG LONG 恐龍 lại là một loại sinh vật có thật ở thời cổ đại. Rồng ở Trung Hoa là một linh vật đứng đầu trong Tứ linh: LONG, LÂN, QUI, PHỤNG. Rồng còn tượng trưng cho nhà vua, nên tất cả mọi thứ có liên quan đến Vua đều có chữ LONG đi kèm như: LONG NHAN 龍顏: là dung nhan của nhà vua, là Mặt vua. LONG THỂ 龍體 : là thân thể của vua. LONG BÀO 龍袍: là Áo của vua mặc. LONG XA 龍車: là Xe của vua đi... Mặc dù là con vật trong thần thoại, nhưng Thành ngữ có chữ LONG trong cuộc sống thường ngày cũng nhiều vô kể, như: XA THỦY Mà LONG 車水馬龍: là Xe như nước chảy, ngựa tợ rồng bơi, để chỉ cảnh phồn hoa đô hội, nhộn nhịp ngựa xe. Ta nói là: Ngựa xe như nước, áo quần như nen. LONG ĐÀM HỔ HUYỆT 龍潭虎穴: là Đầm rồng hang cọp, dùng để chỉ những nơi hung ác hiểm trở. NGỌA HỔ TÀNG LONG 臥虎藏龍: là nơi Rồng nằm hổ phục, chỉ những nơi ẩn chứa những nguy hiểm hung ác mà bình thường không thể nhìn thấy trước được. LONG TRANH HỔ ĐẤU 龍爭虎鬥: Chỉ 2 thế lực hoặc 2 lực lượng ngang bằng nhau mà quyết hơn thua với nhau. Tăng Quảng Hiền Văn có câu : Long du thiển thủy tao hà hí, 龍游淺水遭蝦戲, Hổ lạc bình dương bị khuyển khi. 虎落平陽被犬欺. Có nghĩa : Rồng mà lội ở nơi nước cạn thì bị tôm tép giởn mặt, còn... Cọp mà lạc xuống đồng bằng thì cũng bị lũ chó dễ ngươi! Cá chép hóa rồng là chỉ sự thành công vượt bực, một sự lột xác đổi đời mà ai ai cũng mong muốn, nên ta lại có thành ngữ: VỌNG TỬ THÀNH LONG 望子成龍: là Mong ước con được hóa rồng. Câu nầy nói lên mong ước của các bậc cha mẹ đối với con cái, mà cũng có thể dùng để chúc cho người khác nữa. 路 HÁN VIỆT Lộ, lạc NGHĨA VIỆT Đường đi, hướng, đường lối TỪ GHÉP chánh lộ 正路 • đại lộ 大路 • lộ phí 路費 • lộ trình 路程 • lộ tuyến 路線• mãi lộ 買路 LỘ路 là chữ hội ý kết cấu trái phải, chữ bao gồm bên trái là bộ TÚC (chân, đi) kết hợp với chữ CÁC (mỗi một) bên trái tạo thành với ý nghĩa : con đường được hình thành từ mỗi bước chân người, lại có thể hiểu rằng một chặng đường đi được hoàn thành từ những bước chân đơn lẻ. LỘ 路là Con Đường, như TIỂU LỘ 小路, ĐẠI LỘ 大路, THUỶ LỘ 水路, LỤC LỘ 陸路... Tăng Quảng Hiền Văn có câu: LỘ DIÊU tri mã lực, 路遙知馬力, Nhật cửu kiến nhân tâm. 日久見人心。 Có nghĩa : Đường có xa mới biết được sức ngựa giỏi hay dở, còn... Chuyện đời thì có lâu ngày mới biết được là lòng người tốt hay xấu. Ta nói là: Thức khuya mới biết đêm dài, Ở lâu mới biết là người có nhân . LỘ còn chỉ cái ý của phương hướng hoặc hành động, như : TƯ LỘ 思路 : là Cái dòng tư duy suy nghĩ. SINH LỘ 生路 : là Con đường để sinh sống (chỉ nghề nghiệp) hay Sự sống còn (khi phải đứng trước sự chọn lựa giữa chết và sống). TỬ LỘ 死路 : là Con đường chết, con đường không có lối thoát. NGOẠI LỘ HÓA 外路货: là Hàng hóa có được do con đường ngoại nhập (có thể hợp pháp hoặc không hợp pháp). NHỨT LỘ BINH Mà 一路兵馬 : Ta nói là Một Cánh Quân, khác với MỘT LỘ QUÂN là một đơn vị tổ chức trong Quân đội, lớn hơn cả một Binh Đoàn, Quân Đoàn. NHỨT LỘ PHƯỚC TINH 一路福星 : LỘ 路 vốn là một đơn vị hành chánh ngày xưa, tương đương với một tỉnh lớn của ngày nay, như KINH ĐÔNG LỘ là vùng đất Kinh Đông, sau dùng làm nghĩa chỉ Con Đường. PHÚC TINH 福星 là Phước lành trong năm. Nên... NHẤT LỘ PHƯỚC TINH vốn chỉ một ông quan tốt chăm lo cho đời sống của dân lành, theo điển tích sau đây : Vào đời nhà Tống, có một vị quan rất thanh liêm mẫu mực, thương dân như con đẻ, họ Tiên Vu tên Tử Tuấn. Khi ông được lệnh bổ nhiệm về làm Chuyển Vận Sứ của Kinh Đông Lộ, trước khi lên đường phó nhậm, quan Thượng Thư Tư Mã Quang nói rằng: "Phước tinh đã lên đường, phải chi có một trăm người như Tử Tuấn trấn nhậm khắp nơi thì tốt biết bao nhiêu!" Vì câu nói nầy mà mọi người gọi Tử Tuấn là: NHẤT LỘ PHÚC TINH. Những thơ văn ca ngợi ông có câu "Phúc tinh nhất lộ chi ca dao, Sanh phật vạn gia chi hương hỏa 福星一路之歌谣,生佛万家之香火." của Đới Dực đời Tống, có nghĩa: Lời ca dao khen là Nhất Lộ Phúc Tinh, là ông Phật sống đem lại hương hỏa cho muôn nhà! Trong tác phẩm "SÃI VÃI" của Nguyễn Cư Trinh, ông Sãi đã khoe rằng mình cũng đã làm quan, và cũng đã từng là một ông quan tốt:... Xưa Sãi cũng biết giữ mình làm côi; xưa Sãi cũng hay lấy đức chăn dân, Giữ thước mực cầm cân; đánh roi bồ răn chúng, nên bà Vãi đã khen rằng: Dầu chẳng "Vạn gia sanh Phật", Cũng là "nhất lộ phước tinh". 鹿 HÁN VIỆT Lộc, lục NGHĨA VIỆT Con hươu, ngôi vua, quyền hành TỪ GHÉP chỉ lộc vi mã 指鹿為馬 • huyền lộc 玄鹿 • lộc cừu 鹿裘 • lộc trại 鹿砦 • lộc tử thuỳ thủ 鹿死誰手 LỘC鹿 là chữ Tượng Hình. Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn là hình tượng của một con hươu, con nai sừng có gạc có cái đuôi ngắn và có 4 chân hẵn hoi, nên…LỘC 鹿 là một loại thú hoang hiền lành, có khứu giác và thính giác rất nhạy vì bản năng sinh tồn, nên chỉ cần một tiếng động nhỏ cũng dễ dàng khiến cho chúng... nhảy nai! LỘC có rất nhiều chủng loại, nhưng thường gặp là 4 loại sau đây: THỦY LỘC 水鹿, BẠCH THẦN LỘC 白唇鹿, MAI HOA LỘC 梅花鹿 và Mà LỘC 馬鹿. Nhắc đến Mà LỘC làm ta lại nhớ đến câu thành ngữ: CHỈ LỘC VI Mà 指鹿為馬 : là "Chỉ con Nai bảo là con Ngựa!" Theo SỬ KÝ, đời Tần Nhị Thế (con của Tần Thủy Hoàng), Hoạn Quan TRIỆU CAO chuyên quyền, luôn muốn tìm cách soán đoạt ngôi vua, nhưng còn ngại bá quan có người phản đối. Một hôm, đang thiết triều, Cao cho người dẫn đến một "con nai", rồi tâu với vua rằng mình tặng cho vua một con "tuấn mã". Tần Nhị Thế cười bảo: "Thừa Tướng sai rồi. Đó rõ ràng là con nai mà, ngựa thì làm sao có sừng có gạc cho được?" Triệu Cao sa sầm mặt xuống bảo rằng: "Đó chính là con Thiên lý mã. Không tin, Bệ Hạ cứ hỏi các quan bên dưới xem sao?!" Đoạn quay xuống quắc mắt hỏi bá quan rằng: "Con nầy là Ngựa hay Nai?" Bá quan có người nín thinh không dám trả lời, có người cương trực thì bảo đó là Nai, nhưng đa số vì khiếp sợ trước uy quyền của Triệu Cao đều trả lời là "Ngựa" khiến cho Tần Nhị Thế cũng ngẩn ngơ bẽn lẽn. Những người nín thinh và trả lời là Nai trước sau đều bị Triệu Cao tìm cách hại cho tan nhà nát cửa, cả Thừa Tướng Lý Tư cũng bị chết chém. Cuối cùng Tần Nhị Thế bị ép thoái vị và tự sát. Sau nầy, hễ người nào hay ăn nói lật lọng, ỷ quyền ỷ thế, điên đão thị phi, thay trắng đổi đen thì đều gọi là CHỈ LỘC VI Mà 指鹿為馬. Đời Tần nầy cũng phát xuất một câu nói rất nổi tiếng về con Mai Hoa Lộc mà các tiểu thuyết võ hiệp, tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa thường hay nhắc tới, đó là câu: "Đuổi bắt Hươu ở Trung Nguyên". Theo SỬ KÝ- Hoài Âm Hầu Liệt Truyện có câu: 秦失其鹿, 天下共逐之. 史记•淮阴侯列传. Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục chi. Có nghĩa: Nước Tần để xẩy mất con nai, thiên hạ đua nhau đuổi bắt. Ý chỉ: Tần để mất nước, nên thiên hạ đua nhau giành lấy. Theo tích sau đây: Sau khi diệt Trần Hi, Lưu Bang về đến kinh thành thì Lữ Hậu đã giết Hàn Tín rồi. Lưu Bang hỏi trước khi chết Hàn Tín có nói gì không? Lữ Hậu đáp là: Trước khi chết, Hàn Tín đã ngước mặt lên trời than rằng: "Ta rất hối hận vì đã không nghe theo kế của Khoái Thông!" Khoái Thông là mưu sĩ của đất Tề. Lưu Bang nghe nói, bèn cho người triệu Khoái Thông đến hỏi rằng: "Nghe nói nhà ngươi xui Hàn Tín tự lập làm Vua, có không?" Khoái Thông đáp rằng: "Đúng vậy, Tiểu tử đó không nghe theo lời tôi khuyên, nếu nghe theo tôi, thì ngày nay ông có còn làm vua được hay sao?" Lưu Bang giận, ra lệnh vứt Khoái Thông vào vạc dầu. Khoái Thông la lớn: "Oan cho tôi!" Lưu Bang hỏi: "Rõ ràng ngươi xúi hắn phản ta, còn kêu oan nổi gì?" Khoái Thông đáp rằng: "Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục chi, ư thị cao tài tật túc giả tiên đắc yên. 秦失其鹿,天下共逐之,於是高材疾足者先得焉". Có nghĩa: "Nước Tần để xẩy mất con Hươu, thiên hạ cùng tranh nhau giành bắt lấy. Ai cao lớn giò dài chạy nhanh thì bắt được mà thôi." Đuổi bắt hươu ở Trung Nguyên là thế. Ai cũng có quyền tranh giành bắt lấy nó, các lộ anh hùng đều có binh mã riêng của mình. Ai vì chúa nấy mà không cần biết đến người khác. Lúc đó tôi đang theo phò Hàn Tín, nên chỉ biết có Hàn Tín mà thôi, đâu biết có Ngài. Tôi khuyên Hàn Tín xưng vương đó là lòng trung thành của tôi đối với Hàn Tín, sao lại nói là có tội? Vả lại, lúc bấy giờ rất nhiều lộ quân nổi dậy để tranh giang sơn của nhà Tần, bây giờ, họ cũng đã quy thuận, chẳng lẽ Bệ Hạ còn muốn bắt họ về để giết hết hay sao? Lưu Bang nghe nói chí lý, bèn ra lệnh tha cho Khoái Thông không giết. Truyện nầy cho ta đến mấy thành ngữ sau đây: TẦN THẤT KỲ LỘC 秦失其鹿 : là Nhà Tần đánh mất con hươu, tức là Nhà Tần để mất thiên hạ. TRỤC LỘC TRUNG NGUYÊN 逐鹿中原 : là Đuổi bắt con hươu ở đất Trung Nguyên, tức là chiếm lấy đất Trung Nguyên. QUẦN HÙNG TRỤC LỘC 群雄逐鹿 : là Các lộ anh hùng khắp nơi đều đuổi bắt hươu, đều muốn làm vua Trung Nguyên. CAO TÀI TẬT TÚC 高材疾足 : là Thân thể cao to, giò cẳng mau lẹ, chỉ những người có tài và nhanh nhẹn nắm bắt thời cơ. 祿 HÁN VIỆT Lộc, lục NGHĨA VIỆT phúc, tốt lành, bổng lộc,… DẠNG KHÁC 禄 TỪ GHÉP bất lộc 不祿 • bổng lộc 俸祿 • can lộc 干祿 • hưởng lộc 享祿 • phúc lộc 福祿. Theo ‘Thuyết văn giải tự’: “Lộc, phúc dã”, nghĩa là: “Lộc chính là Phúc vậy”. Tại sao Lộc lại là Phúc? Có phúc tức là có phúc khí; khi phúc báo đến, phúc khí triển hiện ra thì làm gì cũng thuận lợi: người làm ăn, sản xuất kinh doanh sẽ báo ứng ra của cải vật chất; người ăn lương, quan chức sẽ báo ứng ra công thành danh toại, thăng quan tiến chức. Phúc giống như nguồn nước, lộc giống như đồ chứa nước. Chúng ta ra suối lấy nước dùng đồ chứa gì thì sẽ được nước hình như thế: dùng thùng, vò, vại, bình lấy nước sẽ được thùng nước, vò nước, vại nước, bình nước… Đó chính là lý do tại sao người xưa nói “lộc chính là phúc”. Phúc là cái gốc, mà lộc chính là những cành lá hoa quả mọc ra từ cái gốc đó. Chiết tự chữ Lộc (祿) gồm: bộ Kỳ 礻, nghĩa là Thần đất, bày tỏ tế Thần; bộKý (彑 hoặc 彐) nghĩa là đầu lợn; và chữ Thủy (水) nghĩa là nước. Như vậy chữ Lộc cũng có nghĩa tế lễ Trời Đất, Thần linh để công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió, phát tài phát lộc. Theo thuật phong thủy phương Đông “Sơn chủ nhân đinh, thủy chủ tài”, nghĩa là “Núi chủ về nhân đinh (con người), còn nước (sông) chủ về tài vận”. Thế nên trong chữ Lộc có bộ Ký chỉ tài sản vật nuôi, và chữ Thủy chỉ tài vận. Tài lộc có từ nguồn phúc, vậy nên người am hiểu tài vận ắt sẽ chăm lo vun trồng cây phúc, thì tài lộc bất tận. Ngược lại, không chăm lo đến cây phúc, chỉ biết hái quả hưởng thụ thì cây phúc cũng tàn lụi dần, quả ít dần rồi sẽ hết. Người xưa cũng nói “Thực lộc tận tắc mệnh tận”, nghĩa là “Ăn hết lộc thì vận mệnh cũng hết”. Vận mệnh hết ở đây không phải là hết mệnh lìa đời ngay, mà là không thể làm nên trò trống gì nữa, vận may cũng đã hết, giống như cây đèn dầu đã hết dầu, chỉ còn leo lắt kéo dài thêm chút ánh lửa tàn trước khi tắt ngấm mà thôi. Chính vì hiểu rõ đạo lý này mà những phú hộ xưa, hay những tỷ phú phương Tây ngày nay đều vun trồng cây phúc, thường đem của cải ra cứu tế giúp đỡ người nghèo. Trong kinh doanh họ cũng không giở thủ đoạn tàn độc; khi đối thủ thất bại, họ vẫn để đối thủ một con đường sống. Vậy nên nhiều gia đình thế tộc trải qua hàng trăm năm, thậm chí cả nghìn năm con cháu vẫn đời đời hưởng phúc thụ lộc. Chúng ta cũng thấy trong xã hội ngày nay, có người dùng mọi thủ đoạn để tranh quyền đoạt lợi, bất chấp đạo đức, lương tâm, gây oan tác họa cho nhiều người. Thường người như thế, cái gốc phúc không có, nên cái lộc do cướp đoạt được kia cũng chẳng tồn tại lâu, khi vận mệnh hết thì trở thành tội đồ muôn người nguyền rủa. Lúc đó, họ muốn làm một người dân bình thường cũng đã không làm được nữa rồi. 雷 HÁN VIỆT Lôi NGHĨA VIỆT Sét, tia sét TỪ GHÉP địa lôi 地雷 • lôi chấn 雷震 • lôi công 雷公 • lôi đình 雷霆 • lôi thần 雷神. Chữ LÔI雷là chữ hội ý kết cấu trên dưới. Phần trên là bộ VŨ雨phần dưới là chữ ĐIỀN田. Quan sát chữ giáp cốt thì chữ 雷 là sự mô tả hiện tượng tự nhiên, trong con mưa, chớp giật lóe trên bầu trời. hai hình nhỏ hai bên vệt chớp biểu tượng của những giọt nước mưa được phóng đại lên mang ý nghĩa biểu trưng (mưa to). Điều đó chứng tỏ, người xưa quan sát các hiện tương mưa, sấm chớp và phát hiện các hiện tượng này có liên quan tới nhau. Trước, trong và sau cơn mưa thường có sét lóe lên kèm theo tiếng sấm. Sau tiếng sống vang động là mưa rơi. Các hiện tượng mưa, sấm , chớp đều có quan hệ mật thiết với nhau. Chữ 雷 ở dang kim văn cũng tương tự như giáp cốt, có điều biểu tượng 雨 (mưa) được thể hiện rõ nét hơn với bộ 雨 nằm ở trên, phía dưới là biểu tượng của tia chớp biểu trưng cho những tiếng vang vọng ra bốn bề. Dấu ấn ghi nhận hiện tượng thiên nhiên này trình độ văn minh canh nông đã phát triển đến mức cao. Từ dạng chữ tiểu triện, 雷chỉ còn bộ雨trên cùng và bốn bộ 田 ở dưới. Tính chất biểu ý của chữ 雷 trong tiểu triện thể hiện ở chỗ, mưa to ở giữa đồng nội, sấm chớp biến hóa khôn lường, tiếng sấm vang lên trong mưa, người ta dễ quan sát và nhận biết hiện tượng thiên nhiên này. Đến dạng chữ khải, 雷 chỉ còn bộ 雨 ở trên và田ở dưới. 耒 HÁN VIỆT Lỗi NGHĨA VIỆT Cái cày TỪ GHÉP Bộ thủ tạo chữ LỖI 耒là chữ Tượng Hình, trong cổ văn là hình tượng của cái Cày, có tay cầm ở phía sau, phía trước ba vạch là bộ phận xới đất. LỖI 耒 là một Bộ trong chữ Hán và là một chữ CỔ, vì ngày nay không còn thông dụng nữa. Chữ chỉ "cái cày" hiện nay là chữ LÊ 犁 (犂). Theo sách Hàn Phi Tử 韓非子: Có kể lại một câu truyện Ngụ ngôn như sau : Nước Tống thời Chiến Quốc, có một người nông dân sau buổi cày trưa, đang ngồi nghỉ dưới gốc cây, tình cờ có một con thỏ đang bị người ta săn đuổi chạy đâm đầu vào gốc cây chết... giấc. Mừng như bắt được... thỏ, anh ta mang về nhà và cả nhà có được một bửa "chén" no nê. Anh ta nghĩ; thế thì cày làm quái gì cho mệt, nên mỗi ngày anh ta cứ ra ngồi dưới gốc cây mà đợi thỏ chạy đến đụng đầu vào cây để cho... anh ta bắt về ăn! Cứ thế, đồng ruộng bị bỏ hoang mà thỏ thì chẳng thấy con nào nữa cả! Hàn Phi Tử đã viết một câu như thế nầy: "Nhân thích kỳ LỖI nhi thủ chu, kí phục đắc thố. 因釋其耒而守株, 冀復得兔 ". Có nghĩa : "Vì thế bỏ cái CÀY mà giữ lấy cái gốc cây, mong lại bắt được thỏ." Đó là thành ngữ THỦ CHU ĐÃI THỐ 守株待兔 : Ta nói là "ÔM CÂY ĐỢI THỎ" chỉ việc chánh đáng thì không làm, mà chỉ hết lòng trông chờ vào những việc may rủi. Tình trạng chung của dân nghèo tại Việt Nam hiện nay. Sáng sớm không lo làm ăn, chỉ lo kiếm mượn tiền mua vé số, đánh đề để hy vọng "đổi đời", nhưng Đời chưa thấy Đổi mà Nợ đã ngập đầu! Có tất cả 35 chữ được ghép bởi bộ LỖI 耒 nầy, tiêu biểu có : CANH 耕 : là Cày, là cày cho đất xốp lên. VÂN 耘 : là Xới cho chết cỏ, là Làm cỏ, nên... CANH VÂN 耕耘 " là Cày xới, là từ kép chỉ công việc đồng áng. XUÂN CANH HẠ VÂN 春耕夏耘 : Mùa xuân thì cày xới, mùa hè thì làm cỏ. Chỉ công việc thường làm của nhà nông. Ta còn có các từ như : CANH TÁC 耕作, CANH CHỦNG 耕種, CANH ĐỊA 耕地, CANH ĐIỀN 耕田.... đều là những từ xoay quanh việc làm của Nông Dân. 利 HÁN VIỆT Lợi NGHĨA VIỆT Lợi ích TỪ GHÉP danh lợi 名利 • lợi bất cập hại 利不及害 • lợi dụng 利用 • lợi hại 利害 • lợi ích 利益. Chữ LỢI利là một chữ hội ý kết hợp trái phải, bao gồm bộ HÒA禾 (cây lúa) và bộ ĐAO刂 (con dao). Chữ hòa vẽ lại cảnh hớn hở của người nông dân khi đến mùa thu hoạch hoa màu. Sau những tháng ngày vật vả chăm bón và chờ đợi cuối cùng cũng đến lúc người nông dân thu lại lợi phẩm do chính mình làm ra. Chữ LỢI 利 với bộ HÒA 禾 hợp với bộ ĐAO 刂 là biểu tượng của cảnh thu hoạch đang diễn ra. Người ta dùng liềm để gặt những bó lúa nặng trĩu hạt. Nhũng bó lúa này là thành quả lao động, là mô hôi, công sức và là ân phúc của thần linh như quan niệm của người xưa. 六 HÁN VIỆT Lục NGHĨA VIỆT Số 6 TỪ GHÉP lục bát 六八 • lục giác 六角 • lục lăng 六棱; lục phủ 六腑 • lục súc 六畜 • lục vị 六味 • song thất lục bát 雙七六八. Chữ LỤC六là một chữ chỉ sự, chữ lục trong giáp cốt văn và kim văn được viết giống như hình một ngôi nhà. Một ngôi nhà thông thường gồm bốn bức tường và hai bên mái, tất cả có sáu mặt, nên LỤC là số 6 thuộc về số đếm. Ta có các cụm tự liên quan : NGŨ NHAN LỤC SẮC 五顏六色: Đủ các thứ loại, các thức các dạng, ý nói sự đa dạng về thứ loại. SONG THẤT LỤC BÁT 雙七六八: Tên một thể văn vần của Việt Nam, cứ hai câu 7 chữ lại tới một câu 6 chữ, rồi một câu 8 chữ. Thể này còn gọi là thể Ngâm, các Ngâm khúc đều viết theo thể này ( Bản dịch Chinh phụ ngâm khúc , Cung oán ngâm khúc ). 旅 HÁN VIỆT Lữ NGHĨA VIỆT Khách xa nhà, phòng trọ, đơn vị quân đội TỪ GHÉP lữ đoàn 旅團 • lữ hành 旅行 • lữ khách 旅客 • lữ quán 旅舘• lữ thứ 旅次. Chữ LỮ旅trong giáp cốt và kim văn miêu tả hình ảnh hai người đứng dưới một lá cờ. Hai người đàn ông tượng trưng cho rất nhiều binh sĩ cùng hành quân dưới quân kỳ bay phấp phới trong gió. Bắt đầu từ triện văn hình thể chữ có sự thay đổi, hình ảnh lá cờ được đơn giản lại cùng với đó là hình ảnh ba người đàn ông đứng dưới lá cờ thay vì hai như trong giáp cốt và kim văn. Nghĩa gốc của của là QUÂN LỮ (quân đội). Quân đội ngày xưa cứ 500 lính gọi là một lữ. Sau đó 旅 mở rộng nghĩa là KHÁCH THẬP PHƯƠNG như trong các từ LỮ KHÁCH, LỮ HÀNH. 糧 HÁN VIỆT Lương NGHĨA VIỆT Thức ăn, lương thực TỪ GHÉP cấp lương 給糧lương bổng 糧俸 • lương hướng 糧餉 • lương thảo 糧草 • lương thực 糧食 • trữ lương 貯糧 • vận lương 運糧 LƯƠNG 糧 thuộc dạng chữ Hình Thanh, chữ bao ồm bên trái là bộ MỄ biểu nghĩa, bên phải là LƯƠNG 量 biểu thị âm đọc. MỄ 米là thành phẩm của ngũ cốc, là lúa gạo đã được bóc sạch vỏ bên ngoài. Với bộ MỄ biểu ý nên LƯƠNG 糧là Thức Ăn từ ngũ cốc, ăn để duy trì cuộc sống, từ kép là LƯƠNG THỰC 糧食. Ngày xưa, phát Lương là phát Lương Thực cho ăn, tuỳ theo chức vụ mà được lãnh nhiều hay ít; ngoài Lương Thực còn lãnh kèm một số ngân lượng, gọi là LƯƠNG HƯỚNG 糧餉. Ngày nay được thay thế bằng tiền, nên gọi là TIỀN LƯƠNG 錢糧. TÍCH THẢO ĐỒN LƯƠNG 積草屯糧 : Tích trữ để dành Lương thực và Thảo liệu (những hoa qủa cải khô...) để làm việc lớn. Thường đi liền 2 câu: "Tích Thảo Đồn Lương, Chiêu Binh Mãi Mã", để chuẩn bị làm cái công việc của những anh hùng Lương Sơn Bạc và của Từ Hải đã từng làm... Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ vạch đôi sơn hà! 里 HÁN VIỆT Lý NGHĨA VIỆT Làng, Quê hương, Xóm, Dặm (500 mét) TỪ GHÉP công lý 公里 • hải lí 海里 • hành lí 行里 • lí hào 里豪 • lí trưởng 里長• thiên lí 千里 LÝ là chữ Hội Ýta thấy trong cổ văn phần trên là chữ ĐIỀN 田 là Ruộng, phần dưới là chữ THỔ 土 là Đất. Có Ruộng có Đất là chỉ Chỗ Ở của con người. Theo tính toán về thổ cư ngày xưa, cứ 5 nhà là Một LÂN 鄰 là Một Xóm; Năm LÂN là Một LÍ 里 (25 nhà) một Làng. Ta có từ LÍ TRƯỞNG 里長 là Trưởng Làng, người đứng đầu một làng nên... LÂN LÍ 鄰里 : là Làng Xóm, là Lối Xóm, là Hàng Xóm. Như Kim Trọng nói mình là Hàng xóm của Thúy Kiều vậy: Chàng rằng: "LÂN LÍ ra vào, Gần đây chớ phải người nào xao xôi!... CỐ LÍ 故里 : Cũng như Cố Hương, là Quê Xưa, Quê Cũ. PHẢN HỒI CỐ LÍ 返回故里: hay Phản Hồi Cố Quận, đều có nghĩa là Về lại Quê Xưa hay Trở lại quê nhà . LÍ Còn có nghĩa là DẶM (khoảng 360 bước) ta có từ THIÊN LÍ 千里 là Ngàn Dặm. Tăng Quảng Hiền Văn có câu: Tống quân THIÊN LÍ, 送君千里, Chung tu nhất biệt. 終須一別。 Có nghĩa : Dù cho có đưa người đến một ngàn dặm đường, rốt cuộc rồi cũng phải chia tay mà thôi! Ý nói: Không nên qúa bịn rịn quyến luyến lúc chia tay. CÔNG LÍ 公里 : là Cây Số = Một ngàn mét = Một dặm tây. Khác với CÔNG LÝ 公理: là Cái Lẽ Công Bằng ở đời, cái LẼ PHẢI trong cuộc sống xã hội của nhân sinh. 理 HÁN VIỆT lý NGHĨA VIỆT Lý lẽ, mài giũa ngọc TỪ GHÉP chân lý 真理 • chỉnh lý 整理 • chính lý 正理• địa lý 地理 • hợp lý 合理 • luân lý 倫理 • lý giải 理解 • lý luận 理論. Về đặc điểm cấu tạo và tính chất biểu ý, Chữ LÝ理đến nay vẫn có hai quan điểm chính sau đây: Quan điểm thứ nhất , các học giả cho rằng, chữ LÝ理là một chữ hội ý kết cấu trái phải bên trái là bộ VƯƠNG王bên phải là bộ LÝ里. Chữ VƯƠNG 王 đứng riêng lẻ lại là một chữ hội ý, nét sổ ở giũa kết nối ba nét ngang, thứ tự từ trên xuống dưới mỗi nét ngang là biểu trưng lần lượt là thiên, nhân và địa, cũng có nghĩa là kết nối tam tài, gồm thiên tài, địa tài, và nhân tài. Nói cách khác đó là hình ảnh biểu trưng về một con người, trên thông thiên văn , dưới tường địa lý, giữa hiểu việc đời. Chữ LÝ 里 đứng riêng lẻ cũng là một chữ hội ý, gồm bộ ĐIỀN田 (ruộng) và bộ THỔ土 (đất) tạo thành. Cùng biểu thì ý nghĩa đất đai. Tính chất của thiên là dương cương, tính chất của địa lànhu thuận, lẽ đất sẽ chuyển hóa theo đạo trời, trong nhu có cương, trong cương có nhu. Chữ LÝ 理với tính chất hội ý của nó đã chứng tỏ cái lẽ thiên địa hợp nhất. LÝ 理là cái lẽ của vạn vật trong vũ trụ vận hành, biến đổi cũng là quy luật chung mang tính khách quan của tự nhiên theo theo thuyết tam tài. Chữ LÝ cũng thể hiện nhận thức của con người đối với quy luật vận đông khách quan của vạn vật . LÝ 理 với nghĩa thứ nhất là lý lẽ trong các từ : lý luận, đạo lý, vật lý… Quan điểm thứ hai cho rằng, chữ LÝ 理là một chữ hình thanh, được tạo thành từ bộ NGỌC玉 (ngọc khi đứng bên trái tạo chữ thì thành bộ vương) và bên phải là chữ LÝ 里biểu âm. Tính chất biểu ý của chữ LÝ理nằm hoàn toàn ở bộ NGỌC 玉, với ý nghĩa ban đầu là chỉnh sửa, mài giũa viên ngọc cho hoàn thiện hơn, chuyển thành nghĩa chỉnh lý, sửa sang, như trong các từ chỉnh lý, xử lý… 媽 HÁN VIỆT Ma, Mụ NGHĨA VIỆT Mẹ DẠNG KHÁC 妈 TỪ GHÉP a ma 阿媽 • di ma 姨媽 • ma ma 媽媽 • ma mễ 媽咪 • nãi ma 奶媽. Chữ MA媽 (mẹ) là một chữ hình thanh, trong cấu tạo chữ MA媽bao gồm bộ NỮ女 (đàn bà, phụ nữ) có nhiệm vụ là bộ phận biểu nghĩa, bộ MÃ馬(con ngựa) là bộ phận biểu thị âm đọc. Nhiều tài liệu chữ hán phân tích chữ MA theo dạng chữ hội ý thì chữ MA chỉ người phụ nữ vất vả như thân phận trâu ngựa. Thật ra, cách phân tích này hoàn toàn không có cơ sở. Bản thân bộ MÃ馬hoàn toàn không có tác dụng biểu nghĩa trong chữ MA 媽, nghĩa của chữ nằm hoàn toàn ở bộ NỮ 女. MA 媽 có nghĩa là mẹ, phát triển thêm các nghĩa chỉ người phụ nữ cứng tuổi, hay vú già với âm đọc là MỤ. 馬 HÁN VIỆT mã NGHĨA VIỆT Ngựa TỪ GHÉP binh mã 兵馬 • chỉ lộc vi mã 指鹿為馬 • hà mã 河馬 • khoái mã 快馬 • la mã 羅馬 • mã đề 馬蹄 • mã lai 馬來 • mã lộ 馬路 • mã lực 馬力 MÃ馬 là chữ Tượng Hình, Giáp Cốt Văn là hình tượng của con ngựa có đầu, có mắt, có bờm, có đuôi và có chân hẵn hoi. Nên MÃ馬 là Ngựa, một trong lục súc được con người thuần hóa sớm nhất. Mà 馬 là Ngựa, là phương tiện giao thông đường bộ quan trọng nhất của ngày xưa, ta có các từ như: KỴ Mà 騎馬 là Cởi ngựa. Mà XA 馬車: là Xe Ngựa, khác với XA Mà 車馬 là Ngựa Xe trong thành ngữ: Xa như lưu thủy, 車如流水, Mã tự du long. 馬似游龍。 Có nghĩa : Xe như nước chảy, ngựa tợ rồng bơi, để chỉ sự giao thông trôi chảy rất thuận lợi và rất phồn thịnh. Cụ Nguyễn Du đã tả về hội du xuân rất náo nhiệt trong Truyện Kiều: Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước aó quần như nen. XA Mà 車馬 : còn chỉ giai cấp qúy tộc, lên xe xuống ngựa, như trong Cung Oán Ngâm Khúc Nguyễn Gia Thiều đã viết: Mồi phú quý nhử làng XA MÃ, Bã vinh hoa lừa gã công khanh. Mà 馬 còn hiện diện trong quân đội ngày xưa với Mà BINH 馬兵, tức là KỴ BINH 騎兵 và Đoàn Kỵ Binh nổi tiếng thế giới của Mông Cổ được xưng tụng là Đoàn Thiết Kỵ 鐵騎 đã giẫm nát Á Âu, chiếm Trung Quốc lập nên nhà Nguyên kéo dài cả trăm năm thống trị. 麥 HÁN VIỆT Mạch NGHĨA VIỆT Lúa mạch, lúa mì TỪ GHÉP cử mạch 蘧麥 • đại mạch 大麥 • đan mạch 丹麥 • mạch nha 麥芽 • mạch tửu 麥酒 MẠCH 麥 là chữ Tượng Hình. Từ Giáp Cốt Văn đến Tiểu Triện là hình tượng của cây lúa mạch, lúa mì, cây bắp. MẠCH 麥 là một trong ngũ cốc quan trọng để nuôi sống con người. MẠCH 麥 là lúa Mì, cho ta Bột Mì để làm Bánh Mì và các thực phẩm được chế biến bằng bột mì. Mộng của lúa mạch còn cho ta Mạch Nha 麥芽 để làm đường làm kẹo. Lúa Mạch còn dùng để ủ thành MẠCH TỬU 麥酒 là Rượu mạch như rượu nếp của ta vậy. MẠCH PHẠN ĐẬU CANH 麥飯豆羹 : là Cơm bằng lúa mì Canh bằng Đậu, chỉ bửa ăn đạm bạc của nhà nông mà ta thường nói là: Cơm Canh Đạm Bạc. MẠCH PHIẾN 麥片 : là lúa mạch non ép thành thực phẩm khô như Cớm dẹp của ta, có thể châm nước sôi hoặc nấu thành thực phẩm mặn ngọt đều được cả. Ở Mỹ gọi là Oatmeal là thực phẩm ăn sáng hoặc tối rất tốt cho sức khoẻ của người già và trẻ em. ĐAN MẠCH 丹麥 : (tiếng Đan Mạch: Danmark) là một quốc gia thuộc vùng Scandinavia ở Bắc Âu và thường được gọi là Vương quốc Đan Mạch. Đan Mạch nằm ở vùng cực nam của các nước Nordic, nằm phía Tây Nam của Thụy Điển, phía Nam của Na Uy và cũng giáp với Đức về phía Nam. Đan Mạch giáp cả biển Baltic và biển Bắc. Đan Mạch bao gồm một bán đảo lớn, Jutland (Jylland) và nhiều đảo khác, được biết đến nhiều nhất là Zealand (Sjælland), Funen (Fyn), Vendsyssel-Thy, Lolland, Falster, Bornholm, và hàng trăm đảo nhỏ thường được gọi là quần đảo Đan Mạch. Đan Mạch từ lâu đã kiểm soát cửa ngõ vào biển Baltic. Trước khi có kênh đào Kiel, nước chảy vào biển Baltic qua ba eo biển được gọi là những eo biển Đan Mạch. 買 HÁN VIỆT Mãi NGHĨA VIỆT mua, sắm, tậu,… DẠNG KHÁC 买 TỪ GHÉP mãi danh 買名 • mãi dâm 買婬 • mãi lộ 買路. Mãi 買 tức mua bán, gồm hai bộ khẩu 口 ở phía trên biểu thị sự thương lượng, mặc cả giữa bên mua và bán; còn bộ bối (vỏ sò) ở phía dưới tượng trưng cho tiền tệ (người xưa sử dụng vỏ sò như một dạng tiền tệ) Chữ Mãi Giản thể thay đổi thành 「买」gồm nửa bộ mịch 冖 ở trên (có nghĩa là trùm kín, bịt) ở dưới là bộ đầu 头 (cái đầu), về bản chất việc mua bán là phải dùng tiền bạc nhưng ở đây lại giống như sự bưng bít, bịt miệng và cướp giật tài sản. 賣 HÁN VIỆT Mại NGHĨA VIỆT bán DẠNG KHÁC 卖 TỪ GHÉP mại danh 賣名 • mại dâm 賣淫 • mại hôn 賣婚. Chữ MẠI賣(bán) xuất hiện từ thời kỳ chiến quốc. Thuyết văn giải nghĩa chữ MẠI như sau : “Mại, xuất vật hóa dã”. Tòng xuất tòng mãi” (Mại tức là xuất hàng hóa ra, xuất biểu nghĩa, mãi biểu âm). Xét về mặt hình thể, Mại được tạo thành trên cơ sở chữ MÃI買 (mua). Về mặt ý nghĩa MẠI và MÃI trái ngược nhau. Đáng chú ý là, thời gian ra đời chữ MẠI và MÃI chênh lệch nhau rất xa. Theo lẽ thương MÃI và MẠI (mua và bán) là một cặp đối lập, có mua tức có bán. Với sự xuất hiện muộn của chữ MẠI theo nguyên tắc từ chính phản, thì MÃI nên kiêm hai nghĩa mua vào và bán ra, Nhưng trong kinh điển, MẠI làm minh chứng khi nói về MÃI. Ví dụ như trong chu lễ, cổ sư có viết : “phàm quốc chi mại mãi” (nói chung là việc mua bán trong nước). Các tác giả cho rằng trong khoảng thời gian 1000 năm chỉ có mua mà không có bán, hàng hóa được muavào theo hướng lưu thông một chiều. Hiện tương bề ngoài có vẻ hợp lý này phản ánh văn hóa sâu sắc. Từ đó thấy được ý nghĩa thực sự của MÃI. Ban đầu khi sử dụng, hiện tượng lấy vỏ sò đổi thành vật phẩm để đạt được lợi nhuận ban đầu mới chỉ có trong giai cấp quý tộc, còn giao dịch thông thường của người dân đa số đều là đổi vật lấy vật, sản phẩm trao đổi cũng giới hạn ở các vật dụng cần thiết trong sinh hoạt hàng ngày. Sau thời xuân thu chiến quốc, với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, thương nghiệp cũng được phát triển, dần dần nó phá vỡ sự lũng đoạn về tài sản của giai cấp quý tộc. Hiện tượng lấy tiền tệ mua lấy đồ vật không còn là độc quyền của quý tộc nữa, đồng thời một số quý tộc sa sút không thể không bán những món đồ của họ. Cùng với sự phá vỡ cục diện lưu thông đơn nhất của sản phẩm, chữ MẠI賣 (bán) cũng ra đời. 忙 HÁN VIỆT Mang NGHĨA VIỆT bận rộn, bề bộn, vội, cấp bách,… DẠNG KHÁC 恾 TỪ GHÉP đa mang 多忙 • hoang mang 慌忙 • mang bất quá lai 忙不過來 Chữ Mang (“忙” máng) có nghĩa là vội, vội vàng, bận rộn. Nó được ghép bởi chữ Tâm (tâm, tim, lòng: “心”) và chữ Vong (quên, mất: “亡”). Ngụ ý nói rằng, con người một khi mà vội vã, bận rộn thì sẽ đánh mất tâm, người vội, bận rộn thì thường thường sẽ vô tâm. Chính bởi vì đã đánh mất tâm nên vội vàng sẽ sinh ra lỗi sai và bị loạn, bị xáo trộn. Một người làm việc mà không có tâm thì sao có thể không phạm lỗi, không loạn? Lo âu, kiêu căng, bất an, vội vàng, là cách dễ dàng nhất để mất đi tâm. Phải tĩnh hạ tâm xuống thì mới có thể an định, sự tình mới có thể thong dong được. 氓 HÁN VIỆT Manh NGHĨA VIỆT Dân thường, dân lang thang, lưu manh,… TỪ GHÉP lưu manh 流氓 • manh lệ 氓隸. Nếu hoàn cảnh không tốt sẽ ảnh hưởng đến con người, bản tính hiền lành lương thiện có thể bị mai một, chữ Manh氓 là một ví dụ điển hình. Manh氓 là một chữ hội ý kết cấu trái phải, gồm 2 bộ thủ tạo thành, trong đó Vong亡nghĩa là mất và Dân民nghĩa là người dân. Nghĩa ban đầu của Manh氓 là người dân không có việc làm sống du thử du thực. Trong quá trình tha hương mưu sinh của mình,cuộc sống khốn khó, con người rất có thể có những hành vi bất chính. Cổ nhân có câu “cơ hàn thiết thân, bất cố liêm xỉ” hay “đói ăn vụng, túng làm liều”. Do đó chữ Manh氓 lại phát triển thành nghĩa là trộm cắp, lưu manh, bất chính,… Cũng có tài liệu phân tích Manh氓 gồm Vong亡là mất và Dân民 nên chữ manh mang nghĩa là những kẻ không còn là công dân hay mất quyền công dân. Thực tế đây chỉ là cách nhớ vui không nói lên nguồn gốc ý nghĩa thực sự của chữ Manh. 盲 HÁN VIỆT Manh, vọng NGHĨA VIỆT Mù lòa, kém hiểu biết TỪ GHÉP manh động 盲动 • manh tòng 盲從 • manh trường 盲肠 • manh trường 盲腸 • sắc manh 色盲 • văn manh 文盲 Chữ MANH (盲) trong từ "manh động" là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, chữ này bao gồm bộ VONG 亡 nghĩa là chết là mất ở trên và bộ MỤC 目 là con mắt ở dưới tạo thành, với ý nghĩa là "con mắt bị mất" nên MANH (盲) có nghĩa là mù là không nhìn thấy. MANH (盲) trước nhất dùng để chỉ những người mù về mặt thể lý như "Manh nhân 盲人" tức người mù hay như "manh mục 盲目" là mù mắt, mù lòa.Ta cũng có một thành ngữ rất nổi tiếng là: "manh nhân mô tượng" 盲人摸象 (ở ta hiểu là thầy bói xem voi). 盲 cũng dùng để chỉ những người thiếu kém về một phương diện hiểu biết nào đó như: “văn manh” 文盲 người mù chữ, nạn mù chữ (Ta cũng có “Manh văn” 盲文 là chữ Braille dùng cho người mù) Người mù thì không thấy đường mà không thấy dẫn đến phán đoán và hành động thiếu chính xác nên 盲 còn có nghĩa là không hiểu sự lý, người không hiểu sự lý thì hành động mù quáng như trong từ "manh động 盲動" tức là hành động thiếu suy nghĩ trước sau. về ý nghĩa này ta có nghe câu “Phù tri kim bất tri cổ, vị chi manh cổ” 夫知今不知古, 謂之盲瞽 (Luận hành 論衡, Thuyết đoản 說短) nghĩa là : biết nay không biết xưa, thế gọi là mù quáng (kẻ không biết trước biết sau là mù quáng). Xét về mặt cấu tạo và ý nghĩa chữ 盲 có nhiều điểm tương đồng với chữ MANG 忙 nghĩa là vội vàng, tất bật. Chữ này bao gồm bộ tâm đứng 忄và chữ Vong 亡 nên 忙 nghĩa là "chân tâm bị mất", con người ta không thể để tâm được, tâm trí bị mê mờ dẫn đến những hành động vội vã thiếu suy nghĩ. như vậy một người vội vàng rất dễ hành sự mù quáng, cũng rất dễ mê mờ không lí trí, càng dễ đâm ra lỗ mãng. 皿 HÁN VIỆT Mãnh, mẫn NGHĨA VIỆT Cái mâm, bát, đồ đựng, bộ mãnh TỪ GHÉP Bộ thủ tạo chữ hán xuất hiện thường xuyên Chữ MÃNH皿là một chữ tượng hình, Từ Giáp Cốt Văn cho đến Kim Văn Đại Triện, Tiểu Triện đều là hình tượng một dụng cụ dùng để đựng đồ ăn thức uống với phần đế chân rất rộng giúp nó đứng vững. MÃNH làmột dụng cụ dùng để đựng, thường dùng ở trong nhà như: OẢN 碗 là Chén、ĐIỆP 碟 là Dĩa、BÔI 杯 là Ly、BÀN 盤 là Mâm .... Ta phân biệt 2 từ : MẪN KHÍ 皿器 : Chỉ chung Dụng cụ dùng để Đựng. MẪN KIM 皿金 : Chỉ riêng Dụng cụ dùng để Đựng được làm bằng Kim Loại. 毛 HÁN VIỆT Mao, mô NGHĨA VIỆT Lông, râu, tóc, nhẹ, nhỏ TỪ GHÉP hồng mao 鴻毛 • mao bệnh mao bút 毛筆 • mao cốt tủng nhiên 毛骨悚然• mao khổng 毛孔 • mao vũ 毛羽 • mao y 毛衣 • phượng mao 鳳毛 • MAO 毛 thuộc dạng chữ Tượng Hình, từ Kim Văn diễn tiến về sau này đều là hình tượng một sợi lông vũ của loài chim. MAO 毛 là lông là râu là tóc MAO 毛 còn có nghĩa là NHỎ là NHẸ, như : MAO BỆNH 毛病 : là Bệnh Nhẹ, là Tật xấu. MAO VŨ 毛雨 : là Mưa lất phất, là Mưa Phùng. MAO TẶC 毛賊 : là Giặc Cỏ, là Ăn Cướp vặc. HỒNG MAO 紅毛 : là Lông Đỏ, là từ của ông cha ta ngày xưa dùng để gọi người da trắng là Dân Hồng Mao, vì họ có lông tóc màu vàng ửng đỏ nâu. Thành ngữ có liên quan giữa tiếng nói Hoa Việt là: XUY MAO CẦU TÌ 吹毛求疵 : là Thổi lông cho vạt ra để thấy được cái thẹo bên trong. Ta nói là "Bới Lông Tìm Vết." MAO VŨ VỊ PHONG 毛羽未豐 : Mao là Lông Mao, Vũ là Lông Ống, VỊ PHONG là chưa phong phú, chưa đầy đủ. Ta nói là "Chưa đủ Lông, chưa đủ Cánh." MAO 毛 : là Một XU trong đơn vị tiền tệ. Ta lại có thành ngữ : NHẤT MAO BẤT BẠT 一毛不拔 : là Một sơi lông cũng không chịu nhổ, ý muốn nói : Keo kiệt đến nỗi "Một Xu cũng không chịu xuất ra!" Điển nầy xuất từ sách "Mạnh Tử, chương Tận Tâm thượng", như sau: Trong thời Chiến Quốc, trong số Bách Gia Chư Tử có... Dương Tử, tức Dương Chu, chủ trương thuyết "Vị Ngã" là Vì Mình, đã nói rằng: "Nhổ một sợi lông để làm lợi cho thiên hạ, ta cũng không làm!" Còn Mặc Tử, tức Mặc Địch, thì chủ trương thuyết "Kiêm Ái" là Yêu Thương Tất Cả mọi người, thì nói rằng: "Chỉ cần làm lợi cho thiên hạ, thì dù có mài trọc cả đầu, đi sưng cả chân, ta cũng không từ chối!" Trong tác phẩm " SÃI VÃI " của Nguyễn Cư Trinh, ông đã luận về đaọ TU của 2 nhân vật trên như sau : Kìa như Mặc Địch Dương Chu, Tu một việc vị nhơn, vị ngã. Nhổ mảy lông, mà lợi cả thiên hạ, thì Dương Chu tu một sự chẳng vui. Mài hết trán, mà lợi có một người, thì Mặc Địch tu một lòng chẳng nại. 母 HÁN VIỆT Mẫu, Mô NGHĨA VIỆT Mẹ, người đàn bà lớn tuổi,… TỪ GHÉP ân mẫu 恩母 • âu mẫu 歐母 • bá mẫu 伯母 • bảo mẫu 保母. MẪU 母 chính là chữ nữ (女) trước ngực có thêm hai điểm, biểu thị chức năng cho con bú mớm. Cho nên, người mẹ phải là người yêu thương, hiền hậu “từ mẫu”, sưởi ấm và che chở cho con. Sau khi kết hôn, Nữ giới trở thành người vợ, người mẹ càng phải quán xuyến việc gia đình hơn, cũng đảm nhận vai trò là người chăm sóc gia đình, tạo sự hài hòa giữa các mối quan hệ trong gia đình. MẪU 母 là MẸ, là MẪU THÂN 母親, là HIỀN MẪU 賢母, là TỪ MẪU 慈母, là HUYÊN ĐƯỜNG 萱堂 ... MẪU còn dùng để gọi những Nữ Trưởng Bối như : THÚC MẪU 叔母 ( Thiếm ), BÁ MẪU 伯母 ( Bác Gái ), CÔ MẪU 姑母 ( Chị em gái của Ba ), DI MẪU 姨母 ( Chị em gái của Má ) , CỬU MẪU 舅母 ( Mợ : Vợ của Cậu ) ... MẪU còn dùng để chỉ con Cái, con Mái, như : MẪU KÊ 母雞 : là Con Gà Mái, MẪU TRƯ 母豬 : là con Heo Nái... MẪU còn dùng để chỉ những sự vật sự việc gốc, như : MẪU SỐ 母數 ( Số gốc của một Phân số ), MẪU HIỆU 母校 ( là Trường Mẹ, Trường gốc ), MẪU QUỐC 母國 ( Nước Mẹ, là Tổ Quốc ), HÀNG KHÔNG MẪU HẠM 航空母艦 (Chiến Hạm Mẹ có cả sân bay trên đó)... MẪU HỆ 母系 : là Theo cái hệ thống gia phả của dòng họ bên mẹ. Chế Độ Mẫu Hệ là Chế Độ lấy dòng họ Mẹ làm dòng chính. MẪU LÃO HỔ 母老虎 : Ta không gọi là Con Cọp Mẹ, mà gọi là Con Cọp CÁI. Từ dùng để chỉ những người đàn bà hung dữ. MẪU DẠ XOA 母夜叉 : Chỉ những người đàn bà xấu xa dữ dằn, cũng dùng để chỉ những người đàn bà bản lãnh nhưng hung ác. MẪU TẠI NHẤT TỬ HÀN, MẪU KHỨ TAM TỬ ĐƠN 母在一子寒,母去三子單 : là "Mẹ ở, thì chỉ có một đứa con bị lạnh, nhưng mẹ đi rồi, thì ba đứa đều phải chịu cô đơn lạnh lẽo." Đó là lời nói của Mẫn Tử Khiên, một trong "Nhị Thập Tứ Hiếu" mà Cụ Lý Văn Phức đã diễn nôm rất hay là : Mẹ còn chịu một thân đơn, Mẹ đi luống để cơ hàn cả ba! MẪN TỬ KHIÊN là người nước Lỗ thời Xuân Thu (770-476 TCN), là học trò của đức Khổng Tử, rất nổi tiếng vì đức hạnh hơn người. Khổng Tử từng ngợi khen ông rằng: "Mẫn Tử Khiên, thật hiếu thảo lắm!" Tích của ông có ghi trong quyển "ĐỆ TỬ QUY" do Khổng Tử biên soạn. Mẹ Mẫn Tử Khiên chết sớm. Cha ông đi bước nữa và sinh thêm được 2 người con trai. Ông rất kính trọng và chăm sóc cha cùng người mẹ kế, nhưng mẹ kế không thương yêu, còn thường xuyên ngược đãi ông. Mùa đông gía rét, bà ta cho 2 người em trai ông mặc áo bông dày ấm áp, còn ông chỉ được mặc mỗi chiếc áo khoác dồn bằng hoa lau vốn không cách nào giữ ấm được. Một ngày đông nọ, cha Tử Khiên có việc đi ra ngoài, sai ông đẩy xe. Nhưng vì rét run, tay không cầm nổi càng xe, nên để xe bị ngã. Cha ông giận, tưởng ông biếng nhác, trách mắng và lấy roi đánh ông. Lúc ấy chiếc áo khoác bị rách, hoa lau bên trong bay ra, đến khi đó người cha mới biết rằng Tử Khiên đã bị mẹ kế ngược đãi. Cha Tử Khiên quay về nhà, muốn đuổi người mẹ kế đi vì cho là bà ta quá tàn nhẫn. Mẫn Tử Khiên quỳ xuống cầu xin cha tha thứ cho kế mẫu. Ông bật khóc và nói: "Mẹ ở lại thì chỉ mình con chịu lạnh, nhưng nếu mẹ đi rồi, thì cả 3 đứa con đều sẽ phải cô đơn lạnh lẽo cả!". Cha ông vô cùng cảm động và nghe theo lời thỉnh cầu của ông, không đuổi người mẹ kế đi nữa. Người mẹ kế nghe ông nói thế, hết sức hối hận và cảm động. Thế là từ đó về sau bà cũng thương yêu ông như thương yêu con ruột của mình vậy. 貿 HÁN VIỆT Mậu NGHĨA VIỆT Mậu dịch, trao đổi DẠNG KHÁC 贸 TỪ GHÉP mậu dịch 貿易 • tự do mậu dịch 自由貿易. Chữ MẬU貿do hai bộ thủ tạo thành theo kết cấu trên dưới. Phần trên là chữ MÃO 卯với ý nghĩa là một trong 12 địa chi, phần dưới là BỐI 貝 (vỏ sò, tiền tệ). Ngày xưa tính thời gian theo can chi. Đối với các khoảng thời gian trong ngày, giờ mão được tính từ 5 đến 7 giờ sáng. Khoảng thời gian buổi sáng có ý nghĩa rất lớn trong công việc của cả một ngày. Thời gian này trôi đi rất nhanh với những tất bật, toan tính. Vì vậy có thể coi MÃO 卯là yếu tố biểu nghĩa kết hợp với BỐI貝nhấn mạnh ý nghĩa thời cơ trong thương mại. Một khi hàng đã có trong tay phải chuyển thành tiền, đồng thời khi có tiền thì phải chuyển thành hàng, tạo thành vòng luân chuyển liên tục mà thường gọi là quy vòng vốn. Trong cuốn nhĩ nhã thiên thích ngôn viết : “mậu , mãi chi dã” (chữ MẬU và MÃI nghĩa giống nhau). Chữ MÃI dạng phổn thể là ban đầu xuất hiện nhiềutrong Giáp Cốt Văn, chữ MẬU lại xuất hiên nhiều trong những chiếc đỉnh đầu đời Chu. Xét về tình hình sử dụng chữ MẬU trong các tài liệu thời Tiên Tần, Nghĩa của chữ MẬU gần với chữ MÃI. Hiện tượng này phản ánh mối quan hệ về nguồn cội của chữ MẬU với chữ MẠI và chữ MÃI. Sau đời Tiên Tần chữ MẬU dần dần không biểu thị ý nghĩa tương đương với chữ MẠI nữa, nó được dùng để chỉ các hoạt động giao dịch thông thường. Đa số học giả cho rằng, MẬU là một chữ Hình Thanh. Phần trên MÃO dùng để biểu âm đọc lệch từ mão sang mậu. Bộ thủ biểu nghĩa đơn thuần chỉ là BỐI nghĩa là sự chuyển đổi từ hàng hóa sang tiền và ngược lại. Thuyết văn giải thích : “mậu, dịch tài dã, tòng bối, mão thanh” (mậu tức là trao đổi tiền của, bối biểu nghĩa , mão biểu thanh). Nghĩa ban đầu của MẬU là trao đổi khi hàng hóa dồi dào và trở thành hàng hóa. 冖 HÁN VIỆT Mịch NGHĨA VIỆT Trùm lên, đậy TỪ GHÉP Bộ thủ cấu tạo chữ. Xuất hiện khá thường xuyên. Chữ MỊCH冖 là một chữ tượng hình mô tả lại một cái khăn trùm, được phủ lên một vật gì đó ở bên trong. Nghĩa của 冖 là che đậy, phủ lên, nhưng nghĩa như vậy đã được thay thế bằng冪, ngày nay冖được dùng chủ yếu với vai trò là bộ thủ tạo chữ. Cần phân biệt冖 với bộ MIÊN 宀 (mái nhà) khác biệt là nét nhỏ ở phía trên xuất hiên ở bộ MIÊN宀. 寞 HÁN VIỆT Mịch NGHĨA VIỆT Yên lặng, tĩnh,… TỪ GHÉP tịch mịch 寂寞 • tĩnh mịch 靜寞 Chữ MỊCH寞có chữ MIÊN (宀) ở phía trên, bên dưới là chữ MẠC (莫). Chữ MẠC trong triện văn có bốn bụi cỏ ở trên và dưới, chính giữa là Mặt trời, ngụ ý Mặt trời xuống núi, nấp trong bụi cỏ. Vì vậy chữ MỊCH 寞 có ý là buổi tối Mặt trời xuống núi. Xét theo nghĩa rộng hơn là tối tăm, yên lặng,… 米 HÁN VIỆT Mễ NGHĨA VIỆT Gạo DẠNG KHÁC 书 TỪ GHÉP bạch mễ 白米 • bình mễ 平米 • hào mễ 毫米 • hắc mễ 黑米 • túc mễ 粟米 • xích mễ 赤米 Chữ MỄ米là một chữ tượng hình, trong giáp cốt văn chữ 米 mô tả lại một cành lúa nặng trĩu hạt. Chữ MỄ米 ngày nay được viết bằng bộ MỘC(木) thêm hai nét phẩy biểu tượng cho nhiều hạt lúa từ bông lúa. Cần phân biệt bộ MỄvới HÒA(禾 ) và THỬ(黍). Trong khi HÒA禾chỉ ý nghĩa là cây lúa nói chung, THỬ黍 một loại lúa nếp đặc biệt trồng ở vùng nước trũng thì米chính là thành phẩm của chúng, đó là những hạt gạo. MỄ 米 là Hạt Gạo, là hạt lúa đã được bóc sạch vỏ bên ngoài. Tương tự, cái gì nho nhỏ, được bóc sạch vỏ, đều được gọi bằng MỄ, như : ĐẠO MỄ 稻米 : là Hạt Gạo của Lúa. TÚC MỄ 粟米 : là Gạo của Trái Bắp, là Hạt Bắp, Hạt Ngô. HÀ MỄ 蝦米 : là Tôm Khô, tôm tép phơi khô đã bóc sạch vỏ. HOA SANH MỄ 花生米 : là Hạt Đậu Phọng, là Hạt Lạc... Sản phẩm của GẠO, như : MỄ PHẠN 米飯 : là Cơm được nấu bằng gạo. MỄ PHẤN 米粉 : là Bột Gạo, là Hủ Tiếu; 米醋 MỄ THỐ: là Giấm Gạo; MỄ TỬU 米酒: là Rượu Gạo... MỄ còn được dùng để phiên âm tiếng ngoại quốc như : NHẤT MỄ 一米 : là Một thước Tây (Một Metre). MỄ LÃO THỬ 米老鼠 : là con Chuột Mỹ, con Mickey Mouse. Các thành ngữ về chữ MỄ : MỄ CHÂU TÂN QUẾ 米珠薪桂 : Gạo như là hạt trân châu, còn củi thì như cây quế. Ta nói là "Củi Quế Gạo Châu" chỉ vật gía đắc đỏ, sinh hoạt khó khăn. SÀI MỄ DU VIÊM 柴米油鹽 : là Củi, Gạo, Dầu, Muối: 4 thứ không thể thiếu trong nhà bếp cũng như trong cuộc sống hằng ngày. SÀI MỄ PHU THÊ 柴米夫妻 : Vợ Chồng Củi Gạo, chỉ vợ chồng nghèo khó, người kiếm củi người kiếm gạo nương tựa nhau mà sống. Nghĩa như "Vợ Chồng Tấm Mẳng" vậy! MỄ DĨ THÀNH PHẠN 米已成飯: là Gạo Đã Thành Cơm rồi thì... ăn thôi! Chỉ chuyện đã dĩ lở rồi, không thể vãn hồi được nữa! Câu nầy giống như câu "Ván đã đóng... xuồng" vậy. Lời của Vương Viên Ngoại an ủi Kim Trọng khi chàng trở lại Vườn Thúy tìm Kiều: Bây giờ Ván Đã Đóng Thuyền, Đã đành phận bạc khôn đền tình chung! 糸 HÁN VIỆT Mịch NGHĨA VIỆT Sợi tơ, sợi chỉ nhỏ DẠNG KHÁC 糹 TỪ GHÉP Bộ thủ chữ Hán MỊCH 糸 là chữ Tượng Hình, Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn và Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của một cuộn tơ được xoắn lại và thắt chặt hai đầu cho đừng rối, nên MỊCH là những sợi tơ nhỏ. MỊCH 糸 là một BỘ của hệ thống chữ Hán, khi là CHỮ thì thường được viết như thế nầy 糹và được đọc là TI, thông với chữ TI 絲 Phồn thể, cũng có nghĩa là TƠ. Còn một dạng Giản thể nữa được viết như thế nầy 丝 宀 HÁN VIỆT Miên NGHĨA VIỆT Nóc nhà (phần tiếp giáp giữa 2 mái) , lợp nhà TỪ GHÉP Bộ thủ cấu tạo chữ. Xuất hiện rất thường xuyên. Chữ MIÊN宀là một chữ Tượng Hình, mô tả hình ảnh của một ngôi nhà cổ, ngôi nhà như vậy được hình thành bởi hai mái được liên kết với nhau, điểm tiếp giáp hai mai là phần nóc ở phía trên. Ngày nay, 宀 chỉ được sử dụng như một bộ thủ tao chữ hán, chúng xuất hiện rất thường xuyên trong cấu tạo các chữ hán. Cần phân biệt 宀 với MỊCH 冖điểm khác biệt chỉ là một chấm nhỏ phía trên. 綿 HÁN VIỆT Miên NGHĨA VIỆT Bông, mềm mại, lâu dài, nối tiếp,… DẠNG KHÁC 棉 TỪ GHÉP liên miên 連綿• miên man 綿蠻• triền miên 纏綿, Miên lý tàng châm 绵里藏针. Chữ MIÊN là chữ hội ý gồm hai bộ thủ tạo thành. Trong đó có bộ MỊCH糸 (sợi tơ) và chữ BẠCH帛 (lụa) tạo thành, nghĩa là tơ lụa được chế tác từ bông. Chữ MIÊN 棉 (cây bông) cùng âm cũng là chữ hội ý kết cấu trái phải, gồm bộ MỘC木và bộ BẠCH帛 tạo thành. Bông là nguyên liệu dệt quan trong nhất và cũng thường gặp nhất. Nhưng nó vốn là một loại thực vất nhiệt đới. Trước nhà hán, bông đươc đưa từ các nước châu phi, ấn độ đến các vùng biên giới Trung Quốc như đảo Hải Nam, Vân Nam. Cho đến đời tống , nguyên bông mới được mở rộng sang khu vực Trung Nguyên. Trong các nguyên liệu dệt của Trung Quốc, bông ra đời khá muộn. Một sốsách cổ ghi rằng, loại tơ rối được lấy ra từ bề mặt kén tằm, sau khi được xử lý thành dạng bông. Nó có thể may các đồ chống rét chứ không phải nguyên liệu dệt. Hình dáng của hoa cây bông rất giống bông cho nên người ta cũng gọi棉Là miên (bông). Sau đời hán người ta phân biệt nó với bông tơ và tạo thành chữ 棉 MIÊN (bông). 明 HÁN VIỆT Minh NGHĨA VIỆT Sáng, sáng tỏ, hiểu, có trí tuệ, thông minh,… TỪ GHÉP bình minh 平明 • cao minh 高明 • chánh đại quang minh 正大光明. Chữ Minh明 nghĩa là sáng, được hợp bởi bộ Nhật日 là mặt trời và bộ Nguyệt月 là mặt trăng. Nhật và nguyệt hai vầng sáng lớn nhất trên bầu trời theo quan niệm của người xưa, khi hai vầng sáng này hội tụ lại sẽ tạo nên một vàng sáng lớn hơn, cho nên ý nghĩa ban sơ của chữ Minh 明 là sáng , chiếu sáng, sau phát triển thêm nghĩa mở rộng chỉ những người thông minh và hiểu biết. 盟 HÁN VIỆT Minh NGHĨA VIỆT Lời thề, Đồng minh, kết nghĩa anh em. TỪ GHÉP đồng minh 同盟 • liên minh 聯盟, đồng minh quốc同盟國. Chữ MINH盟là một chữ hình thanh kết cấu trên dưới. Trong đó, chữ MINH 明 (sáng) phía trên có tác dụng biểu thị âm đọc, ý nghĩa của chữ nằm ở bộ MÃNH 皿 (cái bát). Chữ MINH 盟 có liên quan đến nghi thức “cắt máu ăn thề “ ngày xưa. Đây là nghi thức để kết tình huynh đệ. Những người đàn ông gồm 2 hay nhiều hơn tuy không có quan hệ anh em máu mủ, họ hàng nhưng có quan hệ mật thiết, thân tình với nhau như những người anh em thật sự bằng những lời tuyên thệ kết nghĩa với nhau. Trong những buổi lễ, sẽ có nghi thức cắt máu ăn thề, vái trời đất hoặc trao các tín vật làm tin. Đặc biệt là nghi lễ cắt máu ăn thề để chứng tỏ một lời thề máu, máu của mỗi người được trộn lẫn vào nhau, có thể rỏ vào rượu để uống. Máu thể hiện trái tim , tấm lòng của con người, khi máu hòa quyện với nhau thì những người bạn tuy hai mà lại một, không đồng sinh nhưng thề đồng tử, sống chết có nhau. Chữ MINH trong thể triện văn còn có thêm hình ảnh con dao đặt trên miệng chén, hìnhảnh này càng làm rõ thêm nhận định trên. Như vậy, MINH 盟nghĩa gốc là nghi thức kết tình huynh đệ bằng việc cắt máu ăn thề. sau này phát triển nghĩa mở rộng chỉ sự kết giao giữa các quốc gia hay các tổ chức như trong từ đồng minh quốc, liên minh. 煤 HÁN VIỆT Môi NGHĨA VIỆT Than đá, than mỏ,…. TỪ GHÉP Môi khoáng 煤礦 , Môi đài 煤炱 (bồ hóng) 煤 - Môi nghĩa là Than đá, Than mỏ,….Chữ煤về mặt cấu tạo là một chữ hình thanh có kết cấu trái phải, được hợp thành từ bộ Hỏa 火 là Lửa hay nhiệt độ (bộ phận chỉ nghĩa chính yếu), phía bên phải là chữ MỖ 某 là một đại từ nhân xưng (thành phần này biểu thị âm đọc). Trải qua một thời gian rất dài, từ đời nọ đến đời kia, dưới sức nóng của lửa và áp lực bởi các tầng lớp xác thực vật chồng chất lên nhau hình thành nên một loại đá màu đen có thể đốt cháy (火)tạo ra nhiệt gọi là 煤 - Than đá. 每 HÁN VIỆT Mỗi NGHĨA VIỆT Mỗi một DẠNG KHÁC 毎 TỪ GHÉP mỗi nhật 每日 • mỗi niên 每年 • mỗi thiên 每天. Chữ MỖI每 về mặt cấu tạo là một chữ Hình Thanh kết cấu trên dưới. Trong đó, bộ NHÂN 𠂉 (người) bên trên đóng vai trò biểu thị ý nghĩa và bộ MẪU 母 (mẹ) có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. Để dễ dàng cho việc ghi nhớ mặt chữ, có thể phân tích chữ MỖI 每 ở dang hội ý, tính chất biểu ý của hai bộ phận cấu tạo nên chữ (NHÂN 𠂉 và MẪU母) là : mỗi người chỉ có duy nhất một người mẹ. 門 HÁN VIỆT Môn NGHĨA VIỆT Cửa, lỗ hổng, môn phái TỪ GHÉP nha môn 衙門,môn hộ 傍人門戶 • chuyên môn 專門 • đồng môn 同門 • gia môn 家門 • hậu môn 後門 • khai môn 開門long môn 龍門 • môn bài 門牌 • MÔN 門là chữ tượng hình. Giáp Cốt Văn, Kim văn và diễn tiến cho đến sau này là hình tượng hai cánh cửa ở hai bên. Bất cứ nơi nào trong nhà hoặc trên tường có mở một lối ra vào đều gọi là MÔN, nên MÔN 門 là Cửa: Hai cánh gọi là MÔN 門, một cánh gọi là HỘ 戶, Nhưng 2 chữ đi liền nhau MÔN HỘ có nghĩa là Một Đại Gia Đình hay Một Môn Phái, Một Tổ Chức nào đó. Đọc tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung ta hay nghe từ THANH LÝ MÔN HỘ 清理門戶: Có nghĩa là Dọn dẹp cho sạch sẽ nhà cửa, Ý là Giải quyết chuyện riêng của Gia đình mình, của Môn Phái Mình mà người ngoài không được có ý kiến hoặc xen vào. MÔN 門 còn có nghĩa là cái Cổng, như SƠN MÔN 山門 là Cổng chính để đi vào chùa chiền miếu mạo. Xưa kia vì muốn tránh nơi chợ búa ồn ào náo nhiệt, các chùa chiền thường được xây cất ở trong rừng núi, nên Cổng Chính vào chùa gọi là Sơn Môn. Sau này mặc dù chùa cất ở nơi đô hội nhưng Cổng vào chùa vẫn gọi là Sơn Môn như thường. Lại có thuyết cho rằng SƠN MÔN 山門 là TAM MÔN 三門 (Âm SƠN shan và âm TAM san của Quan Thoại đọc gần giống nhau). TAM MÔN là Tam giải thoát chi môn là THAM SÂN SI 貪、瞋、痴, Chính điện là Pháp không Niết bàn, nên cửa vào phải là Tam Giải thoát môn. TAM MÔN còn có nghĩa là : Tín Tâm Môn 信心門,Trí Tuệ Môn 智慧門, Từ Bi Môn 慈悲門. TAM cũng có thể chỉ Tín 信、Giải 解、Hành 行. Giới bình dân trong tiếng Việt ta thì gọi Cổng vào Chùa là "Cửa Tam Quan" vì thấy có 3 lối vào: Cửa Chính và hai cửa phụ hai bên. MÔN ĐỆ 門第 : Chữ Đệ 第 có bộ Trúc 竹 trên đầu, có nghĩa là các bậc thang tre, nên MÔN ĐỆ 門第 : là các bậc tam cấp để bước lên thềm nhà, Môn Đệ cũng có nghĩa là Nhà cửa của những người giàu có. MÔN ĐỆ 門弟 : Chữ Đệ 弟 là Em Trai, nên Môn Đệ có nghĩa là: Con em, Đệ Tử ở trong nhà. MÔN ĐỆ tức là MÔN ĐỒ 門徒, là Đệ Tử trong Môn Phái đó! MÔN ĐANG HỘ ĐỐI 門當戶對 : là Nhà cửa đối xứng nhau, ngang bằng nhau, không ai nghèo giàu hơn ai cả. Ta cũng nói thành HỘ ĐỐI MÔN ĐANG. Trong bài thơ "Thắm thoát năm mươi năm" tôi có viết một vế như sau: Ấy thế, tình ta sớm nhạt màu, Người đời miệng tiếng lắm xôn xao. Hộ đối môn đang muôn kiếp vẫn... Là rào ngăn cách kẻ yêu nhau! Nói thêm về chữ ĐANG 當 : ĐANG 當 là Xứng, là Đáng. ĐANG còn được đọc trại thành ĐƯƠNG, như Phái VÕ ĐANG còn được đọc là VÕ ĐƯƠNG, nên ĐANG còn có nghĩa là ĐƯƠNG, như TƯƠNG ĐANG 相當 ta nói là TƯƠNG ĐƯƠNG, phải là...MÔN ĐANG HỘ ĐỐI chớ không phải MÔN ĐĂNG HỘ ĐỐI. 没 HÁN VIỆT Một NGHĨA VIỆT 1. chìm mất 2. lặn (mặt trời) 3. không DẠNG KHÁC 沒 TỪ GHÉP tịch một 籍没 , mai một 埋没, một thế 没世 (hết thời) Chữ 没 nghĩa là chìm mất, không, lặn (mặt trời),… là một chữ hội ý kết cấu trái phải. Phân tích chữ ta thấy bên trái là 3 chấm thủy 氵là Nước, bên phải là bộ Thù 殳 một thứ vũ khí dài một trượng hai thước, có hoặc không có mũi nhọn. Một vật bị nhấn xuống nước bằng một cây gậy dài chứng tỏ nó đã bị chìm sâu lắm rồi không còn nhìn thấy nữa. 目 HÁN VIỆT Mục NGHĨA VIỆT Mắt, danh mục, người đứng đầu TỪ GHÉP chỉ mục 指目 • chú mục 注目 • danh mục 名目• diện mục đầu mục 頭目 • đề mục 題目 • đoạt mục 奪目 • mục tiêu 目標• mục đích 目的. Đây là một trong chữ Tượng Hình tiêu biểu nhất của chữ Hán. Từ Giáp Cốt Văn cho đến Kim Văn Đại Triện đều là hình tượng tiêu biểu của con Mắt. Đến Tiểu Triện thì hình Con Mắt được xoay đứng lên cho giống chữ viết và đến Lệ Thư thì chữ MỤC 目 đã hoàn chỉnh cho đến hiện nay. MỤC 目 là mắt, là "Cửa sổ của Tâm hồn", là điểm thu hút nhất trên khuôn mặt, nên nghĩa phát sinh của MỤC 目 là Cái Điểm Ngắm mà ta nhắm đến, Cái hồng tâm ở trên bia bắn, từ đó ta có từ MỤC ĐÍCH 目的, MỤC TIÊU 目標 ... MỤC còn là Cái Tiêu Đề giúp người ta tìm kiếm cho dễ, như: MỤC LỤC 目錄, DANH MỤC 名目, ĐIỀU MỤC 條目 ... MỤC Còn chỉ người đứng đầu, thủ lĩnh, như ĐẦU MỤC 頭目 Hai người bạn thân, hai vợ chồng... bất hòa, trở nên thù nghịch nhau, ta gọi là "Trở Mặt với nhau", nhưng người Hoa gọi là "Trở Mắt nhau" với từ PHẢN MỤC 反目, và thành ngữ: PHẢN MỤC VÔ TÌNH 反目無情 : là Trở mặt nhau rồi không còn tình nghĩa nữa! 牧 HÁN VIỆT Mục NGHĨA VIỆT Chăn dắt, chăn thả gia súc,… TỪ GHÉP du mục 遊牧 • giám mục 監牧• mục đồng 牧童. Chữ Mục牧 (chăn dắt) được hợp từ 2 bộ thủ là Ngưu牛 và攵 Phộc (ngọn roi, đánh ) , thể hiện sinh động khả năng thuần phục Trâu bò làm vật nuôi. Trâu bò hoang dã thuộc loại thú hung dữ, con người thuần phục nó lúc đầu dựa vào sức mạnh. Ngọn roi thể hiện sự áp đảo của con người, điều chỉnh hành vi của con vật theo ý muốn của con người. 美 HÁN VIỆT Mỹ NGHĨA VIỆT Đẹp, ngon, tươi đẹp, nước mỹ,… DẠNG KHÁC 媄 TỪ GHÉP mĩ quốc 美國, mĩ thuật 美術, nam mĩ 南美,cao lương mĩ vị 膏粱美味, mĩ nghệ 美藝 美 - MỸ nghĩa là đẹp, tốt lành, ngon…美 được kết hợp bởi chữ Dương 羊 phía trên là con Dê hay con Cừu, phía dưới là chữ 大 Đại là to lớn. Theo tập tục từ ngày xa xưa, thường đến ngày phúng vái sẽ chọn ra những con dê to lớn, béo tốt và ngon lành nhất dâng lên thần linh để cầu mong những điều tốt đẹp. Vì vây, 美 sau nay được dùng để tượng trưng cho những gì ngon lành và đẹp đẽ nhất. 疒 HÁN VIỆT Nạch NGHĨA VIỆT Bệnh tật, tựa vào, bộ nạch TỪ GHÉP Một trong 214 bộ thủ, xuất hiện thường xuyên trong cấu tạo chữ hán Chữ NẠCH疒là một chữ hội ý. Trong giáp cốt văn chữ miêu tả một người nằm trên giường bệnh , hai chấm nhỏ biểu trưng cho những giọt mồ hôi toát ra do nóng sốt. Trong cấu tạo chữ 疒 có sự xuất hiện của bộ TƯỜNG 爿 (tấm phản, cái giường; xem lại bài phân tích bộ 爿 ). Khi người ta bị sốt, cơ thể bị suy nhược, không thể tự đứng bằng đôi chân mà phải nằm tựa vào vật gì đó. Vì vậy, chữ 疒có nghĩa ban đầu là tựa vào hay dựa vào, sau đó được dùng để chỉ thêm ý nghĩa là bệnh tật. 耐 HÁN VIỆT Nại, năng NGHĨA VIỆT Chịu đựng, ria mép TỪ GHÉP nại tâm 耐心 • nhẫn nại 忍耐, nại cơ” 耐飢. NẠI耐là một chữ hội ý kết cấu trái phải gồm NHI而 (bộ râu) và THỐN 寸 (tay) hội hợp lại. Tính chất biểu ý của chữ NẠI耐là dùng tay nhổ râu. Chữ NẠI miêu tả lại một trong những hình phạt loại nhẹ thời trung cổ. Râu là biểu trưng cho sự nam tính. Đàn ông không có râu tượng trưng cho việc thua kém, thiếu ý chí và nghị lực. Vì vậy, với những quan lại mắc tội ở mức nhẹ, người ta đã tiến hành xử phạt bằng cách nhổ hết râu đi. Hình phạt đó cũng là một kiểu nhục hình nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Hình phạt tuy diễn ra lâu, tội nhân phải chịu đựng cái đau âm ỉ cả thể xác lẫn tinh thần, nhưng nhìn chung chỉ cần kiên trì là vượt qua được. Vì vậy NẠI耐mang nghĩa phát sinh là chịu đựng được, kiên trì đến cùng. Tiếng hán hiện đại vẫn còn sử dụng những từ như nại tâm 耐心, nhẫn nại 忍耐, nại cơ” 耐飢. 男 HÁN VIỆT Nam NGHĨA VIỆT Con trai, người nam,… DẠNG KHÁC 侽 TỪ GHÉP nam nhi 男兒 • nam sinh 男生 • nam tính 男性 • nam tử 男子•trưởng nam 長男. Xã hội nhân loại do hai loại tính (giống) tạo thành. Nam (男, đàn ông) là chữ Hội Ý, do chữ lực (力) và điền (田) ghép thành. Ý chỉ, người đàn ông phải có khí lực, sức khỏe, siêng năng lao động (làm ruộng). So với phụ nữ, thì đàn ông phải gánh vác những công việc nặng nhọc, to lớn hơn. Đàn ông Con trai, gọi chung là NAM TỬ 男子 để phân biệt với NỮ TỬ 女子 là Đàn bà Con gái. Thành ngữ có liên quan đến chữ NAM thì thật nhiều, ta chỉ điểm qua những câu đặc biệt như : NAM NHI CHI CHÍ 男兒之志 : là Cái chí của con trai; Ý muốn nói : Cái chí nam nhi phải là cái chí lớn, cái Chí Làm Trai phải như trong Ca dao vậy : Làm trai cho đáng nên trai, Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài tan ! hoặc như trong Chinh Phụ Ngâm khúc : Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao ! hoặc hào hùng mạnh mẽ hơn như Nguyễn Công Trứ : Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc, Nợ tang bồng vay trả trả vay, Chí làm trai nam, bắc, đông, tây, Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể ! NAM TÀI NỮ MẠO 男才女貌 : là Con trai thì phải tài giỏi, còn con gái thì phải đẹp. Thời nào cũng thế, con trai thì phải tài giỏi để làm nên sự nghiệp, còn con gái thì phải đẹp mới dễ lấy chồng giàu sang. NAM THANH NỮ TÚ 男清女秀 : là Con Trai thì thanh lịch, còn con Gái thì đẹp đẽ. Ta nói là "Trai Thanh Gái Lịch". NAM ĐẠO NỮ XƯỚNG 男盗女娼 : là Con Trai thì làm Ăn Cướp, còn Con Gái thì làm Điếm. Đây là lời nguyền rủa ác độc của những kẻ ác mồm ác miệng. NAM VÔ TỬU NHƯ KỲ VÔ PHONG 男無酒如旗無風 : là Đàn ông con trai mà không có rượu thì như lá cờ mà không có gió vậy. Không phất lên được chút nào cả! Câu nói nầy thường là cái cớ cho mấy tay bợm nhậu dựa vào đó mà ăn nhậu vô độ vô lượng! NAM ĐẠI BẤT HÔN NHƯ LIỆT Mà VÔ CƯƠNG 男大不婚如烈馬無韁 : Có nghĩa : Con trai lớn mà không lấy vợ thì như con ngựa chứng mà không có dây cương vậy; NÓ sẽ phóng đại, phóng càn, phóng...túng vì không có ai kềm chế cả ! Cưới cho một con vợ để có người... cằn nhằn cưởi nhưởi, kềm chế bớt lại thì mới trụ lại được, mới dễ vững vàng không bị sa ngã, và mới dễ dàng làm nên sự nghiệp, mới dễ dàng thành công. 南 HÁN VIỆT Nam, na NGHĨA VIỆT Phía nam TỪ GHÉP quảng nam 廣南 • sào nam 巢南 • trung nam 中南 • vân nam 云南 • việt nam 越南. Chữ NAM南là một chữ tượng hình mô tả một ngọn đồi với một cái cây cao lớn trên đỉnh của nó, đó là phong cảnh đồi núi và cây cối của miền nam Trung Quốc. Trái ngược với phương bắc lạnh lẽo, miền nam của Trung Quốc là một nơi ấm áp thích hợp cho cây cối phát triển và sinh sôi, cho nên cảnh quan như vậy đã được sử dụng để đại diện cho ý nghĩa là miền nam. 我 HÁN VIỆT Ngã NGHĨA VIỆT Tôi, ta,… TỪ GHÉP vị ngã 爲我 • vô ngã 無我. Chữ NGÃ我 (tôi) có thể coi là một chữ tượng hình, quan sát kỹ ta thấy chữ NGà vẽ lại hình ảnh cánh tay nắm vũ khí chống trên nên đất. Cánh tay đó là biểu trưng của con người trong tư thế sẵn sàng. Tính chất biểu ý của chữ NGÃ我thể hiện bản lĩnh của con người, dám đối mặt với tất cả. Đồng thời cũng thể hiện năng lực của con người, biết tận dụng hoàn cảnh, biết chế tạo vũ khí hỗ trợ cho mình, thể hiện năng lực tự vệ của cá nhân mỗi con người. Mặt khác cũng thể hiện quan điểm cá nhân vỡi các sự vật xung quanh. Trong tiếng hán cổ đại, NGÃ我là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, được sử dụng cùng với các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất khác như NGÔ 吾 , DƯ余 ,… nhưng tuần suất xuất hiện không nhiều bằng. Tuy nhiên, NGÃ我được duy trì đến nay và được sử dụng trong tiếng hán hiện đại, trong khi Ngô và Dư không còn xuất hiện trong tiếng hán hiện đại nữa. 鱷 HÁN VIỆT Ngạc NGHĨA VIỆT Cá sấu, loài cá dữ,… DẠNG KHÁC 鰐 , 鳄 TỪ GHÉP kình ngạc 鯨鱷 Chữ Ngạc 鱷 là con cá sấu, là một Chữ hình thanh được cấu thành từ bộ Ngư 魚 bên trái và chữ Ngạc 噩 bên phải ( chữ này là bộ phận biểu âm) gợi nhớ đến lớp vảy giáp ngoài rất đặc trưng của loài cá sấu. Mặt khác, bộ Ngạc 噩 còn mang nghĩa là sợ hãi, làm cho khiếp sợ nên 鱷 nghĩa là một loài cá khiến người ta khiếp sợ đó là Cá sấu. 藝 HÁN VIỆT Nghệ NGHĨA VIỆT tài năng, tinh xảo DẠNG KHÁC 艺 TỪ GHÉP kỹ lưỡng 技倆 • kỹ năng 技能 • kỹ thuật 技術 • tạp kỹ 雜技. Chữ NGHỆ藝là một chữ hội ý do bốn bộ thủ tạo thành, THẢO艹 (cây cỏ), LỤC陆 (đất), HOÀN丸 (tròn), VÂN云 (mây). Theo học giả Tiêu khởi Hồng, tính chất hội ý của bốn bộ thủ tạo chữ trên là miêu tả một nghệ nhân tài năng vượt trội, thân nhẹ như cánh én, đang diễn trò thể hiện tài năng của mình một cách hoàn mỹ trên nền mây bồng bềnh. Những động tác nhẹ nhàng như trên mấy ấy, được thucự hiện giống như trên nền đất, những người có năng lực bình thường không thể thực hiện được. Đó là sự thể hiện của kỹ năng đã đạt đến mức tinh xảo. Dường Hán lại có cách giải thích khác, Quan sát chữ NGHỆ 藝 dạng ban đầu, bên phải rất giống hình người dùng đôi tay đỡ lấy thân cây đặt trên nền đất, thực hiện việc gieo trồng, bên trái là hình ảnh thân cây được dựng lên trên nềnđất. Chữ NGHỆ 藝 ngoài nghĩa là kỹ nghệ, kỹ xảo ra còn có nghĩa là gieo trồng. Chữ NGHỆ 藝 là sự miêu tả thao tác trồng cây của người xưa. Cách giải thích của Đường Hán sát thực và có tính thuyết phục hơn. Chữ NGHỆ 藝 từ nghĩa là gieo trồng phát triển thành nghĩa là nghề nghiệp tinh thông. Người xưa có câu “sĩ kiêm bách nghệ” (kẻ sỹ phải biết trăm nghề) hay “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh (một nghề tinh thông, cả đời vinh hạnh). Việc trồng cấy diễn ra thường xuyên là công việc thiết thực nhất đối với đời sống nhằm đảm bảo nhu cầu về lương thực của con người. Người ta thực hiện động tác gieo trồng ấy môt cách cẩn thận, dần dần trở thành kỹ xảo, động tác thành thục, nhẹ nhàng. Từ đó, NGHỆ 藝 lại phát triển thành nghĩa là sự tinh xảo trong các từ ghép như kỹ nghệ, nghệ thuật, nghệ nhân,…Tiếng việt mượn chữ nghệ giữ nguyên các nghĩa cơ bản có thêm biến âm nghề trong các từ nghành nghề, nghề thủ công. Chữ NGHỆ 藝 ngày nay giản hóa thành , gồm bộ THẢO biểu nghĩa , chữ ẤT 乙 không liên quan đến nghĩa mà chỉ có tác dụng biểu âm. Chữ NGHỆ giản thể không còn tính chất hội ý nữa mà là chữ cấu tạo theo nguyên tắc hình thanh. 義 HÁN VIỆT Nghĩa NGHĨA VIỆT Lẽ phải, ý nghĩa, nghĩa khí,… DẠNG KHÁC 义 , 羛 TỪ GHÉP ân nghĩa 恩義 ; tín nghĩa 信義 ; tình nghĩa 情義 Chữ NGHĨA義là chữ Hình Thanh, phân tích chữ 義 thấy có hai phần: Phần trên là chữ Dương 羊 là con dê, phần dưới là chữ ngã 我 là ta (chủ yếu chỉ âm đọc) . Dê là một trong ba con vật người xưa thường đem ra tế Thần linh, tế cả Trời đất nữa, như Đàn Nam-giao còn dấu tích, hình ảnh nơi Cung Đình Huế còn đó. Ba con vật đem tế sống như vậy gọi là Tam sanh: Trâu, Dê, Heo. Mỗi một vật này nó phải chịu hy sinh mạng sống thay cho giống loại của nó mà cúng tế, đó là một việc làm có ân nghĩa vậy: tức là tinh thần Hiến dâng. Còn chữ Ngã là ta đặt ở dưới sự hy sinh, tức là tinh thần phụng sự. Thế nên khi hai chữ này đặt lên nhau thành ra chữ NGHĨA 義 là một đức tính cao đẹp, nó gồm đủ tính cách Hiến dâng và Phụng sự. 屰 HÁN VIỆT Nghịch NGHĨA VIỆT Trái ngược DẠNG KHÁC 逆 TỪ GHÉP bạo nghịch 暴逆 • bội nghịch 背逆• nghịch cảnh 逆境 • nghịch tặc 逆賊. Chữ NGHỊCH屰là một chữ Tượng Hình, mô tả một người đàn ông lộn ngược, có ý nghĩa trái ngược hay chống lại, ngày nay chúng ta hiếm khi sử dụng屰, thay vào đó chúng ta sử dụng逆. 逆 là một chữ hình thanh, với bộ辶(đi, bay, hành động) thêm vào với ý nghĩa là hành động trái ngược lại với cái gì đó. 研 HÁN VIỆT Nghiên NGHĨA VIỆT Tìm tòi TỪ GHÉP nghiên cứu 研究. Chữ NGHIÊN研là một chữ hội ý kết cấu trái phải, gồm bộ THẠCH石 (đá) và KHAI开 (mở ra) hợp thành. Tính chất hội ý của chữ NGHIÊN 研là mở viên đá ra để thấy bí ẩn trong lòng nó. Để lĩnh hội ý nghĩa của chữ NGHIÊN 研 xin được trích lại câu chuyện Hòa Thị khóc ngọc. Truyện kể rằng vào thời chiến quốc, có một người nước Sở tên là Hòa Thị. Một hôm vào rừng, Hòa Thị nhặt được một viên đá quý trong núi. Hòa Thị cho rằng ở trong viên đá có một viên ngọc sáng. Ông bền dâng viên đá lên Sở Lệ Vương. Lệ vương cho người kiểm tra viên đá và kết luận rằng, đó chỉ là một viên đá bình thường mà thôi. Lệ vương tức giận, cho người nghiền nát chân trái Hòa Thị. Sau khi Lệ Vương qua đời, Vũ Vương lên ngôi, Hòa thì lại một lần nữa dâng viên đá này cho Vũ vương. Vũ vương cho người xem viên đá, kết quả vẫn không tìm thấy chân giá trị trong viên đá. Hòa Thị lại bị Vũ Vương nghiền nát chân còn lại. Về sau đến khi Văn Vương lên ngôi, Hòa thị đã ôm viên đá quý khóc suốt ba ngày ba đem dưới chân núi Sở, đến nỗi chảy cả máu mắt. Chuyện đến tai VănVương. Văn Vương cho người am hiểu về ngọc quý mở viên đá này ra, quả nhiên trong lớp vỏ ngoài của viên đá là một viên ngọc quý. Người đời sau gọi viên đá ấy là Hòa Thị bích. Từ câu chuyện thú vị ấy cho phép ta lý giải rằng, phàm là việc nghiên cứu, đều phải dày công tìm tòi, đào sâu suy nghĩ, phát hiện mối tương tác giũa các sự vật hiện tượng. Ý nghĩa biểu ý của chữ NGHIÊN ban đầu chính là việc mở viên đá ra. Chỉ có mở viên đá ra mới có thể nhìn thấy bên trong nó là gì. Lệ Vương và Vũ Vương do không hiểu được cái lễ “khai thạch vi nghiên” nên đã xử oan cho người lương thiện, khiến người có công thành kẻ có tội. 午 HÁN VIỆT Ngọ NGHĨA VIỆT Buổi trưa, chi thứ 7 trong 12 địa chi TỪ GHÉP chính ngọ 正午 • hướng ngọ 晌午 • ngọ dạ 午夜 • ngọ môn 午門 • thượng ngọ 上午 • trung ngọ 中午. Chữ NGỌ午là một chữ Tượng Hình, miêu tả một chiếc chày dài để giã gạo, nhưng ý nghĩa như vậy đã được thay thế bằng 杵. Một chiếc chày sẽ đứng thẳng đứng khi nó được sử dụng để đập hạt trong cối, vì vậy午có nghĩa là ở giữa và thường được sử dụng để mô tả thời gian hoặc hướng. Ở Trung Quốc, khoảng thời gian từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều là giờ ngọ, gần trưa gọi là thượng ngọ 上午, quá trưa gọi là hạ ngọ 下午.Mặt khác, sau khi thu hoạch, người ta sẽ tinh luyện hạt bằng chày để làm thức ăn, vì vậy午 được sử dụng là chi thứ 7 trong 12 địa chi sau tị巳 (cầu nguyện ngay sau khi thu hoạch). 卧 HÁN VIỆT Ngọa NGHĨA VIỆT Nằm, nằm ngủ DẠNG KHÁC 臥 TỪ GHÉP ngoạ bệnh 卧病 • ngoạ long 卧龍 • ngoạ tân thưởng đảm 卧薪嘗膽 • ngoạ triều 卧朝 • tuý ngoạ 醉卧 • yển ngoạ 偃卧 NGỌA 臥 thuộc dạng chữ Hội Ý, khi người ta ngủ hay thức sự thay đổi của con mắt là rõ rệt nhất, cho nên chữ NGỌA 臥 dùng chữ THẦN 臣(có gốc là hình còn mắt) và chữ BỐC 卜 (một dạng thể của chữ人 ) hội ý lại để biểu nghĩa. NGỌA 臥 nghĩa gốc là NGỦ rồi mở rộng nghĩa thành NẰM. NGỌA 臥 ( 卧 ) là Nằm. Như NGỌA THẤT 卧室: là Phòng để nằm, tức là Phòng Ngủ đó. NGỌA BỆNH 臥病: là Ngã bệnh, là Bị Bịnh. NGỌA LONG 臥龍: là Rồng Nằm, ý chỉ những người tài giỏi lúc chưa gặp thời, từ nầy dùng để chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng lúc chưa gặp Lưu Bị, gọi là NGỌA LONG TIÊN SINH 臥龍先生. NGỌA TÀM 臥蠶 : là Con Tằm nằm. Từ chuyên môn của khoa Tướng Số, dùng để chỉ phần thịt nằm ở phía dưới 2 con mắt, dài dài giống như là 2 con tằm vậy. (Con Tằm còn được dùng để tả chơn mày như: Mày Tằm Mắt Phụng...). NGỌA HỔ TÀNG LONG 臥虎藏龍: là Cọp Nằm Rồng Ẩn, ta nói là: Rồng nằm Hổ phục, ý chỉ những nơi có nhân tài ẩn náo còn chưa ra mặt, cũng có nghĩa là những nơi ngầm chứa những nguy hiễm mà ta không thể lường trước được. Nói đến chữ NGỌA, cũng không thể không nhắc đến 2 câu thơ cuối trong bài Lương Châu Từ của Vương Hàn đời Đường là : Tuý NGỌA sa trường quân mạc tiếu, 醉臥沙場君莫笑, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ? 古來征戰幾人回? Có nghĩa : Nàng chớ cười ta say nằm ngoài chiến địa, vì... Xưa nay đi chinh chiến, đã có mấy ai được trở về đâu?! 玉 HÁN VIỆT Ngọc NGHĨA VIỆT Đá quý TỪ GHÉP bạch ngọc 白玉• bảo ngọc 寶玉• bích ngọc 璧玉. NGỌC 玉 xuất phát từ đá, là một loại vật phẩm nhỏ, tinh tế được tách ra từ nhiều loại đá. Theo thuyết văn giải tự thì : “Ngọc, thạch chi mĩ giả” (ngọc là loại đá đẹp). Xét về mặt cấu tạo, NGỌC玉là một chữ tượng hình, vẽ lại một chuỗi ngọc, ở giữa của chữ là biểu tượng của một sợi dây, ba nét ngang “三”là biểu tượng của ba miếng ngọc. Trong tiếng Hán, ba là con số ước lệ chỉ số nhiều. Chữ NGỌC biểu thị ý nghĩa là một sợi dây kết nối nhiều miếng ngọc lại với nhau. Như vậy từ hình dạng chữ NGỌC, có thể thấy, NGỌC không sử dụng chất liệu đá nguyên thủy để làm yếu tố biểu ý, mà là đồ trang sức đã được gia công, chế tác thành. Câu nói “Ngọc bất trác bất thành khí” (ngọc mà không được mài dũa thì không thành đồ trang sức được) chính là sự xuất phát từ ý nghĩa đó. Chữ NGỌC 玉sau này khi viết thì kí hiệu biểu thị sợi dây ở hai đầu đã không còn nữa mà viết thành 王 giống chữ VƯƠNG王 . Do vậy, từ sau triều Hán lại xuất hiện chữ NGỌC với nét chấm chanh để phân biệt với chữ VƯƠNG như bây giờ. Mặc dù có sự thay đổi để tránh sự nhầm lẫn, nhưng khi chữ NGỌCkhi làm bộ thủ cấu tạo chữ, nếu nằm bên trái, thì nét chấm sẽ bị lược bỏ. Điều này làm cho không ít người lầm tưởng bộ NGỌCvới bộ VƯƠNG. Sự nhầm lẫn khiến cho việc lý giải ý nghĩa chữ gặp trở ngại, đồng thời việc ghi nhớ chữ hán cũng sẽ thêm phần khó khăn. NGỌC chỉ chung các loại đá quý, cẩm thạch ... Từ kép để gọi Đá Quý là NGỌC THẠCH 玉石. Khi đã được chế biến thành đồ trang sức hay đồ dùng thì gọi là NGỌC KHÍ 玉器. Dùng để khắc ấn cho các bậc vương giả sử dụng thì gọi là NGỌC TỈ 玉璽. NGỌC 玉 còn dùng để chỉ những lời nói hay ho, tốt đẹp, ta nói là Lời Vàng Ý Ngọc do ý của 4 chữ : KIM NGÔN NGỌC NGỮ 金言玉語 hay KIM NGỌC LƯƠNG NGÔN 金玉良言 : Ta nói là Những lời Vàng Ngọc tốt lành. NGỌC 玉 còn dùng để chỉ Người Đep : NGỌC NHÂN 玉人, ta gọi là Người Ngọc. Các bé gái xinh đẹp thì được gọi là NGỌC NỮ 玉女, nên một đôi trai gái xinh đẹp thì gọi là KIM ĐỒNG NGỌC NỮ 金童玉女. Tất cả những thứ gì của NGƯỜI NGỌC đều được thêm chữ NGỌC vào cả, như : NGỌC DUNG 玉容 : là Dung Nhan đẹp như Ngọc : Vẻ Ngọc. NGỌC DIỆN 玉面 : là Mặt mày đẹp như Ngọc : Mặt Ngọc. NGỌC TƯ 玉姿 : là Tư thế xinh như Ngọc : Dáng Ngọc. NGỌC THỂ 玉體 : là Thân thể đẹp như Ngọc : Mình Ngọc. NGỌC CHIẾU 玉照 : là Tấm ảnh xinh như Ngọc : Hình Ngọc. NGỌC NGỮ 玉語 : là Lời nói trong như Ngọc : Lời Ngọc. NGỌC ÂM 玉音 : là Hồi âm của Người Ngọc : Ngọc Thư. NGỌC CHỈ 玉趾 : là Dấu chân Người Ngọc : Ta gọi là Gót Ngọc. NGỌC NHAN 玉顏 : là Nhan sắc đẹp như ngọc. Nàng cung nữ của Vương Xương Linh đã than rằng: NGỌC NHAN bất cập hàn nha sắc, 玉顏不及寒鴉色, Do đái Chiêu Dương nhật ảnh lai. 猶帶昭陽日影來。 Có nghĩa : VẺ NGỌC không bằng con qụa lạnh, Cón mang ánh nắng điện Chiêu Dương! Ta cũng có câu : Thư trung hữu nữ NHAN như NGỌC, 書中有女顏如玉, Thư trung tự hữu hoàng kim ốc. 書中自有黃金屋。 Có nghĩa : Trong sách có thiếu nữ nhan sắc đẹp như NGỌC. Trong sách cũng có sẵn nhà vàng ở trong đó. Ý là : Nếu chịu khó chí thú đọc sách học hành thì khi đỗ đạt, tự khắc sẽ có nhiều gái đẹp để chọn lựa mà cưới làm vợ. Và khi vinh hiển thì cũng tự khắc sẽ có nhà cao cửa rộng sơn son thếp vàng mà ở. Ngày xưa là thế, mà ngày nay cũng thế thôi! 言 HÁN VIỆT Ngôn, ngân NGHĨA VIỆT Nói, lời nói TỪ GHÉP ác ngôn 惡言 • bỉ ngôn 鄙言 • biện ngôn 弁言 • cách ngôn 格言 • châm ngôn 箴言 • châm ngôn 針言 • chân ngôn 真言. Chữ NGÔN 言miêu tả lại một cái lưỡi được thò ra từ miệng cùng với đó là ngôn từ đi kèm theo. Cũng giống như chữ THIỆT舌 (cái lưỡi) nét phảy phía trên nhấn mạnh đây là ngôn từ được phát ra. Một chữ khác cùng dùng để chỉ về lời nói là chữ ÂM音. Cả言và 音 đều có chung nguồn gốc và cả hai đều có ý nghĩa tương tự nhau. NGÔN là NÓI, khi là Danh từ thì có nghĩa là LỜI NÓI. Như PHÁT NGÔN 發言, NGÔN LUẬN 言論, NGÔN TỪ 言辭, NGÔN NGỮ 言語... Thành ngữ về NGÔN 言 thì nhiều vô kể ta thường gặp các thành ngữ sau đây: NGÔN HÀNH NHẤT TRÍ 言行一致: là Lời nói và việc làm y chang nhau, nghĩa là Nói sao thì làm vậy. NGÔN HÀNH BẤT NHẤT 言行不一 : là Lời nói và việc làm "trớt quớt" không giống nhau, nghĩa là Nói một đàng làm một nẻo! NGÔN ĐA NGỮ THẤT 言多語失: là Nói nhiều thì dễ lỡ lời, dễ thất thố và dễ làm mất lòng người khác. Nên ông bà ta thường dạy con cháu: "Nói là bạc, im lặng là... kim cương!" Ý TẠI NGÔN NGOẠI 意在言外 hoặc NGÔN NGOẠI CHI Ý 言外之意: là Cái ngụ ý , cái hàm ý hoặc cái ẩn ý ở bên ngoài lời nói, cũng có thể hiểu là Những lời nói bóng gió để gợi lên một ý nào đó. NHẤT NGÔN TƯƠNG THỨC 一言相識 : là Chỉ cần một lời thôi cũng đã hiểu biết lẫn nhau rồi, như Từ Hải đã từng nói với Thúy Kiều : Một lời đã biết đến ta, Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau! TRUNG NGÔN NGHỊCH NHĨ 忠言逆耳: là Lời nói trung thực nghe nghịch lổ tai. Ta nói là "Lời thật mất lòng", những lời nói thật tình nghe không êm tai chút nào cả! Tăng Quảng Hiền Văn có câu: TRUNG NGÔN NGHỊCH NHĨ lợi ư hành, 忠言逆耳利於行, Lương dược khổ khẩu lợi ư bệnh. 良藥苦口利於病。 Có nghĩa : Lời thật mất lòng nhưng có lợi lúc thực hành, Thuốc đắng giã tật có lợi cho bệnh hoạn. PHONG NGÔN PHONG NGỮ 風言風語 : là Những lời nói bóng nói gió, những lời nói mát mẻ ai đó hoặc việc gì đó. NHẤT NGÔN NAN TẬN 一言難盡 : là Chỉ một lời nói khó mà gỉải bày hết những gì khúc mắc ở trong lòng, hoặc khó mà kể lể hết một câu chuyện dài lâm ly thống thiết. THIÊN NGÔN VẠN NGỮ 千言萬語 : là Một ngàn lời nói, một vạn lời nói. Ý chỉ có Ngàn lời vạn lẽ muốn bày tỏ cùng nhau. KIM NGỌC LƯƠNG NGÔN 金玉良言 : là Lời vàng ý ngọc, dùng chỉ những lời nói hay hoặc những lời khuyên qúy báu, như khi Kim Trọng nghe Thúy Kiều đàn xong thì có nhận xét là: "Lựa chi những khúc tiêu tao, Thiệt lòng mình cũng nao nao lòng người!?" Cô Kiều đã đáp rất lịch sự là: "LỜI VÀNG vâng lĩnh Ý CAO, Họa dần dần bớt chút nào được không!" KIM THẠCH CHI NGÔN 金石之言: là Lời nói vững như vàng chắc như đá. Ý chỉ nói ra rồi thì chắc chắn không hề thay đổi như khi cô Kiều nhận lời hẹn ước của Kim Trọng: "Đã lòng quân tử đa mang, Một lời vâng tạc ĐÁ VÀNG thủy chung!" 五 HÁN VIỆT Ngũ NGHĨA VIỆT Số 5 TỪ GHÉP ngũ cốc 五穀 • ngũ đế 五帝 • ngũ hành 五行 • ngũ luân 五倫ngũ sắc 五色 • ngũ tạng 五臓 • Chữ NGŨ五là một chữ chỉ sự, trong các thể chữ cổ chữ NGŨ五là hai đường gạch ngang ở trên và ở dưới tượng trưng cho trời đất, hai đường gạch ngang này được kết nối bằng hai đường chéo, điểm giao nhau chính là điểm ở giữa lưng chừng trời đất. Trong hệ số đếm, Chữ THẬP là số lớn nhất (là gạch ngang ở trên) NHẤT là số bé nhất (gạch ngang dưới). Như vậy điểm giao nhau ở giữa biểu thị cho số năm tức là NGŨ五. Cũng có thể hiểu chữ ngũ theo cách khác. Con người có năm ngón tay trong một bàn tay, năm là số lớn nhất có thể được đếm bằng một bàn tay con người, do đó năm dấu chấm (điểm giao nhau) đại diện cho năm ngón tay, được kết nối bằng các đường. Ngoài ra, hình ảnh như vậy được sử dụng để đại diện cho chữ五, là để tránh bị nhầm lẫn với十, 乂và囟. 元 HÁN VIỆT nguyên NGHĨA VIỆT Bắt đầu, đầu TỪ GHÉP công nguyên 公元 • kỉ nguyên 紀元• nguyên đán 元旦. Chữ NGUYÊN元trong thể giáp cốt, kim và triện văn là hình một người đang đứng với một gạch ngang lớn biểu thị cái đầu của người đó, phía trên có có một gạch ngang khác ngắn hơn. Nét ngang được thêm vào có tác dụng nhấn mạnh đây là phần đầu của con người, haynghĩa bắt đầu từ đây, từ chỗ này. Chiều cao của con người được đo từ đỉnh đầu cho đến mặt đất. Theo lẽ thường, mọi sự trên đời đều có đầu và có cuối, chữ NGUYÊN từ nghĩa chỉ cái đầu, mở rộng nghĩa chỉ sự bắt đầu, đầu tiên, thứ nhất… như trong các từ CÔNG NGUYÊN, NGUYÊN THỦY, NGUYÊN ĐÁN,… 魚 HÁN VIỆT Ngư NGHĨA VIỆT Con cá TỪ GHÉP bảo ngư 鮑魚kình ngư 鯨魚 • ngư lôi 魚雷 • trầm ngư 沈魚 • NGƯ 魚 là chữ Tượng Hình, trong Giáp Cốt Văn và Kim Văn là hình tượng của con cá được vẽ lại khá chi tiết, đủ cả đầu, mắt, mình, kì, vi, đuôi... Nên, NGƯ 魚 chỉ chung các loài cá, là một trong những thức ăn chính thức để nuôi sống con người từ ngàn xưa đến nay. Ta có thành ngữ : NGƯ MỄ CHI HƯƠNG 魚米之鄉 : là "Quê hương của gạo và cá." Hai thứ thực phẩm chủ yếu để nuôi sống con người. Hồi xưa, người Hoa di cư sang Việt Nam ở nhiều vì Trung Hoa trong thời kháng chiến chống Nhật thường bị nạn đói dày vò, người bị chết đói rất nhiều (đọc truyện ngắn "ĂN CƠM CHƯA" của Bình Nguyên Lộc thì sẽ rõ) nên khi di cư sang Miền Nam Việt Nam với đồng lúa bạt ngàn, với tôm cá đầy rẫy cả sông rạch, khí hậu lại nóng bức, suốt năm chỉ vận có cái quần "xà-lỏn" cũng sống qua ngày được. Dân không bao giờ sợ đói ăn thiếu mặc, nên họ gọi Miền Nam là NGƯ MỄ CHI ĐỊA 魚米之地, là "Mảnh đất của gạo và cá." NGƯ TIỀU CANH ĐỘC 漁樵耕讀: là 4 nghề mà ngày xưa khi về hưu ông cha ta thường chọn một để an thân hưởng nhàn, không tranh đua với đời nữa. Còn 4 ngành nghề phổ biến trong dân gian gọi là Tứ Dân, gồm có SĨ NÔNG CÔNG THƯƠNG 士農工商. TRÌ NGƯ LUNG ĐIỂU 池魚籠鳥 : là Cá trong ao, chim trong lồng. Ta nói là "Cá Chậu Chim Lồng." Tù túng vì không gian hoạt động chỉ có bấy nhiêu thôi. TRÌ NGƯ ĐẮC THỦY 池魚得水 : là Cá trong ao tù gặp được nước, chỉ đang lúc tù túng cấp bách mà được chu cấp giúp đỡ. Ta nói là Như Cá Gặp Nước, còn dân Miền Nam thường nói là "Như buồn ngủ gặp chiếu manh" vậy! Khi đón Kiều về dinh, Từ Hải đã hỏi nàng: Cười rằng cá nước duyên ưa, Nhớ lời nói những bao giờ hay không ? TRÌ NGƯ CHI ƯƠNG 池魚之殃 : là Cái Tai họa của cá ở trong ao. Thành ngữ nầy do câu tục ngữ trong Tăng Quảng Hiền Văn mà ra: Thành môn thất hỏa, 城門失火, Ương cập trì ngư. 殃及池魚。 Có nghĩa : Cửa thành bị hỏa hoạn, người ta cần lấy nước dưới ao để cứu chửa, nên nước dưới ao bị cạn, làm cho... Mấy con cá ở dưới ao cũng bị họa lây! Chuyện của người khác, nhưng có ảnh hưởng tới mình. Ta nói là "Bị văng miểng" như : Chủ phá sản, sập tiệm, thì làm cho nhân viên phải bị thất nghiệp theo. NGƯ MỤC HỔN CHÂU 魚目混珠: là Tròng mắt của cá lộn vào với những hạt trân châu. Ý nói lấy đồ giả bỏ lộn xộn vào với đồ thật để gạt người khác, mà cụ Nguyễ Du nói là: Mập mờ đánh lận con đen, và ... Mạt cưa mướp đắng hai bên một phường! Mắt cá bỏ lộn vào các hạt chuổi cũng giống như trộn mạt cưa vào cám, trộn mướp đắng vào với mướp thường để gạt người khác vậy! Có tất cả 313 chữ được ghép bởi bộ NGƯ 魚 nầy, tiêu biểu có: SA NGƯ 鯊魚 : là Cá Nhám, Cá Mập.   BÀO NGƯ 鮑魚 : là một loại ốc biển trong chi Haliotis, còn có tên là Ốc Cửu Khổng (Ốc có 9 cái lổ), vì từ mép vỏ gần miệng có khoảng 7-9 gờ, xoắn tạo thành các lổ (lý do tên gọi ốc cửu khổng) để thở với sự thoát nước từ mang, là một trong những thứ sơn hào HẢI VỊ đắt tiền. VƯU NGƯ 魷魚 : là Con Mực, tên gọi chung các loại Cá Mực. LÔ NGƯ 鱸魚 : Còn đọc là LƯ NGƯ : Cá lư. Cổ nhân gọi là Ngân Lư 銀鱸 hay Ngọc Hoa Lư 玉花鱸 , xuất sản ở Tùng Giang gọi là Tứ Tai Lư 四鰓鱸 (cá có 4 cái mang) là một giống cá rất ngon. TỨC NGƯ 鯽魚 : là Cá Diếc, còn đọc là Cá GIẾC, một loại cá vảy trắng mình dẹp, đuôi màu đỏ thì gọi là cá He, đuôi màu trắng thì gọi là cá Mè Vinh, nên TỨC NGƯ là một loại cá rất thông thường trong cuộc sống hàng ngày. 語 HÁN VIỆT Ngữ NGHĨA VIỆT Ngôn ngữ, lời lẽ, nói TỪ GHÉP ngoại ngữ 外語 • ngôn ngữ 言語 • ngữ pháp 語法. Chữ NGỮ語 (ngôn ngữ) là một chữ hình thanh có kết cấu trái phải, bao gồm bên trái là bộ NGÔN言(lời nói) có tác dụng biểu thị ý nghĩa chữ, bên phải là NGÔ吾 (ta, tôi) có tác dụng biểu thị âm đọc. Chữ NGỮ語với NGÔN 言biểu thị các ý nghĩa liên quan đến lời nói kết hợp với âm đọc của NGÔ 吾 tạo thành chữ với nghĩa là lời lẽ, ngôn ngữ như NGỮ VĂN 語文 : Ngôn ngữ và Văn học. Khoa NGỮ VĂN là Khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ và văn học văn minh văn hóa. Ta cũng có từ NGỮ PHÁP 語法 : là Khoa học nghiên cứu về các mẹo luật và tập quán ngôn ngữ để nói và viết đúng với các mẹo luật và tập quán của ngôn ngữ đó. 牙 HÁN VIỆT Nha NGHĨA VIỆT răng TỪ GHÉP long nha 龍牙 • môn nha 門牙• nha khoa 牙科• nha sĩ 牙士. Chữ NHA牙là một chữ tượng hình vẽ lại hình ảnh hai chiếc răng đang siết vào nhau. Chữ NHA 牙 ở dạng kim văn là hình của 2 chiếc răng, một của hàm bên trên một của hàm bên dưới đang ôm ngạp vào nhau, hai chiếc răng không ở vị trí đối xứng mà hơi lệch so với nhau biểu thị cho trạng thái của răng khi thực hiện động tác nhai thức ăn. Để có thể nghiền nhỏ được thức ăn, ngoài việc siết vào nhau phải có thêm động tác di chuyển qua lại giữa hai hàm răng giống như hoạt động của một cây kéo khi cắt đồ vật. Cũng để chỉ răng, ta có thêm chữ XỈ齒 , so với NHA 牙 thì chữ XỈ 齒 có cấu tạo phức tạp hơn, mức độ sử dụng vì thế cũng ít hơn. NHA牙 là RĂNG, nếu răng mọc dài ra khỏi miệng thì gọi là NANH, là NGÀ, như Ngà Voi gọi là TƯỢNG NHA 象牙, nhưng Dà TRƯ NHA 野豬牙 thì lại là Nanh Heo Rừng. NHA TRẢO: Người Hoa gọi là TRẢO NHA 爪牙 : TRẢO 爪 là Móng mọc dài ra cứng và nhọn, ta gọi là VUỐT, nên NHA TRẢO là Nanh Vuốt, nghĩa bóng là Những tên tay sai côn đồ hung dữ chuyên giúp người ác để bạo hành người khác. Đọc truyện Tàu hay thấy các tướng sử dụng cây LANG NHA BỔNG 狼牙棒 làm vũ khí. LANG NHA là Răng con chó sói, nên LANG NHA BỔNG là một loại vũ khí thân to lởm chởm những gai nhọn như răng con chó sói. Các thành ngữ có liên quan đến chữ NHA như : DĨ NHA HOÀN NHA 以牙還牙 : là Lấy Răng Trả Răng. Ta nói là Ăn Miếng Trả Miếng, là Trả Đủa, là Lấy gậy Ông đập lưng Ông. LINH NHA LỢI XỈ 伶牙俐齒 : là Nanh LANH Răng LỢI, là Vô cùng Lanh Lợi. Ta nói là Mồm năm Miệng mười. HỔ KHẨU BẠT NHA 虎口拔牙 : là Nhổ Răng trong Miệng Cọp. Ta bảo là Dám Vuốt Râu Hùm, giới bình dân thì nói là : Dám Xỉa Răng Cọp !. 閒 HÁN VIỆT Nhàn, gian NGHĨA VIỆT Nhàn hạ, yên ổn DẠNG KHÁC 闲 TỪ GHÉP an nhàn 安閒 • nhàn bộ 閒步. Chữ “Nhàn” chính thể 閒 gồm chữ “Môn” (門 – cánh cửa) và chữ “Nguyệt” (月- vầng trăng). Khi con người nhàn rỗi thì có thể ngắm trăng, nghĩ tới cung Quảng Hàm thuần khiết, tươi đẹp và truyền thuyết về chị Hằng bay lên cung trăng, Ngô Cương chặt quế, thỏ Ngọc giã thuốc. Con người đắm mình ngắm nhìn bầu trời và vũ trụ mênh mang, ngẫm nghĩ về kiếp người, suy ngẫm về mối quan hệ giữa Trời Đất và con người. Từ đó con người sẽ có những lĩnh ngộ mới, tấm lòng rộng mở hơn và sức khỏe tốt hơn. 60 năm sau, chữ “Nhàn” giản thể 闲 gồm chữ “Môn” (門;门) và chữ “Mộc” (木). Con người giống như một khúc gỗ cài trên nóc cửa. Đa số mọi người không thể chịu nổi cảnh nhàn nhã, đặc biệt là tư tưởng của con người. Nếu khi nhàn nhã không tựa cửa ngắm trăng, thưởng thức và kết nối với mẹ tự nhiên luôn dưỡng dục con người thì họ sẽ nghĩ tới những chuyện khác, thậm chí lànhững chuyện bất hảo. Người như vậy ắt sẽ nông nổi, không có phép tắc, không có quy củ, lời nói và hành vi cũng khó làm được hợp tình hợp lý. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới những hiện tượng hỗn loạn ngày nay. 眼 HÁN VIỆT Nhãn, nhẫn NGHĨA VIỆT Con mắt, cái hố, lỗ, chỗ trọng yếu,.. TỪ GHÉP huệ nhãn 慧眼 • khai nhãn 開眼 • long nhãn 龍眼 •nhãn quang 眼光. Tại sao cũng là con mắt mà khi gọi Mục 目 khi gọi Nhãn 眼 ? Mục目là con mắt nhìn ra, cốt để thấy vật bên ngoài, khoa-học gọi đó là cơ quan thị giác. Mắt phải có hai mới thấy rõ sự vật. Gọi là lưỡng mục Nhãn 眼 là mắt nhìn vào trong. Thường nói là con mắt thứ ba. Trước hết chữ Nhãn kết hợp bởi Mục 目 và Cấn 艮 là núi. Hình ảnh của Mắt khi nhìn ra bị núi chắn lại nên phải nhìn vào bên trong, tức là sự sáng bằng tâm linh còn gọi là con mắt thấu thị. 人 HÁN VIỆT Nhân, Nhơn NGHĨA VIỆT Người, con người, tính tình, người khác,… TỪ GHÉP ác nhân 惡人 • ái nhân 愛人 • ái nhân 爱人 • an nhân 安人 • ảo nhân 幻人. Chữ NHÂN 人 là chữ tượng hình, chỉ con người. Nó có một đặc trưng rất lớn, chính là hơi ngả về trước thân, mang hình dáng của một người hơi ngả về trước chứ không phải đứng thẳng lưng. Cổ nhân khi chắp tay hành lễ chính là có tư thế ngả người về phía trước, hai tay chắp lại đặt trước ngực. Tư thế này trực tiếp thể hiện ra một loại thái độ khiêm tốn, nhún nhường. Cho nên, con người phải luôn mang trong mình đức tính khiêm tốn, đây cũng chính là chỉ dụ của Thần đối với con người. Theo truyền thuyết, con người là do Thần dựa vào hình dạng của bản thân mình mà tạo ra, cho nên, con người trước tiên phải khiêm tốn trước tạo hóa, trước Thần linh. Điều này thực sự rất có đạo lý. Những từ có âm Hán Việt gần giống với chữ “人” (nhân) là “仁” (nhân từ), “忍” (nhẫn), “韧” (nhận), “任” (nhậm). Đây đều có thể coi là yêu cầu, quy phạm đạo đức làm người. Theo giải thích của Khổng Tử, cái gọi là “仁” (nhân) chính là yêu thương con người. Lòng nhân ái chính là căn bản của đạo làm người. Chữ “忍” (nhẫn) chính là chỉ ý khoan dung, độ lượng, nhẫn nhịn, có khí phách của người quân tử. Chữ “韧” (nhận) chính là có ý nói con người cần có ý chí kiên cường, trải qua phong ba, bão táp vẫn không thay đổi, chí vững như bàn thạch. Chữ Nhậm (任) khuyên con người làm người phải có trách nhiệm với cuộc sống của bản thân, gia đình và xã hội. 仁 HÁN VIỆT Nhân, nhơn NGHĨA VIỆT Lòng thương người, nhân trong hat,… TỪ GHÉP bất nhân 不仁 • chí nhân 至仁• hạnh nhân 杏仁 • khoan nhân 寬仁 • nhân ái 仁愛. Chữ NHÂN 亻(người) và NHÂN仁 (mối quan hệ người với người) hai chữ hán cùng âm đọc, lại có mối quan hệ mật thiết với nhau về nghĩa. Chữ NHÂN 仁, xét về mặt cấu tạo, đây là một chữ hội ý, kết cấu trái phải, trong đó NHÂN 亻là người, NHỊ二 là hai, là nhiều. Chữ NHÂN 仁 thể hiện tính chất biểu ý là người với người sống với nhau trong cộng đồng, để có thể tồn tại thì phải yêu thương, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau. Nhiều người quần tụ trong cộng đồng với nhiều mối quan hệ đan xen, ai biết hài hòa tất cả các mối quan hệ ấy là người có NHÂN. Với tính chất hội ý, chữ NHÂN 仁 đã thể hiện một cách ngắn gọn về bản chất của nó là quan hệ giữa người với người trong xã hội. Khổng tử là người sáng lập ra đạo Nho và Mạnh Tử - Nhân vật ra đời sau không tử tới 200 năm nhưngđã thừa kế và phát huy tư tưởng NHÂN 仁 của Khổng Tử. Nguyên tắc cũng là ước vọng sống của Khổng Tử “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân” (cái gì bản thân mình không muốn thì không nên đẩy cho người khác, cái gì mình mong muốn đạt được thì hãy tạo điều kiện cho người khác đạt được) đã được Mạnh Tử thấm nhuần. Trong đời sống xã hội, người già và trẻ nhỏ là hai đối tượng được ưu ái nhất. Mạnh Tử nói : “lão ngô lão dĩ cập nhân chi lão, ấu nhân ấu dĩ cập nhân chi ấu” (từ kính yêu ông bà, cha mẹ mình sang kính yêu ông bà, cha mẹ người khác, từ ưu ái con cháu mình đến ưu ái con cháu người khác). Đó là lòng bác ái vi tha, từ gia đình đến xã hội, làm cho cả xã hội sống trong tình thương ,yêu , đùm bọc lẫn nhau. Ngày nay lễ giáo phong kiến đã trở thành hủ tục lạc hậu, cản trở bước tiến của xã hội, hạn chế quyền tự do của con người. Tuy nhiên, những nét đẹp truyền thống trong quan hệ xã hội, ngàn đời vẫn được nâng niu trân trọng, kế thừa và phát huy. “có gì đẹp trên đời hơn thế, người với người sống để yêu nhau”. 因 HÁN VIỆT Nhân NGHĨA VIỆT nguyên nhân, nhân tiện, tuỳ theo, phép toán nhân,… TỪ GHÉP nguyên nhân 原因• nhân do 因由• nhân duyên 因緣. Năm 1747 năm Đinh Mão thời vua Càn Long, sau kỳ thi Hương ở Phúc Kiến, thí sinh Tạ Đình Quang nghe nói ở Hồng Sơn Kiều có một vị giỏi về đoán chữ nên đã rủ một số người bạn của mình cùng đi thăm hỏi. Tạ Đình Quang viết chữ Nhân “因” (Hán Việt: Nhân, có nghĩa là nguyên nhân) rồi hỏi xem kỳ thi Hương này có đỗ không. Vị thầy đoán chữ nói: “Trong bờ cõi này có một người, chúc mừng thư sinh là người đỗ đầu bảng trong khoa thi năm nay!” (Giải nghĩa: Chữ “因” có thể hiểu là gồm chữ “囗” (Vi, nghĩa là bờ cõi) và chữ “一” (Nhất, nghĩa là một) và chữ “人” (Nhân, nghĩa là người)). Một người bạn của Tạ Đình Quang nói: “Tôi cũng muốn dùng chữ Nhân “因” này, thỉnh mời ngài xem cho tôi một chút!”Vị thầy đoán chữ nói: “Kỳ thi này e rằng không có phần của thư sinh rồi! Nhưng sau này sẽ được ân huệ của bạn học mà có hy vọng được thăng quan tiến chức nhanh chóng!”. Ông giải thích: “Chữ Nhân “因” mà vị thư sinh lúc nãy viết là vô tâm, vô ý mà viết ra. Còn chữ Nhân “因” của thư sinh thì là “cố ý” là “có tâm”(“心”) mà viết ra nên sẽ thành chữ Ân “恩” (ân, ân huệ)”. Một thư sinh đi cùng liền chỉ chiếc quạt gỗ trong tay vào chữ Nhân “因” ấy và nói: “Tôi cũng dùng chữ Nhân “因” này, thỉnh ngài xem xem công danh của tôi sẽ thế nào?”. Thầy đoán chữ nhíu mày và nói: “Chiếc quạt gỗ của ngài vừa vặn chỉ đúng vào chữ Nhân “因” này thì là thành chữ Khốn “困” (Nghĩa: Khốn khổ, khốn đốn), nên e rằng cả đời này ngài sẽ mãi là thư sinh nghèo thôi!”. Về sau, vận mệnh của cả ba người bạn học này đều chuẩn xác y như lời tiên đoán của vị thầy này. 忍 HÁN VIỆT Nhẫn NGHĨA VIỆT chịu đựng, nhẫn nhịn, nỡ dành,… TỪ GHÉP kiên nhẫn 堅忍 • nhẫn khí 忍氣 • nhẫn nại 忍耐 • nhẫn nhục 忍辱 • nhẫn tâm 忍心. Tiếng Hán là một loại văn tự rất đặc biệt, vì nó ẩn chứa những triết lý uyên thâm về nhân sinh đằng sau mỗi ký tự tượng hình. Chữ “Nhẫn” là một ví dụ trong số đó. Chữ Nhẫn (忍) có nghĩa là chịu đựng, nhẫn nhịn, vị tha. Nó còn hàm chứa ý nghĩa của sự tự kiềm chế và tự chủ. Đây cũng là một đức hạnh của rất nhiều vị anh hùng vĩ đại trong lịch sử. Nhẫn không chỉ là thể hiện ở sự nhượng bộ, mà còn thể hiện ở chỗ khi bị lăng nhục vẫn có thể chịu nhận mà không động tâm, không ôm hận. Chỉ nhìn vào cấu trúc chữ Nhẫn (忍) cũng đã biểu đạt được điều này. Bên trên của Nhẫn là chữ Đao (刀), bên dưới là chữ Tâm (心). Ý tứ ở đây muốn nói rằng nếu ta dùng một thanh đao sắc nhọn mà đâm thẳngvào tim tất phải đau ghê gớm. Người bình thường làm sao chịu đựng nổi tổn thương này. Nhưng nếu để ý có thể thấy chữ Tâm (心) nằm ngay dưới chữ Đao (刀) kia, vẫn vững vàng bất động, biểu hiện này chính là hình ảnh lột tả nội hàm của chữ Nhẫn. Dù trong đau thương, mất mát, tủi nhục đến đâu, cái Tâm này vẫn chịu nhận được, đó mới thực gọi là Nhẫn. Chỉ có người biết lấy nhẫn nại mà vượt chông gai, mới có thể làm thành đại sự. Trong quá khứ từng có không ít những lời bình của cổ nhân về chữ Nhẫn này như sau: “Người giàu mà biết nhẫn, sẽ bảo vệ được gia tiên. Người nghèo mà Nhẫn được, sẽ không thấy tự ti, hổ thẹn”. “Giữa cha con mà biết nhẫn, đối đãi với nhau sẽ hòa ái và hiếu thuận”. “Anh em mà học được nhẫn, mới cư xử chính đáng và chân thành”. “Nếu bạn bè chịu nhẫn, tình bạn sẽ bền lâu”. “Nếu vợ chồng biết nhẫn, quan hệ sẽ thuận hòa”. “Trong cơn hoạn nạn, tất sẽ có nhiều người chê cười nhạo báng. Nhưng khi đại nạn qua đi, đáng hổ thẹn nhất lại chính những kẻ đã từng cười chê”. Trong văn hoá truyền thống Trung Hoa cũng có rất nhiều điển tích liên quan đến chữ nhẫn đã được ghi danh trong sử sách qua hàng ngàn năm. Các nhà hiền triết cổ đại đã trải qua biết bao gian khổ để dạy cho người sau biết khoan dung, nhẫn nhịn, tha thứ, có như thế mới có thể tôi luyện bản thân thành Nhân và gánh vác được những trách nhiệm to lớn. 入 HÁN VIỆT Nhập NGHĨA VIỆT Vào, tham ra, thu, đến, tới TỪ GHÉP bất nhập hổ huyệt yên đắc hổ tử 不入虎穴焉得虎子• du nhập 輸入 • đầu nhập 投入 • đột nhập 突入 • gia nhập 加入 • nhập cảnh 入境 • nhập cống 入貢 • nhập cốt 入骨. Chữ NHẬP入là một chữ dạng chỉ sự, mô tả một mũi tên chỉ vào một nơi quan trọng, vì vậy có nghĩa là lối vào hoặc hành động đi vào nơi quan trong nào đó. Sau này hình ảnh mũi tên biến đổi thành giống chữ NHÂN là người, hình chữ nhân này hơi chúi xuống nên người ta suy luận đây là động tác cúi đầu đi vào nhà hay hang động của con người. Thật ra nguồn gốc của chữ nhập ban đầu là hình mũi tên, hình mũi tên sau này chỉ là được viết cách điệu đi mà thôi. Chữ nhập ngoài nghĩa là vào, đi vào còn chỉ nghĩa là tham gia như trong từ gia nhập, hội nhập. 一 HÁN VIỆT Nhất NGHĨA VIỆT Số 1, đầu, đồng nhất TỪ GHÉP duy nhất 唯一•đệ nhất 第一•độc nhất 獨一 • đồng nhất 同一 • đơn nhất 单一 • hợp nhất 合一. Chữ NHẤT一là một chữ chỉ sự, được mô tả là một đường gạch ngang. Giống như chữ NHỊ二và TAM三, người Trung Quốc cổ đại đã sử dụng một đường gạch ngang để ghi lại con số này. Đường gạch ngang này theo quan niệm xưa là tượng trưng cho mặtđất hoặc bầu trời (ý nghĩa này sẽ thường gặp trong cấu tạo của các chữ phức tạp sẽ được phân tích về sau này). Chữ NHẤT 一 là một bộ thủ trong 214 bộ thủ tham gia cấu tạo chữ hán. Ngoài nghĩa là chỉ số đếm đầu tiên, chữ NHẤT一 còn mang nghĩa là giống nhau, tương đồng, cùng. 而 HÁN VIỆT Nhi, năng NGHĨA VIỆT Râu, liên từ TỪ GHÉP bán đồ nhi phế 半途而廢 • bất dực nhi phi 不翼而飛 • bất hàn nhi lật 不寒而栗 • bất hĩnh nhi tẩu 不脛而走 • bất mưu nhi hợp 不謀而合. Chữ NHI而 là một chữ tượng hình. Dạng giáp cốt, chữ NHI 而 giống như bộ râu mọc dưới cằm đàn ông. Râu là biểu tượng của nam tính, là một trong những tiêu chí phân định về giới nam. Trong tiếng hán có nhiều từ dùng để chỉ người đàn ông có bản lĩnh, có khí phách như nam tử hán. Tiếng việt có những từ tương tự như đáng mày râu, trang nam tử…cổ nhân có câu : “đàn ông không râu bất nghì, đàn bà không vú lấy gì nuôi con”. Chữ NHI 而sau đó được sử dụng theo nguyên tắc giả tá, dùng như đại từnhân xưng ngôi thứ hai. Trải quá trình hư hóa dần dần và trở thành liên từ kết nối hai tính từ hoặc hai động từ biểu thị sự tăng tiến hoặc trái ngược nhau. Chữ nhi có khi được thay bằng THẢ且 lại có thể kết hợp với THẢ 且 thành liên từ song âm tiết nhi thả. 耳 HÁN VIỆT Nhĩ NGHĨA VIỆT Tai, quai cầm, nghe TỪ GHÉP mộc nhĩ 木耳 • nghịch nhĩ 逆耳 • nhĩ khổng 耳孔 • nhĩ môn 耳門 • nhĩ thuận 耳順 • nhĩ thuỳ 耳垂 • tâm nhĩ 心耳 • thổ nhĩ kì 土耳其 NHĨ 耳là chữ Tượng Hình, theo diễn tiến của chữ viết ta thấy : Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn Đại Triện đều là hình vẽ cái Lổ Tai của con người; cho đến Tiểu Triện mới chuyển biến thành chữ viết, và hoàn thiện ở Lệ Thư đời Tần cho đến chữ Khải của hiện nay. NHĨ 耳 là TAI, và là những sự vật có hình dạng giống như Cái Tai, như : MỘC NHĨ 木耳 : Không phải Lổ Tai Cây, mà là Nấm Mèo. Có thể vì hình dạng của cái nấm nho nhỏ, lại có vành tròn tròn giống như là Cái Tai của con Mèo mà thành tên chăng?! NGÂN NHĨ 銀耳 : là Nấm mèo trắng, còn được gọi là nấm Tuyết. NHĨ PHÒNG 耳房 : là Hai phòng nhỏ 2 bên của phòng lớn. ĐĨNH NHĨ 鼎耳 : là Hai cái Tai hình bán nguyệt, hoặc hình vuông có góc cạnh tròn ở hai bên đĩnh, nghĩ là chỉ làm để trang trí cho đẹp thôi, chớ làm sao có thể vin vào hai cái tai đó để nhắc cái đĩnh lên cho nổi, chỉ trừ những người như Hạng Võ Sở Bá Vương có sức mạnh Cử đảnh bạt sơn 舉鼎拔山. NHĨ VĂN 耳聞 : là Tai Nghe, là Nghe Nói... Tăng Quảng Hiền Văn có câu : Khẩu thuyết bất như thân phùng, 口說不如身逢, NHĨ VĂN bất như mục kiến. 耳聞不如目見。 Có nghĩa : Chỉ nghe miệng nói, không bằng đích thân mình gặp phải, Tai chỉ nghe thôi, không bằng tận mắt chứng kiến. Ta nói "Tai nghe không bằng mắt thấy." Ta còn có từ "TRỘM NGHE", có nghĩa là chỉ nghe loáng thoáng, hoặc chỉ nghe đồn mà thôi, như lời Kim Trọng đã nói: TRỘM NGHE thơm nức hương lân, Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều. NHĨ THUẬN 耳順 : là từ có xuất xứ từ câu nói của Khổng Tử : "Lục Thập nhi NHĨ THUẬN 六十而耳順 ". Có nghĩa là: Sáu mươi tuổi thì Tai Xuôi, ý muốn nói là Tai đã thông suốt, nghe điều gì đó, thì biết ngay là đúng hay sai, là hay hay dở ngay. Nên NHĨ THUẬN là chỉ tuổi 60, như CỔ HI là chỉ tuổi 70 vậy! NHĨ BIÊN PHONG 耳邊風 : là Gió bên tai, Ý chỉ phớt lờ chuyện gì đó, xem nó như là "Gió thoảng bên tai!"(chớ không phải "Gió Qúa Tai"), như Hoạn Thư làm bộ phớt lờ chuyện Thúc Sinh có "bồ nhí" là Thuý Kiều ở bên ngoài vậy: Nỗi lòng kín chẳng ai hay, Ngoài song để mặc gió bay mái ngoài ! DIỆN HỒNG NHĨ XÍCH 面紅耳赤 : là Mặt đỏ Tai đỏ đậm, ta nói là "Đỏ mặt Tía tai" chỉ sự Cả Thẹn, mắc cở quá xá, hoặc nỗi giận quá giận hay đi dưới trời nắng gắt quá trời! TƯỜNG HỮU PHÙNG, BÍCH HỮU NHĨ 牆有縫,壁有耳: là Tường có kẽ hở, vách có lổ tai. Ta nói là "Rừng có mạch, Vách có tai," hoặc nói như lời của Mụ Quản Gia khuyên Kiều: Ở đây TAI VÁCH MẠCH RỪNG, Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi. Lở khi sóng gió bất kỳ, Con ong cái kiến kêu gì được oan! 二 HÁN VIỆT Nhị NGHĨA VIỆT Số 2 TỪ GHÉP nhị diện 二面 • nhị đẳng 二等 • nhị phẩm 二品 • nhị phân 二分nhị thập 二十 . Chữ NHỊ二là một chữ chỉ sự, được mô tả là hai đường gạch ngang. Giống như chữ NHẤT一và chữ TAM三, người Trung Quốc cổ đại đã sử dụng hai đường gạch ngang để ghi lại con số này. Hai đường gạch ngang này theo quan niệm xưa là tượng trưng cho trời và đất. 染 HÁN VIỆT Nhiễm NGHĨA VIỆT Nhiễm, mắc, lây, nhuộm TỪ GHÉP ô nhiễm 污染• tập nhiễm 習染 • tiêm nhiễm 漸染• truyền nhiễm 传染. Chữ NHIỄM染 ngày nay có liên quan nhiều đến công nghệ nhuộm của người trung quốc xưa. Màu sắc của tơ, vải có được chủ yếu thông qua công tác nhuộm. Chữ NHIỄM染là chữ hội ý bao gồm THỦY氵(nước), CỬU九(số 9) và bộ MỘC木 (cây). Số 9 biểu thị số lần nhuộm. Trong quan niệm của người Hán 9 không phải là con số chính xác, mà chỉ biểu thị sản phẩm dệt cần phải nhuộm nhiều lần mới được hoàn thành. Bộ THỦY biểu thị việc nhuộm bằng nước, còn mộc biểu thị chất liệu nhuộm. Chất liệu nhuộm thời cổ đại đa số có nguồn gốc từ thực vật. Số lần nhuộm khác nhau sẽ cho ra màu sắc khác nhau. Chữ NHIỄM từ chỗ là từ chỉ thao tác tạo màu sắc cho sản phẩm dệt hay nói chính xác là thao tác nhuộm, sau phát triển thành các nghĩa như : lây nhiễm hay mắc phải. 然 HÁN VIỆT Nhiên NGHĨA VIỆT Đót cháy, đúng, thế, vậy, nhưng,… TỪ GHÉP tất nhiên 必然 • thản nhiên 坦然 • thốt nhiên 猝然tuy nhiên 雖然 • tuyệt nhiên 絶然 • tự nhiên 自然. Chữ NHIÊN 然 là một chữ hội ý kiêm Hình Thanh, bao gồm biến thể của nhiên肰 (thịt chó) và bộ hỏa火 (Lửa). Theo lý thuyết của người Trung Quốc cổ đại, bản chất của thịt chó là nóng, khi ăn giống như lửa cháy trong cơ thể, đó là lý do tại sao然 có nghĩa là đốt cháy, tuy nhiên ý nghĩa đó đã được thay thế bằng nhiên (燃). Ngoài ra, vì sức nóng phát ra bên trong cơ thể sau khi bạn ăn thịt chó được coi là chuyện đương nhiên, nên 然 cũng có nghĩa chính xác hay như vậy, bây giờ 然 được sử dụng như đại từ (như thế), liên từ (nhưng, song). 辱 HÁN VIỆT Nhục NGHĨA VIỆT nhục, xấu hổ, làm nhục TỪ GHÉP khổ nhục 苦辱 • lăng nhục 凌辱 • lăng nhục 陵辱 • nhẫn nhục 忍辱 • nhục mạ 辱駡 • ô nhục 汙辱 • sỉ nhục 恥辱 • vinh nhục 榮辱 NHỤC辱 là chữ Hội Ý bao gồm THẦN 辰và THỐN 寸 hợp lại mà thành. Trong khi辰 miêu tả một dụng cụ làm cỏ thì寸 miêu tả mạch nơi cổ tay. NHỤC 辱trái với VINH. Nghĩa gốc của NHỤC là Không Làm Nên, là Vô Tích Sự, là Sỉ NHỤC 耻辱: là Lấy làm Mắc Cở. Còn SỈ NHỤC người khác, là làm cho người ta mất mặt trước đám đông. Ta có các từ ghép và cụm từ với chữ NHỤC: VŨ NHỤC 侮辱 : là Hiếp đáp và làm nhục người khác. NHỤC MẠ 辱罵 : là Chưởi rũa để hạ nhục người khác. SĨ KHẢ SÁT BẤT KHẢ NHỤC 士可殺不可辱: Kẻ sĩ có thể giết chớ không thể làm nhục được. Ông Bà ta cũng thường khuyên răn con cháu: Tri túc thường túc, chung thân bất NHỤC 知足常足,終身不辱。 Tri chỉ thường chỉ, chung thân bất sỉ. 知止常止,終身不恥。 Có nghĩa : Biết lúc nào đủ thì nên đủ, (không đòi hỏi thêm) thì suốt đời sẽ không bị nhục. Biết lúc nào nên ngừng thì ngừng, (không đòi hỏi qúa đáng) thì suốt đời sẽ không bị mất mặt, nhục nhã! 如 HÁN VIỆT Như NGHĨA VIỆT Bằng, như, giống TỪ GHÉP nhất như 一如như hoạ 如畫 • thí như 譬如 • tự như 自如 • tỷ như 比如. Về nguồn gốc chữ如, có hai quan điểm chính như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Chữ NHƯ 如 là một chữ hội ý, bao gồm bộ NỮ女 (phụ nữ) và KHẨU 口 (miệng). Nghĩa gốc của là “phục tùng” hay “y lệnh”, trong khi bộ口tượng trưng cho mệnh lệnh của chủ nhân thì chữ 女 lại biểu trưng cho một người nô tì hay đầy tớ. Tính chất hội ý của如chỉ người đầy tớ làm theo mệnh lệnh của chủ nhân một cách vô điều kiện. Quan điểm thứ hai cho rằng : Phụ nữ Trung Quốc cổ đại rất quan tâm đến cách cư xử của họ, họ ăn chậm và lúc ăn không được mở miệng quá rộng,如 lúc đầu chỉ cách ăn nhẹ nhàng của người phụ nữ, nhưng ý nghĩa như vậy sau đó đã được thay thế bằng nhự (茹). Mặt khác, quan sát miệng người phụ nữ khi ăn và lúc bình thường gần như không có sự thay đổi, nên 如 có nghĩa là như thể, giống như, chẳng hạn như. 念 HÁN VIỆT Niệm NGHĨA VIỆT mong mỏi, suy nghĩ, nhớ,… DẠNG KHÁC 唸 TỪ GHÉP hoài niệm 懷念 • huyền niệm 懸念 • khái niệm 概念 • kỉ niệm 紀念. Niệm 念hợp bởi chữ nhân 人 và kế đến là nhị 二 (ở Lệ Thư chữ二thể hiện rõ ràng hơn. Theo thứ tự hình trên : Giáp cốt văn, kim văn, kim văn, triện văn, lệ thư, khải thư ) sau cùng là bộ tâm 心. Tức nhiên là bạn đồng sanh với nhau lòng ta luôn nghĩ đến gọi là niệm, nghĩa là thường nhắc nhớ hay tưởng nghĩ đến. 年 HÁN VIỆT niên NGHĨA VIỆT Năm, tuổi,… TỪ GHÉP bách niên giai lão 百年偕老• cao niên 高年 ,... Theo truyền thuyết, thì “niên” ở đây là một con vật. Người xưa cho rằng, vào dịp sau mùa thu hoạch đã xuất hiện một loài quỷ tác oai tác quái đối với dân lành, nhờ Thần Phật bảo hộ mà con người tránh được tai họa. Chữ NIÊN như là biến thể của chữ 牛 NGƯU (bò, trâu). Câu chuyện về con Niên chắc có liên quan tới chữ tượng hình này. Nhìn chữ NIÊN, quả thật ta thấy nó là biến thể của chữ NGƯU 牛 (bò, trâu). Trong chữ Hán bộ Ngưu này thường đứng bên cạnh những danh từ chỉ súc vật. Ta có thể gặp rất nhiều biến thể dài ngắn về câu chuyện con NIÊN này. Có câu chuyện như thế này: “Tết Âm lịch trong tiếng Hán là Guo Nian (tạm dịch “Quá niên”), trong đó Guo nghĩa là “đã qua” còn Nian ( NIÊN) hay “Năm” thực ra là tên một conquỷ mang đến vận xui trong quan niệm của người Trung Quốc. Theo một truyền thuyết lâu đời của người Trung Hoa kể lại, Niên là một con quái vật có sừng quanh năm sống dưới đáy biển sâu và chỉ mò lên bờ đúng vào đêm giao thừa để ăn thịt gia súc, gia cầm và cả người dân trong làng Hoa Đào. Niên là một con quái vật có sừng quanh năm sống dưới đáy biển sâu và chỉ mò lên bờ đúng vào đêm giao thừa để quấy phá dân lành. Chính vì vậy, dân làng bảo nhau bỏ nhà chạy lên núi để tránh quái vật quấy phá. Cứ đến đúng ngày đó là không ai dám ngủ, cả nhà phải quây quần lại với nhau đề phòng quái vật nên mới có tục thức đêm lúc giao thừa. Thế nhưng, một đêm trừ tịch nọ khi dân làng chuẩn bị rủ nhau đi trốn thì một ông lão ăn xin râu tóc bạc phơ, tay bị tay gậy từ đâu xuất hiện. Ai cũng sợ sệt, vội vàng chạy trốn nên chẳng có ai để ý đến ông lão ăn xin trừ một người phụ nữ tốt bụng. Người phụ nữ này cho ông lão ăn rồi còn bảo ông cùng lên núi trốn quái vật Niên. Nghe vậy, ông lão ăn xin chỉ cười và nói: “Thưa bà, nếu bà để tôi ngủ lại nhà bà đêm nay, tôi hứa sẽ diệt trừ con quái vật Niên đó giúp bà”. Bà này hết sức ngạc nhiên, nhìn ông lão từ đầu đến chân. “Rõ ràng, ông lão này cũng là người trần mắt thịt, lấy đâu ra cái nhuệ khí đó?”, bà thầm nghĩ và tiếp tục thuyết phục ông cụ đi theo nhưng ông chỉ cười mà không trả lời. Không còn cách nào khác, người phụ nữ đành chạy đi để ông lão ở lại một mình trong căn nhà. Đêm đến, Niên hùng hổ chạy vào làng nhưng nó ngay lập tức nhận thấy có điều gì đó rất khác lạ. Con quái vật nhìn quanh và phát hiện ra tờ giấy đỏ dán trên cửa nhà người phụ nữ kia. Trong nhà thắp nến sáng bừng. Niên tru lên một tiếng rồi điên loạn lao về phía căn nhà. Vừa bước chân tới cửa, con quái vật bị giật mình bởi tiếng pháo nổ. Ngay lúc đó, cửa đột ngột mở ra, ông lão ăn xin bước ra trong bộ quần áo đỏ và bật ra một tràng cười. Quái vật Niên sợquá, mặt cắt không còn giọt máu, vội vã ù té chạy. Sáng hôm sau, dân làng trở về và vô cùng ngạc nhiên khi thấy mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn chứ không phải cảnh hoang tàn như những năm trước. Lúc này, người phụ nữ kia chợt nhớ lại chuyện ông lão ăn xin tối qua và liền kể lại với dân làng. Dân làng lập tức kéo nhau tới nhà người phụ nữ để xem chuyện gì đã xảy ra. Tại đó, họ thấy hai dải giấy đỏ dán trên cửa, xác pháo và nến vẫn còn đang cháy. Mọi sự đã được hóa giải, thì ra con quái vật Niên sợ màu đỏ, tiếng pháo nổ và ánh sáng. Vui sướng vì từ nay đã có cách đối phó với con quái vật gian ác, dân làng tổ chức tiệc tùng linh đình đón chào năm mới và mong chờ vận may sẽ tới. Tất cả đều diện quần áo mới và chúc nhau những câu tốt lành. Từ đó, cứ tới đêm giao thừa, nhà nào cũng dán câu đối đỏ trước cửa, thắp đèn lồng, đốt pháo và thức để đón năm mới sang. Ngày đầu tiên của năm mới, anh em làng xóm sẽ sang nhà nhau chúc tết cùng với bao lì xì đỏ thắm.” Nếu kết hợp câu chuyện kể và tục ăn Tết sau mùa thu hoạch thì ta thấy điều này rất rõ trong chuyện “Cây nêu ngày Tết” của người Việt. Con quỷ gian xảo lừa mị người dân trồng hoa màu cho hắn được lợi. Hắn bóc lột tàn nhẫn công sức của những người đáng được hưởng thụ thành quả quả lao động của mình. Tuy nhiên, Phật đã dạy bảo con người, khiến cho quy luật “bất thất bất đắc” được thực thi một cách công bằng. Mặc dù, bị thua cuộc nhưng Quỷ ở biển cứ đến kỳ lại lên quấy rối. Ngoài những tràng pháo hân hoan đón chào Thần Phật, xua Quỷ; ngoài những câu đối đỏ ghi chữ Thánh Hiền với nội dung Đạo Đức gửi những thông điệp trừ yêu; người Việt mình còn dùng vôi bột, dùng cành dứa và đặc biệt là cây nêu bắt Ma Quỷ phải thực hiện điều ước. 卵 HÁN VIỆT noãn NGHĨA VIỆT Trứng TỪ GHÉP kê noãn 雞卵, dĩ noãn đầu thạch 以卵投石 • noãn sào 卵巢 • sát kê thủ noãn 殺雞取卵. Chữ NOÃN卵 là một chữ tượng hình vẽ lại hai phần của một quả trứng được bổ làm đôi,dấu chấm đỏ tượng trưng cho Lòng đỏ hay noãn hoàng, là phần chứa chất dinh dưỡng trong trứng, giúp đưa dưỡng chất vào phôi. Phấn bên ngoài tượng trung cho Lòng trắng, là chất dịch không màu hoặc màu trắng ngà bên trong một quả trứng. Lòng trắng hầu như không có chất dinh dưỡng, tác dụng chủ yếu là bảo vệ. 奴 HÁN VIỆT Nô NGHĨA VIỆT Đầy tớ, đứa ở, nô lệ, từ khiêm xưng của đàn bà xưa,… TỪ GHÉP gia nô 家奴 • nô bộc 奴僕 • nô lệ 奴隶 • nô lệ 奴隸 • nô tài 奴才 • nô tì 奴婢. Chữ “奴/ nô” với nghĩa là “nô lệ, nô bộc/ 奴隶,奴仆”, được cấu tạo bởi bộ “女/ nữ” và bộ “又/ hựu” (tay phải). “Tân Hoa tự điển/ 《新华字典》 ” giải thích: “Nô là chữ hội ý, gồm hai bộ ‘女/ nữ’ và ‘又/ hựu’. ‘女/ nữ’ chỉ nữ nô, ‘又/ hựu’ (tay) chỉ dùng tay cướp đoạt. ‘又/ hựu’ còn có nghĩa chỉ bàn tay lao động của nữ . Sau này sang thời phong kiến, người phụ nữ vẫn hay tự xưng là “nô tỳ/ 奴婢”, cho thấy sự quy thuận của phụ nữ, phản ánh thân phận nô lệ phụ thuộc của mình. Đây chính là minh chứng việc nam giới dùng vũ lực, ép phụ nữ làm nô lệ cho mình. Đồng thời sự xuất hiện chữ “奴/ nô” còn là một trong những minh chứng cho thời kỳ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc. Tập tục cướp hôn phần nào phản ánh sự hoán đổi mạnh mẽ vai trò của giới. Nam giới ngày càng lớn mạnh, đóng vai trò chủ đạo của lực lượng sản xuất và chiến đấu. Họ đã dựa vào ưu thế về thể lực, dùng vũ lực để thay đổi vai trò của mình bằng việc cướp hôn, dần chiếm giữ và thay thế vị trí chủ đạo của nữ giới trong xã hội. Nữ giới ngày càng mất đi địa vị xã hội, và bị cưỡng ép khuất phục, cuối cùng chuyển sang vị thế “nữ di cư”, bị mua bán như một món hàng, trở thành nô lệ của nam giới. Chế độ hôn nhân phụ quyền được xác lập đồng nghĩa với việc nữ giới bị mất đi địa vị chủ đạo của mình trong xã hội. 內 HÁN VIỆT Nội, nạp NGHĨA VIỆT Bên trong, thu vào, nạp vào DẠNG KHÁC 内 TỪ GHÉP đối nội 對內 • nội bộ 內部 • nội các 內閣 • nội công 內攻 • nội dung 內容 • nội địa 內地 • nội hàm 內函. Chữ NỘI內là một chữ hội ý, trong giáp cốt và kim văn bao gồm hình ảnh một của hang mở rộng và chữ NHẬP 入 (hình ảnh của mũi tên chỉ vào trong). Nghĩa gốc của 內 là đi vào hay nạp vào. Mặt khác thứ gì đó đi vào trong hang thì vị trí của nó là ở phía trong, để phân biệt với bên ngoài nên 內 có nghĩa là ở trong. 農 HÁN VIỆT Nông NGHĨA VIỆT Người làm ruộng DẠNG KHÁC 农 TỪ GHÉP canh nông 耕農• khuyến nông 勸農 • nông cơ 農機 • nông cụ 農具 • nông dân 農民. Với nhiều góc nhìn khác nhau người ta sẽ có những phán đoán về nguồn gốc và ý nghĩa của chữ NÔNG農, quan sát chữ NÔNG農 ở dạng phổn thể ta thấy phần trên giống chữ KHÚC曲là biểu tượng của cây lúa trên đồng. Hình bên dưới khắc họa hình ảnh con người cầm liềm bằng đá. Với tính chất hội ý chữ NÔNG diễn tả lại quá trình thu hoạch của người dân diễn ra trên cánh đồng. Chữ NÔNG có quan hệ mật thiết tới việc cấy trồng của người dân. Nó có hai nghĩa cơ bản là trừ cỏ và thu hoạch. Một góc nhìn khác chữ các nhà ngôn ngữ cho rằng chữ NÔNG 農 là chữ hội ý kết cấu trên dưới, gồm KHÚC 曲 và THÌN辰 tạo thành. Chữ KHÚC là chữ tượng hình diễn tả hình cây non chồi mầm cuộn đầu nhô lên trên mặt đất. Chữ THÌN với nghĩa là một trong thập nhị chi, ý chỉ thời gian. Giờ thìn là khoảngthờigian từ bẩy đến chín giờ sáng mỗi ngày. Theo cách lý giải này, hằng năm cứ vào dịp tiết Thanh minh đến tiết Cốc vũ. Đây là khoảng thời gian cây cỏ từ chỗ uốn mình vươn lên khỏi mặt đất đến chỗ duỗi thẳng và phát triển một cách thoải mái. Thời điểm này cũng là thời điểm cây lúa phát triển nhanh nhất. Từ ý nghĩa của chữ nông có thể thấy được sự quan sát tinh tế, kinh nghiệm tích lũy được từ sản xuất nông nghiệp trong canh tác của người xưa. 女 HÁN VIỆT Nữ, nự, nhữ, nứ NGHĨA VIỆT Đàn bà, phụ nữ, yếu đuối, tính nữ,… DẠNG KHÁC 汝 TỪ GHÉP ái nữ 愛女 • chức nữ 織女 • cung nữ 宮女. Nữ (女, phụ nữ, con gái) là chữ tượng hình. Hình tượng của chữ nữ này tương tự như tư thế ngồi quỳ gối của người phụ nữ Nhật Bản truyền thống, vừa phải đoan trang, vừa nhu thuận. Từ cấu tạo chữ của hai chữ này có thể cảm nhận được âm dương khác biệt giữa nam và nữ. Nam nhân có sức lực mạnh mẽ, đảm nhận công việc nặng nhọc. Trong khi hình tượng của nữ nhân biểu đạt ra một loại khí chất dịu dàng, nhu hòa. 怕 HÁN VIỆT Phạ, Phách NGHĨA VIỆT Sợ hãi, Lo sợ, E ngại, … TỪ GHÉP bất phạ 不怕 • hại phạ 害怕 • khả phạ 可怕. Chữ Phạ (e sợ, sợ hãi: “怕”) là do chữ Tâm (“心”) và chữ Bạch (không, trống không: “白”) ghép thành. Ngụ ý rằng, một người mà nội tâm trống rỗng, hư không thì thường e sợ, sợ hãi.Thật giống như người chưa gặp Ma mà vẫn sợ vậy. Vậy con người phải như thế nào mới không e sợ, sợ hãi? Ấy là khi người ta hiểu được rằng phải không ngừng học tập thêm, làm việc, bồi bổ thêm tín ngưỡng, tình yêu thương vào trong nội tâm trống rỗng kia, xóa bỏ sự trống rỗng, làm cho bản thân phong phú lên thì tự nhiên sẽ không e sợ, sợ hãi nữa. 凡 HÁN VIỆT Phàm, hoàn NGHĨA VIỆT Chung, thường TỪ GHÉP bất phàm 不凡phàm phu 凡夫 • phàm tài 凡才 • phàm thị 凡是 • phàm tục 凡俗 • phi phàm 非凡 • siêu phàm 超凡. Chữ凡là hình ảnh của một cái khay hoặc một cái xô đựng đồ, cái khay hoặc cái xô ban đầu được làm bằng tre rỗng. là một vật dụng rất phổ biến của tầng lớp bình dân. So sánh với các đồ được làm bằng đồng cổ khác, loại vật dụng này không có trang trí, thiết kế đơn sơ nên sự xuất hiện của chúng hết sức tầm thường so với các vật dụng quý giá kia. Mặt khác, cả PHÀM凡vàĐỒNG 同đều có cùng nguồn gốc (xem lại chữ ĐỒNG) nên có sự tương đồng về nghĩa, phàm cũng có nghĩa là chung, đại khái. Ngày nay, hai hán tự này được dùng song song chúng có hình thể, và ý nghĩa gần giống nhau. 反 HÁN VIỆT Phản NGHĨA VIỆT Trở lại, ngược lại TỪ GHÉP 反 • mưu phản 谋反 • phản ánh 反映 • phản bác 反驳 • phản bội 反背 • phản cảm 反感. Chữ PHẢN反là một chữ hội ý, được hợp bởi bộ HỰU又 (tay) và chữ HÁN 厂 (sườn núi). Chữ PHẢN 反 không có nhiều thay đổi từ lúc hình thành cho đến sau này. Hình dạng chữ từ kim văn cho đến khải văn vẫn được biểu thị bởi hình ảnh cánh tay trượt khỏi sườn núi. Chữ PHẢN 反 biểu thị ý nghĩa bàn tay bị trượt và rơi xuống từ vách núi. Quan điểm khác cho rằng, chữ HÁN厂trong cấu tạo chữ PHẢN 反thực chất là hình ảnh một dụng cụ chèo thuyền, ngư cụ giúp ngư dân có thể di chuyển dễ dàng trên sông nước. Khi người ta cần di chuyển , chỉ cần dùng mái chèo rẽ nước ra hai bên, dưới tác động vật vật lý nước sẽ đẩy thuyền tiến lên phía trước. PHẢN 反 là NGƯỢC LẠI. Ta thường gặp các từ như ... - Bội Phản 背反 : Ta nói là Phản Bội. - Phản Đối 反對 : là Làm hoặc Nói Ngược lại cái đã có. - Phản Ứng 反應 : là Có Thái độ hoặc Hành động ngược lại. - Phản Kháng 反抗 : là Chống đối lại. - Phản Tỉnh 反省: là Suy nghĩ lại những cái sai của mình. - Phản Chiến 反戰 : là Chống đối lại chiến tranh. - Phản Phúc 反覆 : Phúc là Úp, Phản Phúc là Lật Lọng. Trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu : Dị trướng dị thối sơn khê thuỷ, 易漲易退山溪水, Dị PHẢN dị PHÚC tiểu nhân tâm. 易反易覆小人心。 Có nghĩa : * Dễ tràn bờ dễ rút đi là nước trong khe suối chảy ra. * Dễ nói ngược dễ lật lọng là lòng dạ của đứa tiểu nhân. 判 HÁN VIỆT phán NGHĨA VIỆT Chia ra, phán quyết, rõ ràng TỪ GHÉP đàm phán 談判 • phán định 判定• phán đoán 判斷 • phán quyết 判决 • phán xử 判处 • phê phán 批判. Chữ PHÁN判 là một chữ hình thanh kiêm hội ý, bao gồm chữ BÁN半 (một nửa) và bộ ĐAO ⺉ (con dao) hợp lại. Vì một con dao rất sắc bén có thể cắt và phân chia thứ gì đó một cách chính xác, đồng thời, một nửa là phần công bằng nhất với nhau, vì vậy 判 có nghĩa là “sự công bằng”. Sự chính xác và công bằng, cả hai đều là yếu tố quan trọng của công lý. 炮 HÁN VIỆT Pháo NGHĨA VIỆT Pháo, đại bác DẠNG KHÁC 石 TỪ GHÉP pháo binh 炮兵 • pháo đài 炮臺 • pháo hiệu 炮號 • pháo thủ 炮手. Chữ Pháo 炮là một chữ hình thanh kết cấu trái phải. Trong đó, bộ HỎA (ngọn lửa) bên trái có tác dụng biểu thị ý nghĩa, chữ BAO 包 (bao bọc) có nhiệm vụ chỉ âm đọc. HỎA 火là lửa, khi đóng vai trò là bộ phận tạo chữ, các chữ hán được tạo ra có chứa bộ HỎA 火sẽ có nghĩa liên quan đến lửa, sức nóng. Trong cấu tạo chữ PHÁO炮, bộ HỎA 火với vai trò biểu nghĩa chính, kết hợp với âm của BAO包tạo thành chữ PHÁO 炮với nghĩa chỉ các loại súng lớn, hay các loại pháo nổ trong lễ hội. Một chữ khác cũng cùng âm đọc và nghĩa là PHÁO 砲, cũng là một chữ hình thanh. Trong chữ砲Bộ THẠCH石 thay cho bộ HỎA, biểu thị cho các máy bắn đá thời xa xưa, khi con người chưa phát minh ra thuốc nổ. 法 HÁN VIỆT Pháp NGHĨA VIỆT Thuật, quy tắc, phép,phép tắc, khuôn phép, khuôn mẫu,… TỪ GHÉP ngữ pháp 語法 • phạm pháp 犯法. Chữ PHÁP 法 về cấu tạo là một chữ hội ý. Trong cổ văn chữ 法 mô tả lại một cảnh sống tự nhiên, bao gồm hình ảnh dòng sông đang chảy, cánh chim bay trên trời, hình ảnh cây cối,...tất cả những thứ này thể hiện cách thức vận hành của tự nhiên đều theo quy luật của nó. PHÁP là phép, là phương pháp, là cách thức để giải quyết một vấn đề gì đó. Có thể nói ý nghĩa của chữ 法 nằm trong bốn chữ “thuận theo tự nhiên” mọi thứ trái với quy luật của tự nhiên sẽ không tồn tại được. Chữ 法 ngày nay đã giản lược đi khá nhiều chỉ còn lại bộ THỦY 氵(nước) và chữ KHỨ 去 (rời đi). Tuy nhiên ý nghĩa gốc của chữ vẫn còn. “Nước chảy chỗ trũng” đó là quy luật của nước cũng là phương pháp vận hành của tự nhiên. Trong phương pháp giáo dục của cổ nhân cũng lấy nước làm hình ảnh mẫu mực. Tư tưởng của Lão Tử là thuận theo tự nhiên, sử dụng cái nhu hòa khéo léo để xử thế, cũng giống như nước vậy, luôn yếu mềm mà vẫn có thể làm mòn đá núi. Vào thời kì thoái trào của lễ giáo cuối thời Xuân Thu, để giữ cho tâm hồn tĩnh lặng, Lão Tử đã rời xa thế tục, gửi gắm tâm tình nơi núi non, cảm nhận cái tinh khiết và mênh mông bát ngát của thiên thiên, trải nghiệm ý nghĩa thực sự của đời người. Dòng chảy lưu động, biến hóa không ngừng của nước đã khơi dậy cảm hứng tâm linh của nhà hiền triết, trở thành nơi để ông gửi gắm tâm tư và sự tỉnh thức của mình. Trí tuệ và tư tưởng triết học của Lão Tử có sự liên hệ rất lớn với nước trong tự nhiên, chúng ta còn có thể gọi nó là sự thức tỉnh của “thủy tính”. Khổng Tử nói: “Trí giả nhạo thuỷ, nhân giả nhạo sơn”. Kẻ thông đạt đạo lý thì yêu thích cái lưu động không ngừng của nước. Người nhân an nhiên thi hành đạo lý nên yêu thích cái vững vàng bất dịch của núi. Lão Tử yêu thích nước, vì nước gần với đạo. Nước rất yếu mềm, không mạnh mẽ, nhưng tính bền bỉ lại khiến nước có thể làm mòn đá bởi dòng chảy của mình. Đá có mạnh đến đâu cũng sẽ bị nước mềm yếu chinh phục. Vì thế Lão Tử nhận định: “Trên thế gian không có thứ gì yếu mềm như nước, nhưng lại không có thứ mạnh mẽ nào có thể thắng được.” Từ đó, ông cũng cho rằng mềm dẻo là phương cách tồn tại nên có của con người: “mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh, thiên hạ ai cũng đều biết rõ.” Sự mềm dẻo của Lão Tử chính là nói về quan niệm xử thế rộng rãi lạc quan, xem thường cái mạnh. Nước chảy chỗ thấp, an phận, không tranh giành. Vì không tranh giành nên cũng không thất bại. Đồng thời, nước lại thân thiện với vạn vất, giúp vạn vật phồn vinh, cho nên được vạn vật yêu thích. Con người cũng vậy, cần khiêm tốn, nhường nhịn, khéo léo, hết sức giúp đỡ người khác, tránh việc tranh giành, đừng mang tâm lý thắng thua. Đó chính là “thượng thiện nhược thủy”. 罰 HÁN VIỆT Phạt NGHĨA VIỆT Trừng phạt DẠNG KHÁC 罚 TỪ GHÉP hình phạt 刑罰 • phạt tội 罰罪• thưởng phạt 賞罰, trừng phạt 懲罰 • xử phạt 處罰. Chữ PHẠT罰là chữ hội ý, được tạo thành từ ba bộ thủ bao gồm : bộ VÕNG罒 (lưới), NGÔN言(lời nói), bộ ĐAO刂 (con dao). Ba bộ thủ này hợp lại biểu thị ý nghĩa là, khi bị sa lưới (罒), hành vi phạm tội sẽ thông qua phán xử bằng cách dùng lời lẽ (言) để thẩm vấn. ĐAO刂 là hình ảnh biểu trưng cho quyền lực của pháp quyền, thể hiện mức độ hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội. Chính cách cấu tạo này đã thể hiện đầy đủ các bước của quá trình phán xét và xử lý tội nhân. 品 HÁN VIỆT Phẩm NGHĨA VIỆT Đồ vật, hàng hóa, phê bình,… TỪ GHÉP bình phẩm 評品 • cao phẩm 高品 • chiến lợi phẩm 戰利品. Chữ Phẩm品 (vật phẩm, hàng hóa, bình phẩm) gồm 3 bộ Khẩu口 (miệng) kết hợp lại cùng biểu thị ý nghĩa là nhiều người nếm thưởng thức một món ăn, thành phẩm hay phế phẩm đều được quyết định bởi kết quả thẩm định. Nghĩa gốc của chữ Phẩm品là thưởng thức. Ngày nay tiếng hán hiện đại vẫn còn dùng từ phẩm trà (thưởng thức trà). 分 HÁN VIỆT phân • phần • phận NGHĨA VIỆT Phân chia TỪ GHÉP phân biệt 分別• phân bố 分佈, phân bổ 分補 • phân cách 分隔, phân công 分工. Chữ PHÂN 分 là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bên trên là chữ BÁT八 bên dưới là bộ ĐAO 刀. Bản thân chữ 八 trong cấu tạo của chữ分không phải là con số chính xác. Tính chất hội ý của chữ分là chỉ việc dùng con dao cắt một vật thành hai hay nhiều phần. Chữ分trong các dạng từ giáp cốt đến lệ thư đều được viết giống như hình một con dao ở giữa, hai bên là hai phần giống nhau, biểu thị cho dao cắt đôi một vật. trong quá trình thay đổi và giản thể cách viết của chữ hán, 2 nét hai bên lại biến thành chữ 八 như ngày nay. Chữ分từ nghĩa là phân chia phát triển thêm các nghĩa thành phần như trong các từ : cổ phần 股分 • đa phần 多分 • phần tử 分子. Hay như nghĩa chỉ thân phận, số phận với âm đọ là “phận”. 紛 HÁN VIỆT Phân NGHĨA VIỆT Phân vân, rối bời TỪ GHÉP phân vân 紛紜, phân phiền 紛煩. Chữ PHÂN紛là một chữ hình thanh kết cấu trái phải, bao gồm bộ MỊCH糸(tơ sợi) ở bên trái có tác dụng biểu nghĩa chính, chữ PHÂN分bên phải có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. Trong cấu tạo chữ紛,糸với nhiệm biểu ý, thể hiện ý nghĩa của chữ PHÂN紛là bối rối, phân vân. Vậy tại sao với bộ糸biểu ý chữ PHÂN紛lại có ý nghĩa như vậy ? Nguyên do là bởi MỊCH糸là một cuộn tơ, được tạo bởi các tợi sơ nhỏ quấn lại mà thành, chỉ một chút bất cẩn, sơ ý có thể khiến cuộn tơ ấy rối tung và phải rất mất công mới có thể gỡ chúng về dạng ban đầu được. Người Hán xưa dùng đặc điểm của cuộn tơ sợi kết hợp với âm “fēn” tạo thành chữ 紛 với ý nghĩa như ngày nay. 焚 HÁN VIỆT Phần, Phẫn NGHĨA VIỆT Đốt, cháy, thiêu, hanh khô,…. TỪ GHÉP phần hương 焚香 đốt hương ; phần phong 焚風(gió hanh) Chữ Phần 焚 Nghĩa là đốt, thiêu…Được tạo bởi 林 phía trên là rừng, nơi có nhiều cây cối, ở dưới là bộ hỏa 火 là lửa. Ở đây ý nói là khu rừng bị cháy, bị thiêu rụi bởi ngọn lửa. “Nhị Mộc hợp lại thành Lâm Dưới thêm bộ Hỏa chữ Phần đốt thiêu Hai cây xích lại thành rừng Dưới thêm ngọn lửa phừng phừng cháy thiêu Thôi rồi một cánh rừng tiêu Chữ Phần mang nghĩa đốt thiêu đấy mà”. 忿 HÁN VIỆT Phẫn NGHĨA VIỆT Tức giận, phẫn nộ TỪ GHÉP phẫn nộ 忿怒, bất phẫn不忿. Chữ PHẪN忿là chữ Hình Thanh, được cấu tạo bởi chữ PHÂN分 (phân chia) ở phía trên có tác dụng chỉ âm đọc, và bộ TÂM心 (trái tim) ở dưới là bộ phận biểu thị nghĩa. Trong cấu tạo chữ PHẪN 忿 chữ PHÂN 分 không có tính chất biểu ý, nghĩa của chữ hoàn toàn nằm ở chữ TÂM 心. Trong các chữ hán có bộ TÂM 心 làm bộ phận biểu ý đều có nghĩa liên quan đến tư duy, tâm tư ,tình cảm. Người hán xưa quan niệm, thậm chí ngộ nhận, trái tim là trung tâm điều khiển suy nghĩ, điều khiển các giác quan khác hoạt động. Chữ TÂM 心 thể hiện ý nghĩa trên vai trò biểu nghĩa, bao gồm cả tích cực và tiêu cực, trong trường hợp chữ 忿 với kết cấu là chữ hình thanh âm đọc “fèn” chữ 忿 biệu thị sự tức giận, phẫn nộ với một sự vật hiện tượng nào đó. 粉 HÁN VIỆT Phấn NGHĨA VIỆT Bột, phấn son, cám TỪ GHÉP phân vân 紛紜, phân phiền 紛煩. Chữ PHẤN粉trong từ điển hán ngữ hiện đại được định nghĩa vừa là chữ hình thanh vừa là chữ hội ý. Nếu là chữ hình thanh thì chữ PHẤN cấu tạo bởi hai bộ là MỄ米 (lúa gạo) và chữ PHÂN 分 (phân chia). Trong đó, MỄ 米 có nhiệm vụ biểu thị ý nghĩa chính của chữ, chữ PHÂN分có tác dụng chỉ âm đọc. Còn nếu là chữ hội ý thì tính chất hội ý của hai bộ phận tạo chữ này là chỉ việc hạt gạo được xay nghiền thành những hạt nhỏ mịn hơn. Từ xa xưa, người nông dân đã biết dùng cối xay sử dụng sức người hoặc trâu bò để nghiền nhỏ hạt gạo, biến chúng thành thứ bột mịn, để từ đó dễ dàng chế biến sang các dạng thực phẩm khác, phục vụ nhu cầu rất đa dạng về ẩm thực của con người. Chữ PHẤN 粉 từ nghĩa chỉ bột, cám gạo phát triển thành nghĩa chỉ cho tất cả các loại hạt nhỏ mịn như ngày nay. Liên quan đến chữ PHẤN ta có câu đối chiết tự sau đây : Bát đao phân mễ phấn, 八刀分米粉, Thiên lí trọng kim chung. 千里重金鍾. Có nghĩa : Phân hột gạo bằng 8 dao, hột gạo sẽ nhuyễn ra thành bột. Mang nặng cái chuông vàng vượt qua ngàn dặm. Câu đối trên hay ở chỗ Chiết Tự, vì chữ BÁT 八 chồng lên trên chữ ĐAO 刀 thành chữ PHÂN 分, và chữ PHÂN 分 ghép với chữ MỄ 米 thành chữ PHẤN 粉. Vậy là trong chữ PHẤN 粉 có chữ BÁT, chữ ĐAO, chữ PHÂN, chữ MỄ 八刀分米. Tương tự, trong vế sau, chữ THIÊN 千 chồng lên trên chữ LÍ 里 thành chữ TRỌNG 重, chữ TRỌNG 重 ghép với chữ KIM 金 thành chữ CHUNG 鍾, nên trong chữ CHUNG 鍾 có chữ THIÊN, chữ LÍ, chữ TRỌNG, chữ KIM 千里重金. 奮 HÁN VIỆT Phấn NGHĨA VIỆT Phấn khích, cố gắng, hăng say,… DẠNG KHÁC 奋 TỪ GHÉP phấn đấu 奮斗 • phấn đấu 奮鬥, hưng phấn 興奮 • phấn chấn 奮震, phấn khích 奮激 • phấn khởi 奮起. Phấn đấu. Chữ PHẤN 奮 là một chữ hội ý gồm 3 thành tố biểu nghĩa tạo thành, Trên cùng là chữ ĐẠI 大 (to lớn), giữa là bộ CHUY 隹 (con chim), dưới cùng là chữ ĐIỀN 田 (ruộng). Nếu quan sát quá trình tập bay của con chim non trên cánh đồng, ta thấy, đầu tiên, khi nó vừa thoát khỏi vỏ trứng, sức còn non yếu, lông và cánh chưa hoàn thiện, nó phải bò, rồi dần dần với quá trình phát triển, hoàn thiện của lông và cánh, nó có thể bay gần, rồi bay xa, bay thấp, rồi bay cao. Tất cả quá trình cố gắng vươn lên để sinh tồn đó, hoàn toàn tự thân vận động, không có sự hỗ trợ của yếu tố khách quan. Cũng có quan niêm chữ ĐẠI bên trên chữ CHUY (con chim) với ý nghĩa là con chim đã đủ lông đủ cánh đang dang rộng đôi cánh bay trêncánh đồng mênh mông. Nếu không có sự phấn đấu, nỗ lực của chính bản thân thì không thể chống chọi với gió mưa và không thể tồn tại. Tác giả đường án cho rắng chữ trên cùng vốn là chữ Y衣 (áo) . Chữ PHẤN奮 vốn nghĩa là con chim thoát khỏi tay áo, dang rộng cánh bay ra cánh đồng. Cũng từ đây nó hoàn toàn tự do với cuộc sống mới. Để tồn tại nó phải dốc sức nhiều hơn để đối phó với ngoại cảnh. Cũng vì thế mà nó nhanh chóng trưởng thành. Chữ PHẤN 奮 vì thế mang nghĩa con người tự lực vươn lên, trong từ phấn đấu, rồi lại chuyển thành nghĩa mang tâm trạng vui vẻ, tự tin, trong từ phấn chấn. 非 HÁN VIỆT Phi, phỉ NGHĨA VIỆT Sai, không đúng, châu phi TỪ GHÉP phi châu 非洲phi lễ 非禮 • phi lí 非理 • phi luật tân 非律賓 • phi nghĩa 非義 • phi phàm 非凡 • phi pháp 非法 • phi thường 非常 PHI 非 về mặt cấu tạo là chữ Chỉ Sự, từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn Đại Triện đều là hình tượng của 2 cánh chim mở ra hai bên, lại vừa giống như là 2 người đang đứng đấu lưng nhau, mặt hướng về hai phía khác nhau, nên PHI 非 chỉ sự ngược nhau, không nhất trí nhau, thế nên, PHI có nghĩa là Không Đúng, Không Phải, là Sai, là Trái, là Quấy, như Chuyện THI PHI 是非 là Chuyện Đúng Sai, Chuyện Phải Trái, Chuyện Tốt Xấu của người đời. Tăng Quảng Hiền Văn có câu : Lai thuyết THỊ PHI giả, 來說是非者, Tiện thị THỊ PHI nhân. 便是是非人. Có nghĩa : Người đến nói chuyện Thị Phi (Nói tốt người nầy, nói xấu người kia...) tức là con người Thị Phi đó ! Ta thường gặp các từ như: PHI THƯỜNG 非常: là Không phải bình thường, là vượt trội hơn bình thường. Ta nói là Khác Thường. Đôi khi cũng dùng để chỉ những chuyện tệ hại, xấu xa hơn bình thường. PHI PHÀM 非凡 : là Không phải phàm tục, là Khác hơn người phàm tục. Ta nói là Siêu Phàm! PHI PHÁP 非法 : là Không phải luật pháp. Làm chuyện Phi Pháp là làm chuyện trái với luật pháp. Ta nói là Phạm Pháp! PHI LỄ 非禮 : là Không đúng với Lễ Nghĩa. Ta nói là Làm Bậy, như Phi Lễ với Phụ Nữ: là đem lời chọc ghẹo suồng sã, thô lổ với phụ nữ. Ta nói là "Dê đạo lộ!" ĐỀ TIẾU GIAI PHI 啼笑皆非: là Khóc cười đều không phải. Ta nói là: Lở Khóc Lở Cười! SỨC PHI VĂN QÚA 飾非文過 : là Trang sức để che cái sai cho nó qua đi một cách đẹp đẽ. Tức là Dấu cái xấu đi để cho người ta chỉ thấy cái tốt mà thôi. Câu nói có xuất xứ từ sách Hán Thư chương 64; trong tác phẩm SÃI VÃI của Nguyễn Cư Trinh khi luận về Tiểu Nhân Chi Tu, cụ đã viết: Nuôi cho lớn mà tu lòng bất hiếu; Ăn cho no mà tu dạ bất trung. Tu sắc lành để mà a ý khúc tùng; Tu lời khéo để mà SỨC PHI VĂN QÚA. A-PHI-LỢI-GIA CHÂU 阿非利加洲: là phiên âm của từ Africa, ta gọi tắt là CHÂU PHI. Ngoài ra, ta còn có rất nhiều từ 3 chữ được ghép bởi chữ PHI, như : PHI VĂN HÓA 非文化, PHI CHÍNH PHỦ 非政府, PHI QUÂN SỰ 非軍事, PHI VỤ LỢI 非務利, PHI CHÍNH THỨC 非正式...  煩 HÁN VIỆT Phiền NGHĨA VIỆT Buồn phiền, lo lắng DẠNG KHÁC 烦 TỪ GHÉP phiền não 煩惱 • phiền nhiễu 煩擾 • phiền phức 煩複 • phiền toái 煩碎, ưu phiền 憂煩. Chữ PHIỀN煩là một chữ hội ý kiêm hình thanh, bao gồm bộ HỎA 火 (lửa) và HIỆT 頁 (hình ảnh của đầu người). Khi một người cảm thấy lo lắng, tâm trí anh ta sẽ trở nên lộn xộn, giống như đầu anh ta đang cháy trong lửa. 片 HÁN VIỆT Phiến NGHĨA VIỆT Tấm TỪ GHÉP băng phiến 冰片 • nha phiến 鴉片• phiến chỉ 片紙 • phiến diện 片面 •. Chữ PHIẾN片là một chữ tượng hình, mô tả một thân cây bị cắt làm đôi, đối xứng với爿. Sau khi cắt, thân cây bị cắt có bề mặt phẳng, vì vậy ý nghĩa ban đầu của 片 là một tấm ván gỗ, nhưng sau đó nó được sử dụng để mô tả những vật mỏng và phẳng. PHIẾN片thường được dùng làm Mạo Từ như : NHẤT PHIẾN BĂNG TÂM 一片冰心 : là Một Tấm lòng trong trắng như gương. BĂNG là Nước đá trắng tinh trong suốt, chẳng chút bợn nhơ, như thơ của Vương Xương Linh : NHẤT PHIẾN BĂNG TÂM tại ngọc hồ! 一片冰心在玉壺 ! Có nghĩa : Một tấm lòng trong trắng như băng ở trong bình ngọc cũng trong trắng như thế (không chút bợn nhơ của thế tục!) NHẤT PHIẾN NGUYỆT 一片月 : là Một Mảnh Trăng làm ta nhớ đến bài Văn Tế Công Chúa nhà NGUYÊN của Lưỡng Quốc Trạng Nguyên MẠC ĐĨNH CHI (莫挺之 1280–1346) khi đang đi sứ nơi đây đã làm kinh ngạc vua quan nhà Nguyên khi chỉ đưa cho ông có 4 chữ NHẤT để làm bài văn tế nầy. Ông đã ứng khẩu đọc một bài văn tế rất hay với 4 chữ NHẤT đó như sau : Thanh thiên nhất đóa vân, 青天一朵雲, Hồng lô nhất điểm tuyết, 紅爐一點雪, Thượng Uyển nhất chi hoa, 上苑一枝花, Dao Trì NHẤT PHIẾN NGUYỆT. 瑤池一片月。 Y! Vân tán, Tuyết tiêu, Hoa tàn, Nguyệt khuyết! 噫!雲散,雪銷,花殘,月缺! Có nghĩa : Một đóa mây trên bầu trời xanh. Một điểm tuyết bên lò lửa đỏ. Một cành hoa trong vườn Thượng Uyển. Một mảnh trăng nơi cung Dao Trì. Ôi ! Mây đã rã, Tuyết đã tan, Hoa đã tàn, Trăng đã khuyết! 飄 HÁN VIỆT phiêu NGHĨA VIỆT Bay phấp phới, thổi TỪ GHÉP phiêu diêu 飄颻, phiêu đãng 飄蕩• phiêu linh 飄零• phiêu phiêu 飄飄 • phiêu phong 飄風 PHIÊU飄 là chữ hội ý kiêm hình thanh bao gồm bên trái là PHIÊU票(tấm vé, tiền giấy) bên phải là Bộ PHONG風 (gió). PHIÊU飄 nghĩa là “giấy tiền bay trong gió”. PHIÊU 飄 là Phất Phơ, là Phiêu Diêu, là Phơi Phới. Từ kép là PHIÊU PHIÊU 飄飄. Như trong bài Tiền Xích Bích Phú của Tô Đông Pha có câu: "... Phiêu phiêu hồ như di thế độc lập, vũ hóa nhi đăng tiên... 飄飄乎如遺世獨立,羽化而登仙... Có nghĩa: Cảm thấy như là tách rời khỏi cuộc đời, chắp cánh phơi phới bay lên cỏi tiên... TÙY PHONG PHIÊU ĐỘNG 隨風飄動 : là Theo gió phất phơ, ta hay nói là Phất phơ trước gió. PHIÊU DẬT 飄逸 là Thanh thoát khác thường. PHIÊU BẠC 飄泊 PHIÊU LINH 飄零 : là Trôi nổi, Trôi dạt rày đây mai đó không định hướng. Như PHIÊU BẠC GIANG HỒ... 丰 HÁN VIỆT phong NGHĨA VIỆT Tươi tốt, rậm rạp, đẹp TỪ GHÉP phong phú 丰富 • phong thái 丰采 Chữ PHONG丰là một chữ tượng hình, mô tả một cái cây với một số nhánh, do đó phát triển ý nghĩa chỉ sự phồn thịnh và phong phú. Sau khi豐 xuất hiện,丰chỉ được sử dụng trong tiếng Trung giản thể. Ngoài vai trò chữ đơn, 丰 còn xuất hiện rất nhiều trong cấu tạo của các chữ hán khác. 風 HÁN VIỆT phong • phóng • phúng NGHĨA VIỆT gió TỪ GHÉP bình phong 屛風cảm phong 感風 • chánh phong 正風 • chấn phong 震風• đông phong 東風. Chữ PHONG風bao gồm một biến thể của PHÀM 凡 (bình thường) và chữ TRÙNG 虫 (sâu bọ). Chữ PHÀM凡có nguồn gốc là một ống tre rỗng (xem lại chữ phàm凡) trong khi TRÙNG虫là một con rắn. Người xưa định nghĩa về gió rất đơn giản, đó là một luồng không khí đang di chuyển. Tuy nhiên, rất khó để có thể vẽ được không khí, vây nên, người xưa đã dùng phần rỗng bên trong của một ống tre để chỉ không khí. Hình ảnh con rắn bò qua ống tre tượng trưng cho luồng không khí đang di chuyển tức là gió. GIÓ là Hiện tượng tự nhiên của không khí lưu thông từ chỗ nầy sang chỗ khác, từ cao xuống thấp, từ lạnh sang nóng, từ đông sang tây... là sự vận động tự nhiên của bề mặt Trái Đất. PHONG chỉ sự di chuyển, thay đổi, lan truyền nhanh chóng, như: Phong Ba 風波 (sóng gió), Phong Vũ 風雨(gió mưa), Phong Trào 風潮 (Gió đưa nước thủy triều mà cũng có nghĩa là một hiện tượng phát sinh và lan truyền trong xã hội con người)... PHONG chỉ những thói quen được hình thành trong đời sống xã hội, như: Phong Tục 風俗, Phong Hóa 風化... PHONG chỉ sự lan truyền tin tức, như: Phong Thanh 風聲 (Ta hay nói trại thành "Phong Phanh"), Phong Truyền 風傳... PHONG chỉ Cảnh trí, Thái độ, cử chỉ, như: Phong Cảnh 風景, Phong Độ 風度, Phong Cách 風格, Tác Phong 作風... PHONG LƯU 風流 là chỉ sự lưu chuyển như dòng chảy của gió, nên rất thoải mái dễ chịu. Cuộc sống Phong Lưu là cuộc sống dư dã giàu có. Con người Phong Lưu là con người Phóng khoáng Rộng rãi... chịu chơi! Nên PHONG LƯU hay bị hiểu lầm là ăn chơi trác táng, có cuộc sống buông thả. Thực ra người tài tử phong lưu là người tài tử đa tình như trong Thôi Nương Thi của Dương Cự Nguyên đời Đường như sau: 風流才子多春思, Phong Lưu Tài Tử đa xuân tứ, 腸斷蕭娘一紙書. Trường đoạn Tiêu nương nhất chỉ thư. Có nghĩa : Chàng tài tử phong lưu hay nghĩ ngợi về những tình xuân êm ái, Chàng đã rất dễ đau lòng xót dạ khi nhận được thư của một nàng nào đó !... PHONG 風 là Động từ thì có nghĩa là Hóng Gió, người miền Nam gọi là Hứng Gió. Trong sách Luận Ngữ, chương Tiên Tấn, tả cảnh thái bình thịnh trị có câu: "莫春者,春服既成。冠者五六人,童子六七人,浴乎沂,風乎舞雩,詠而歸。Mạc xuân giả, xuân phục ký thành, quan giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ nghi, PHONG hồ vũ vu, vịnh nhi quy." Có nghĩa: "Lúc cuối xuân, khi quần áo xuân đã may xong. Năm sáu người lớn, sáu bảy trẻ em, tắm ở sông Nghi, HÓNG GIÓ ở đền Vũ Vu, rồi ca hát mà về."   攵 HÁN VIỆT phộc • truy; phác • phốc NGHĨA VIỆT Cái roi, đánh khẽ DẠNG KHÁC 攴 TỪ GHÉP Bộ thủ tạo chữ. Chữ PHỘC攵là một chữ tượng hình, mô tả một bàn tay đang cầm một cây gậy hoặc dụng cụ, đó là biến thể của攴. Ngày nay, 攵không còn là một hán tự độc lập, nó chỉ tồn tại dưới dạng bộ thủ gắn liền với các hán tự khác như牧and 收,…攵cùng chia sẻ cách phát âm và ý nghĩa như 攴 và扑. 配 HÁN VIỆT Phối NGHĨA VIỆT kết hợp, giao hợp,pha, hoà,… TỪ GHÉP chi phối 支配•phối hợp 配合 • phối ngẫu 配偶. PHỐI配với nghĩa gốc là người nấu rượu pha chế cho rượu có hương vị hài hòa. Hình ảnh chữ cho thấy: gồm (vại rượu) + (người nấu rượu) + (đổ chất liệu lên men vào vại). Sau này “配/ phối” chỉ sự kết hợp của hai giới nam và nữ trong hôn nhân, xuất hiện trong “婚配/ hôn phối” hoặc “配偶/ phối ngẫu”... Các thể chữ Giáp cốt, chữ Kim, chữ Triện và Khải thư (từ trái qua phải) thể hiện rất rõ ý nghĩa và quá trình phát triển của chữ. PHỐI 配 : là Gia giảm nguyên liệu cho thích hợp, như PHỐI HỢP 配合, PHỐI LIỆU 配料, PHỐI CHẾ 配制 ... PHỐI DƯỢC 配药 : là Hốt Thuốc Bắc, thuốc Nam. PHỐI SẮC 配色 : là Pha màu cho thích hợp. PHỐI còn có nghĩa là cắt đặt, sắp xếp, như PHỐI TRÍ 配置 là Bố trí, PHÂN PHỐI 分配 ... PHỐI là tội nhân đi đày ngày xưa gọi là PHÁT PHỐI 發配. PHỐI còn có nghĩa là kết hợp trai gái lại với nhau, như HÔN PHỐI 婚配, CHÁNH PHỐI 正配 là Vợ Lớn, PHỐI NGẪU 配偶 là Người sánh đôi, là Người Hôn Phối: Vợ hoặc Chồng. 夫 HÁN VIỆT Phu, Phù NGHĨA VIỆT Chồng, đàn ông,… DẠNG KHÁC 伕 TỪ GHÉP bạc phu 薄夫 • bạo phu 暴夫• đại phu 大夫 • đại trượng phu 大丈夫. Chữ PHU (夫, chồng) tương đối phức tạp hơn so với chữ Thê (妻). Chữ phu được tạo bởi chữ đại (大) và chữ nhất (一). Chữ nhất (一) trong “Thuyết văn giải tự” mang ý nghĩa là đạo sinh ở nhất, phân chia trời đất, hóa thành vạn vật, là ngọn nguồn của vạn vật thiên địa, là ngọn nguồn và đạo lý căn bản. Còn chữ ĐẠI (大) là hình tượng một người đứng thẳng chính diện. Một người đứng thẳng, bên trên lại có chữ nhất thì chứng tỏ trách nhiệm của người này không thể nhỏ được. Cho nên, phu (người chồng) là phải có trách nhiệm gánh vác, phải giữ vai trò chủ đạo trong gia đình. Điều mà người ta vẫn gọi là “phu xướng phụ tùy”, người chồng đề xướng thì vợ thuận theo, nhưng đương nhiên không phải là đề xướng một cách tùy tiện, tùy ý mà phải phù hợp đạo lý. Cũng nói về nguồn gốc ý nghĩa của hình tượng chữ PHU 夫 một số học giả cho rằng : Chữ PHU夫 là hình tượng một người đàn ông cao lớn đứng thẳng (大), phía trên đầu có một nét ngang, nói lên người đàn ông sau khi đã thành niên dùng trâm cài vào búi tóc. Nghĩa gốc là “người đàn ông đã trưởng thành”. Nghĩa mở rộng là “người đàn ông đã có vợ” tức là CHỒNG với các từ ghép là : Phu Tế, Phu Lang, Phu Tướng, Trượng Phu... Như trong Truyện Kiều tả lúc Từ Hải chia tay với Kiều để lên đường lập nghiệp... Nửa năm hương lửa đang nồng, TRƯỢNG PHU thoát đã động lòng bốn phương. Chữ PHU lại làm cho ta... Nhớ lại 2 câu thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương là : Duyên THIÊN chưa thấy nhô đầu dọc, Phận LIỄU sao đà nẩy nét ngang? Duyên THIÊN 天 là duyên trời run rủi, chưa thấy nhô đầu dọc, là chưa thành chữ PHU 夫, nghĩa là chưa có chồng. Phận LIỄU 了 (là Liễu bồ, là Phận gái) sao đà nẩy nét ngang? Chữ LIỄU 了 mà nẩy nét ngang thì sẽ thành chữ TỬ 子 là CON nên 2 câu thơ trên có nghĩa : Duyên trời nào thấy đâu run ruỉ, Phận gái sao đà đã có con? 富 HÁN VIỆT Phú NGHĨA VIỆT Giàu có, sung túc, dư thừa,… DẠNG KHÁC 冨 TỪ GHÉP phong phú 豐富• phú hào 富豪 • phú hậu 富厚 • phú hộ 富戸 Chữ Phú (富 – giàu có) trong chữ chính thể bao gồm chữ Phúc (畐- đầy đủ) và chữ Miên (宀 – mái nhà), nghĩa là có một mái nhà để che thân, có những điều kiện đầy đủ để sống tốt thì đó là giàu có. Nhưng thế nào là đầy đủ? Chữ Phúc (畐- đầy đủ) lại gồm chữ Nhất (一 – một, mỗi từng, toàn), chữ Khẩu (口 – cái miệng) và chữ Điền (田 – ruộng vườn). Nghĩa là có ruộng vườn để làm ăn sinh sống (hay có công việc để kiếm miếng cơm manh áo), làm sao để mỗi nhân khẩu, miệng ăn, hay toàn bộ gia đình đều được ăn no, thì đó đã là đầy đủ rồi. “Trong nhà có một miệng ăn Ruộng thời một khoảnh quanh năm dư thừa”. 阜 HÁN VIỆT Phụ NGHĨA VIỆT gò đất, to lớn, béo TỪ GHÉP khổng phụ 孔阜;ân phụ 殷阜;Đăng thúy phụ, lâm đan cốc 登翠阜, 臨丹谷; vật phụ dân phong 物阜民豐 PHỤ 阜 là chữ Tượng Hình. Giáp Cốt Văn là hình tượng của một dãy những gò đất nổi cao lên, Kim Văn thì như là một bến nước, đến Đại Tiểu Triện thì lại diễn tiến như là những gò đất cao, là nơi mà ngày xưa dân cư thường tập trung để cư trú, buôn bán, nên PHỤ còn chỉ nơi sung túc, dồi dào, như câu VẬT PHỤ DÂN PHONG 物阜民豐 là Của cải dồi dào nhân dân sung túc. PHỤ 阜 khi ghép chữ được viết như thế nầy 阝nằm phía bên trái chữ viết, nên được gọi là "Lổ Tai Bên Trái" như các chữ: MẠCH 陌 là Đường trong ruộng, Đường Làng; LỤC 陸 là Phần đất nổi cao hơn mặt nước: LỤC ĐỊA 陸地... NHƯ SƠN NHƯ PHỤ 如山如阜: là Như Núi như Đồi, chỉ địa thế của các vùng Cao nguyên cao thấp không đều nhau.Chữ được ghép bởi bộ PHỤ, tiêu biểu có chữ TRẦN 陳 : là Bày ra, như TRẦN LIỆT 陳列 là Bày Trí, Trình bày ra cho mọi người xem. Ở TRẦN là Cởi bỏ áo cho người xem lưng! TRẦN là Họ Trần 陳, là nước Trần, một nước chư hầu của nhà Châu thời Chiến Quốc. TRẦN còn là Triều đại cuối cùng của Nam Triều trong thời kỳ Nam Bắc Triều, nổi tiếng với ông vua tài tử, giỏi thơ từ, nhưng lại hoang dâm vô độ hiếm có từ xưa tới nay: Trần Hậu Chủ 陳後主; giặc đánh tới nơi còn cùng với phi tần mỹ nữ uống rượu ca múa hát khúc Hậu Đình Hoa! 父 HÁN VIỆT Phụ, Phủ NGHĨA VIỆT Cha, Bố, người già như “phụ lão”,… TỪ GHÉP bá phụ 伯父• phụ huynh 父兄 • phụ lão 父老 • phụ mẫu 父母 • phụ thân 父亲 • PHỤ (父, cha) có hình tượng đôi bàn tay giơ lên một cây gậy. Trong “Thuyết văn giải tự”, cha là người lớn trong gia đình quản khuôn phép, gia pháp, quản việc dạy dỗ trong gia đình. Cho nên, người cha phải là người NGHIÊM PHỤ quản giáo con cái, thậm chí không e ngại dùng gậy để đánh đòn. Từ xưa, phương pháp giáo dục tại các nước châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hong Kong, Đài Loan… đều là: “CÔN BỔNG ĐỂ HẠ XUẤT HIẾU TỬ” (dưới roi vọt thì có con ngoan). PHỤ là CHA, là những bậc đáng hàng Cha Chú, như Hương Thân Phụ Lão 鄉親父老 là những bậc trưởng thượng trong làng xóm. BÁ PHỤ 伯父 là Bác, THÚC PHỤ 叔父 là Chú, CỬU PHỤ 舅父 là Cậu, SƯ PHỤ 師父 là Thầy ... PHỤ còn dùng để gọi người già, người cao niên, như : ĐIỀN PHỤ 田父 : là Lão Nông ,là ông Nông dân già. NGƯ PHỤ 漁父 : là Ông Câu. là Ngư Ông. 婦 HÁN VIỆT Phụ NGHĨA VIỆT đàn bà, vợ DẠNG KHÁC 妇 TỪ GHÉP phụ nữ 婦女, cô phụ 孤婦 • dâm phụ 淫婦, khuê phụ 閨婦 • mệnh phụ 命婦. Chữ PHỤ婦là một chữ hội ý kết cấu trái phải, bao gồm bên trái là chữ NỮ女 (con gái) bên phải là chữ CHỬU 帚 (cái chổi). Chữ PHỤ婦 khắc họa hình ảnh người đàn bà tay cầm cây chổi, lo việc dọn dẹp, thu vén cửa nhà. Tính chất hội ý của chữ PHỤ婦đã thể hiện rõ vai trò, địa vị của người phụ nữ theo quan niệm truyền thống của người Trung Quốc. Người phụ nữ với đặc điểm cần cù chịu khó, khéo tay hay làm, cẩn thận chu đáo và nhất là đời sống tình cảm nhìn chung rất phong phú, nhưng thường yếu đuối hơn nam giới. Sức khỏe của người phụ nữ trong tương quan với nam giới cũng yếu hơn. Trong công việc họ đắn đo cân nhắc, không quyết đoán táo bạo như nam giới. Do đó tầm nhìn của họ cũng hạn hẹp hơn. Lịch sử đã chứng minh, xã hội thị tộc mẫu hệ, phụ nữ nắm quyền, kinh tế phát triển kém hơn so với chế độphụ hệ. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, quan niệm đó đã lỗi thời. Sự giải phóng phụ nữ đã tạo điều kiện cho những người mẹ, người vợ, người chị có cơ hội vượt ra khỏi sự cương tỏa của gia đình để bước ra ngoài chung tay xây dựng như người đàn ông. Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội nhất định, khi người phụ nữ không có cơ hội tham gia các công tác xã hội mà chuyên tâm lo việc gia đình, công lao của họ vẫn thật vĩ đại. Đằng sau thành công của người đàn ông không thể phủ nhận những đóng góp của người phụ nữ. Và chính vì vậy, cái được gọi là thiên chức của người phụ nữ chính là những năng lực, đức tính trời ban cho phụ nữ mà đàn khó có thể có được. 福 HÁN VIỆT Phúc NGHĨA VIỆT Hạnh phúc, may mắn,… TỪ GHÉP bạc phúc 薄福 • chúc phúc 祝福• hạnh phúc 幸福 • hưởng phúc 享福. Ký tự tiếng Hán “福” (Phúc) tượng trưng cho một không khí tích cực và vui tươi. Khi Năm mới Trung Hoa Âm lịch đến, các gia đình tại Trung Quốc theo truyền thống lại treo chữ “Phúc” lên, với hy vọng đón một năm mới an lành và phúc lộc. Từ hàng ngàn năm trước, khi Trung Quốc mới hình thành hệ thống chữ viết riêng, chữ “Phúc” đã tồn tại. Theo cổ ngôn được viết trên những tấm thẻ bằng xương, “Phúc” nghĩa là “hai tay dâng cúng thức ăn và rượu lên các vị Thần”. Người xưa thực hiện nghi lễ này với việc cầu nguyện Trời và thờ cúng các vị Thần, với mong muốn hòa bình và hỷ lạc. Do đó, “Phúc” được định nghĩa như là ‘phước lành’. Ký tự “Shi” [示] nằm bên trái chữ “Phúc” [福] có nghĩa là ‘bàn thờ’. Đây làmột từ gắn với nghi lễ, Thần Phật, nguyện cầu, và mong đợi. Thời xưa, con người đi đến bàn thờ là để nhận lời chỉ dạy và thiên khải từ các vị thần. Các ký tự “一口田”nằm bên phải của chữ “Phúc” [福] có thể được hiểu là “một mảnh đất được ban tặng từ thần linh”. Mỗi người đều có một vùng đất, hay một vùng đất của lương tri, là thứ được thiên thượng ban tặng cho con người. Nếu một người có thể tìm lại được mảnh đất thanh tịnh và thuần khiết trong tâm, phúc lành sẽ đến với họ ngay lập tức. Điều này ngụ ý nếu con người có đức tin vào Thần Phật, thì Thần Phật sẽ ban phước lành cho họ. 服 HÁN VIỆT Phục NGHĨA VIỆT Phục tùng TỪ GHÉP bái phục 拜服 • bất phục 不服• bội phục 佩服 • cảm phục 感服. Theo các học giả, chữ PHỤC服ban đầu là một chữ hội ý gồm ba bộ thủ tạo thành, bên trái là hình ảnh của chữ CHU舟 (con thuyền), bên phải là bộ THỦ舟 (cái tay), ở giữa là hình ảnh biểu trưng của một con người. Ngày nay bộ CHU 舟đã được thay bằng bộ NHỤC月. Người xưa sống dựa vào rừng và sông nước. Để có thể đi theo đường thủy, người ta đã chế tạo ra thuyền. Chữ CHU 舟 chính là một chữ tượng hình vẽ lại hình ảnh một con thuyền độc mộc. Một khi đã lên thuyền con người phải cẩn thận chống chọi với sóng to, gió cả và canh chừng chiều sâu dòng chảy, để đảm bảo an toàn tính mạng. Do đó họ phải phục tùng mọi quy định trên thuyền. Nhũng người cùng đồng hành trên một con thuyền phải có sự đồng lòng hiệp sức và tính kỷ luật cao mơi mong thuận buồm xuôi gió. Do đó PHỤC 服 mang tính cưỡng chế và phổbiến. Thuyết văn giải thích : “ Phục, dụng dã” (phục có có nghĩa là dụng). Đạo trị nước xưa có câu : Thần phục ư quân, quân phục chi ư pháp (bề tôi phải phục tùng vua, vua phải căn cứ vào pháp chế để khiến bề tôi thuận theo ý mình. Nói tóm lại, bản chất của chữ PHỤC là phục tùng đạo đức, phục tùng pháp quy, phục tùng nhu cầu trong đời sống xã hội. Mỗi thành viên trong xã hội đều phải lượng sức mình và khép mình vào khuôn khổ xã hội, tuân thủ những yêu cầu của quy phạm đạo đức, chịu sự ràng buộc của luật pháp, khiến cho bộ máy xã hội vận hành một cách thông thuận. Tạo điều kiện cho cá nhân và xã hội phát triển một cách toàn diện. 奉 HÁN VIỆT Phụng NGHĨA VIỆT Phụng dưỡng, hiến, dâng lên TỪ GHÉP cung phụng 供奉 • phụng an 奉安 • phụng chỉ 奉旨• phụng dưỡng 奉养 • phụng dưỡng 奉養• phụng mệnh 奉命 • phụng sự 奉事. Chữ PHỤNG奉là một chữ hình thanh có kết cấu trên dưới, ở trên là hai Chữ PHONG丰 (cây cỏ) là bộ phận biểu thị âm đọc, ở dưới là bộ THỦ扌(tay) biểu nghĩa. Thực ra có thể coi PHỤNG奉là một chữ hội ý kết cấu trên dưới. Trong giáp cốt văn và kim văn, Hình ảnh chữ PHỤNG 奉 giống như đôi bàn tay đang chăm sóc cây cỏ vậy. Tính chất hội ý ở đây là chỉ đôi bàn tay đang chăm chăm bón cho cây. Chữ phụng từ đó có nghĩa là chăm sóc, phụng dưỡng. Ở một góc nhìn khác, hình ảnh đôi bàn tay (trong kim văn có đến ba cái tay)đang dơ lên cao, ở trên tay là hoa cỏ, hình ảnh này biểu tượng cho nghi lễ dâng bái lễ vật. Hoa cỏ ở đây biểu trưng cho nhiều cho nhiều loại lễ vật, cũng như hai, ba bàn tay biểu trưng cho nhiều người vậy. Cũng bởi vậy, chữ PHỤNG có thêm một nghĩa nữa là dâng hiến, biếu. Như trong Chu lễ: “Tự ngũ đế, phụng ngưu sinh” (Cúng tế ngũ đế, hiến bò làm lễ vật). Hay như mang nghĩa cúng tế như “Tử tôn thế phụng yên” (Con cháu đời đời cúng tế). 方 HÁN VIỆT Phương, bàng NGHĨA VIỆT Hình vuông, phía TỪ GHÉP bát phương 八方 • bình phương 平方 • địa phương 地方• đối phương 對方 • phương cách 方格 • phương châm 方針. Chữ PHƯƠNG方là một chữ hội ý, trong giáp cốt văn mô tả một phạm nhân đeo trên cổ một chiếc gông. Chiếc gông ở Trung Quốc cổ đại thường có hình vuông, nên chữ có nghĩa là hình vuông hay chữ nhật, các cạnh của hình vuông ở bốn hướng khác nhau nên PHƯƠNG方cũng có nghĩa là phía, hướng. Ngoài ra, những phạm nhân này sẽ bị đày đi đến một nơi xa xôi như biên ải hay vùng hẻo lánh nào đó. Nên chữ方còn có nghĩa là nơi xa xôi, phương xa. Các cụm từ với chữ PHƯƠNG: Trong Toán học ta có từ Bình Phương 平方, Khai Phương 開方. Về mặt Sự việc ta có từ Phương Hướng 方向, Phương Diện 方面. Về Biện pháp thì ta có từ Phương Thức 方式, Phương Pháp 方法. Chi riêng một vùng ta có từ Địa Phương 地方, Phương Ngôn 方言 : là Tiếng nói của riêng của một vùng nào đó, như tiếng Tiều, tiếng Hẹ, tiếng Quảng... của Trung Hoa, tiếng Mường, tiếng Mán, tiếng Ra-Đê... của Việt Nam ta vậy . 匚 HÁN VIỆT Phương NGHĨA VIỆT Vật để đựng đồ TỪ GHÉP Một trong 214 bộ thủ, xuất hiện thường xuyên trong cấu tạo các chữ hán. Chữ PHƯƠNG匚là một chữ tượng hình, mô tả lại một cái khay đựng đồ, một dụng cụ phổ biến trong đời sống sinh hoạt. Dụng cụ này vẫn thường thấy là vật theo bên mình các thầy thuốc xưa mỗi lúc đi chữa bệnh. Như trong chữ Y醫 (chữa bệnh, xem bài phân tích chữ 醫) cũng xuất hiện thành phần này với ý ngĩa là vật đựng các dụng cụ chữ bệnh như dao, kim, rượu thuốc… 瓜 HÁN VIỆT qua NGHĨA VIỆT Dưa, mướp ,bầu, bí, bộ qua TỪ GHÉP bắc qua 北瓜 • đông qua 冬瓜 • hàn qua 寒瓜 • khổ qua 苦瓜 • qua lí 瓜李 • tây qua 西瓜 Chữ QUA瓜 là một chữ tượng hình, mô tả một quả dưa được treo trên thân dây leo. Chữ qua được dùng để đại diện cho các loại dây leo có quả như: TÂY QUA 西瓜 : là Dưa Hấu, còn gọi là HỒ QUA 胡瓜 do Trương Khiên đời Hán mang từ xứ Hồ ở tận vùng Tây Vực về bằng "Con Đường Tơ Lụa". ĐÔNG QUA 冬瓜 : là Trái Bí Đao. NAM QUA 南瓜 : là Trái Bí Rợ. QUA PHÂN 瓜分 : là Bị chia ra thành từng phần nhỏ như là Dưa bị xắt ra từng mảnh vậy . QUA QUẢ 瓜果 : là Dưa và Trái, là từ chỉ chung TRÁI CÂY. QUA TỬ 瓜子 : là Hạt Dưa. QUA TỬ DIỆN 瓜子面 : là Mặt hạt dưa. Ta nói là " Mặt Trái Xoan ". QUA ĐIỀN LÝ HẠ 瓜田李下 : là Trên ruộng Dưa và Dưới cây Lý. Là Thành Ngữ chỉ những nơi dễ bị người khác nghi ngờ nhất. Đi trên ruộng dưa thì không được cuối xuống sửa giày, sợ người ta nghi ngờ mình hái trộm dưa, còn đứng phía dưới cây lý cây mận thì không nên sửa nón, sửa mão, sợ người ta nghi ngờ mình hái trộm lý, hái trộm mận. 戈 HÁN VIỆT qua NGHĨA VIỆT Mác, vũ khí, chiến tranh TỪ GHÉP binh qua 兵戈 • can qua 干戈 • chỉ qua 止戈 • đảo qua 倒戈 • đầu qua 投戈 • qua giáp 戈甲 • tham qua 探戈. Chữ QUA戈 là một chữ tượng hình mô tả lại hình một cái mác. Đây là vũ khí rất thông dụng của binh lính Trung Quốc cổ đại. Với rất nhiều ưu điểm như có thể đâm, móc, bổ,…Vì vậy nó được sử dụng rất nhiều. Cũng như chữ KIM 金 được người xưa sử dụng để đại diện cho các loại kim loại, chữ QUA 戈 cũng được dùng để đại diện cho các binh khí khác. Mặt khác, cả CAN 干và QUA 戈đều là binh khí sử dụng để chiến đấu, nên cả hai chữ này cũng đại diện cho nghĩa là chiến tranh như trong từ can qua干戈 (giáo mác, chỉ việc binh đao, hay chiến tranh). 果 HÁN VIỆT Quả NGHĨA VIỆT Trái cây, kết quả TỪ GHÉP chính quả 正果 • hậu quả 后果 • kết quả 结果 • nhân quả 因果 • quả báo果報. Chữ QUẢ果là một chữ tượng hình, miểu tả một cái cây với rất nhiều quả ở trên đó. Trung Quốc cổ đại là một nước nông nghiệp, việc thu hoạch trái cây có thể được xem là kết quả của quá trình chăm sóc cây trồng, đó là lý do tại sao果cũng chứa ý nghĩa là kết quả. 官 HÁN VIỆT Quan NGHĨA VIỆT Quan, quan phủ, quan chức,… TỪ GHÉP bá quan 百官• bãi quan 罷官 • bản quan 板官. Chữ Quan官 là chữ hội ý kết cấu trên dưới, phần trên là bộ miên, là biểu tượng của mái nhà. Phần dưới là chữ Phụ峊,chữ峊trong giáp cốt văn hình dạng giống như bậc đá trên vách núi cao, dùng biểu thị địa thế) phát triển thành nghĩa là gò đất là điểm dừng chân khi người ta leo núi để đi săn bắt và hái lượm. Đường Hán cho rằng, người xưa, trongquá trình xa nhà đi săn bắn chủ yếu dựa vào đôi chân, khi mỏi gối chồn chân thì cần có điểm dừng. Chữ Quan vốn cũng có nghĩa là túp lều tạm làm nơi dừng chân nghỉ ngơicủa người dân trên đường đi săn bắn. Sau đó phát triển nghĩa thành lều trại dã chiến, và sau đó tiếp tục phát triển thành quan phủ, quan chức.. Trong Tân hiện đại Hán ngữ từ điển giải thích, quan là một chữ hội ý , gồm miên (nhà) phần dưới có nghĩa là đông người. Tính chất hội ý đó thể hiện ý nghĩa là nơi quản lý dân, nghĩa gốc là quan phủ, là nơi làm việc công. 光 HÁN VIỆT Quang NGHĨA VIỆT Ánh sáng TỪ GHÉP dạ quang 夜光 • điện quang 電光 • hào quang 豪光. Chữ QUANG 光là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bên trên ⺌ là biến thể của bộ HỎA 火 (ngọn lửa), bên dưới là bộ NHI 儿 (người, đứa trẻ). Tính chất hội ý của chữ QUANG光 là: một người đang cầm bó đuốc sáng rực trên tay. Chữ QUANG光khắc họa lại cảnh sống của con người thời nguyên thủy, khi mà khoa học chưa phát triển, khi mà lửa là một trong những nguồn năng lượng thiết yếu nhất của con người. Chữ QUANG光 từ dạng giáp cốt tới triện văn, đều biểu thị bằng hình một người đang cầm bó đuốc trên tay, hình dạng người đang hơi khom lưng xuống, điều này biểu thị ý nghĩa là đang đi trong hang động, chỗ chật hẹp, nơi thiếu ánh sáng và tối tăm. Con người thời nguyên thủy với nhu cầu tìm chỗ trú ẩn mới bắt buộc họ phải khai phá các hang động khác để mở rộng phạm vi chỗ ở. Đồng thời, mọi sinh hoạt trong gia đình, thị tộc đều cần đến ánh sáng. Lửa giúp xua đuổi thú dữ, làm chín thức ăn và cung cấp ánh sáng cho con người. 广 HÁN VIỆT quảng, Nghiễm, yểm NGHĨA VIỆT Mái nhà, rộng DẠNG KHÁC 廣 TỪ GHÉP Bộ thủ cấu tạo chữ. Xuất hiện rất thường xuyên. Chữ QUẢNG/NGHIỄM广là một chữ tượng hình, mô tả hình ảnh của một ngôi nhà lớn với một bên mái bị khuyết. Với ý nghĩa là ngôi nhà sẽ trông rộng hơn nếu nó không bị che phủ bởi phần mái. 广là hình thức đơn giản hóa của廣, Ngày nay, thỉnh thoảng ta vẫn gặp quảng với vai trò chữ đơn tạo từ ghép, chúng xuất hiện thường xuyên hơn với vai trò bộ thủ. 君 HÁN VIỆT Quân NGHĨA VIỆT Vua, chồng,… TỪ GHÉP bạo quân 暴君 • chư quân 諸君 • hôn quân 昏君 • Chữ 君 Quân là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, phần trên là biểu tượng của bàn tay cầm quyền (chữ 尹 Doãn cũng có nghĩa là cai trị), nét phẩy là biểu tượng của ngọn roi, cũng chính là quyền lực uy phong, tri thức và phẩm hạnh của đấng minh quân giữ trọng trách trị vì thiên hạ. Bộ 口 (miệng) bên dưới biểu thị sự sai khiến bằng mệnh lệnh. Kết hợp hai yêu tố trên và dưới, cùng thể hiện một ý nghĩa: đấng minh quân là người dùng quyền uy sai khiến, trị vì thiên hạ, chỉ cần lên tiếng mà chưa cần ra tay. Đó là thứ quyền uy của người đức cao vọng trọng, đứng đầu muôn dân. “Trì trượng động khẩu giả, quân dã” (người cầm gậy, lên tiếng sai bảo chính là quân vương) là cách định nghĩa ngắn gọn nhất mà cũng đầy đủ nhất về đấng quân vương. Về đạo làm vua hay nói rộng hơn là thuật lãnh đạo cổ nhân quan niêm phải cai trị bằng nhân nghĩa, bằng cách giáo dục quần chúng. Khổng Tử nói: "Dùng mệnh lệnh pháp luật để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vậy có thể giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân thì dân sẽ hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, sẽ cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ tư tưởng”. Về đạo đức người lãnh đạo, sách Đại Học có câu: "Đức là gốc, tài sản là ngọn. Nếu như bỏ gốc mà lấy ngọn, thì sẽ tranh lợi với dân, cướp bóc dân. Nếu ở trên phản lại lòng dân, chỉ biết phát ra những mệnh lệnh trái lẽ, chỉ lo tích tụ tài sản châu báu ngọc ngà, thì dân chúng sẽ đối xử lại bằng những điều phản nghịch, khiến cho triều đình ngày một khánh kiệt". Khổng Tử nói "Người bề trên coi trọng lễ thì lãnh đạo dân chúng rất dễ” Trong quan hệ cấp trên với cấp dưới thì quan điểm của Khổng Tử là "Người bề trên đối với kẻ dưới không khoan dung rộng lượng, chấp hành lễ không nghiêm túc kính cẩn, cử hành tang lễ không đau buồn, thương xót, làm sao ta có thể chịu được ?”. Quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới không phải là quan hệ một chiều. Tử Lộ hỏi về đạo thờ vua, Khổng Tử nói "Không được lừa dối vua. Nhưng nếu vua sai lầm, phải hết sức khuyên can dù phải xúc phạm đến vua. Thuật lãnh đạo của Nho giáo đề cao những lãnh đạo biết quý trọng tài năng, biết dùng người. Vua Vệ Linh Công là người vô đạo nhưng không bị diệt vong theo Khổng Tử "bởi vì nước Vệ có Trọng Thúc Ngữ giỏi việc ngoại giao tiếp đãi tân khách, Chúc Đà quản lý tốt việc tế lễ tông miếu, Vương Tôn Giả giỏi thống lĩnh quân đội. Biết dùng người như vậy thì làm sao mà mất nước được?”. Nên dùng người nghiêm túc, cẩn thận, biết lo lắng, mưu tính khi đối mặt với công việc để đạt thành công. Nho giáo xem hiền tài là nguyên khí quốc gia, vì vậy "Phát hiện người có tài đức mà không đề bạt cất nhắc hoặc không trọng dụng, đây là khinh rẻ người có tài đức vậy. Người lãnh đạo phải có học vấn mới thực hiện tốt công việc của mình. Bậc đại trí như vua Thuấn là người ham hỏi han, để tâm suy xét cả những lời thiển cận bình thường, bỏ qua cho những ai bày tỏ điều gì xấu, tán dương những ai nêu lên được điều gì tốt đồng thời chọn lấy cái ở giữa mà thi hành. Điều quan trọng nhất trong việc cai trị thiên hạ là lễ nhạc, luật lệ và văn tự. Nếu nắm vững ba điều này thì ít phạm sai lầm. Sách Trung Dung đưa ra 9 nguyên tắc lớn trong đạo trị quốc là: * Tu dưỡng bản thân thì đạo đức được xác lập. * Tôn trọng hiền tài thì không bị mê hoặc, ngu tối. * Yêu quý thân tộc thì chú bác, anh em không oán hận. * Kính trọng đại thần thì công việc ít phạm sai lầm. * Săn sóc quần thần thì kẻ sĩ tận lực báo đáp. * Quan tâm đến dân thì dân chúng thực hiện tốt mọi điều bề trên đề ra. * Khuyến khích bách nghệ phát triển thì vật dụng, hàng hóa buôn bán đủ đầy, sung túc. * Trọng đãi người nước ngoài đến nước mình làm ăn sinh sống thì bốn phương quy thuận. * Vỗ về chư hầu thì khắp thiên hạ sẽ kính phục. 軍 HÁN VIỆT quân NGHĨA VIỆT Binh lính, bộ đội DẠNG KHÁC 军 TỪ GHÉP đầu quân 投軍 • hải quân 海軍 • hành quân 行軍 • không quân 空軍 • liên quân 聯軍 • loạn quân 亂軍 • lục quân 陸軍 QUÂN 軍là một chữ Hình Thanh, QUÂN 軍 vốn do bộ XA 車 chỉ ý kết hợp với QUÂN 匀 chỉ âm tạo thành; sang tiểu triện được viết thành BAO (勹) và diến tiến dần thành bộ MỊCH 冖. XA車 ở đây là QUÂN XA đại diện cho vũ trang nên軍là Lính, là thuộc về Quân đội. Ta có các từ quen thuộc như:QUÂN Y 軍醫, QUÂN PHỤC 軍服, QUÂN HÀM 軍銜, QUÂN XA 軍車, và các thành ngữ thường gặp như: THIÊN QUÂN VẠN Mà 千軍萬馬 : Chỉ rất nhiều quân lính (không phải chỉ nhiều ngựa, mặc dù THIÊN QUÂN là chỉ có Một Ngàn lính thôi, nhưng VẠN Mà là tới Mười Ngàn con ngựa) Trong chốn "THIÊN QUÂN VẠN MÃ": là Trong chỗ bị bủa vây bốn bề bởi rất nhiều quân lính (Vì ngày xưa kỵ binh cởi ngựa nên nói thế, chớ ngày nay kỵ binh chỉ cởi... thiết giáp thôi!) KHAO THƯỞNG TAM QUÂN 犒賞三軍: Nghĩa đã rõ. Chỉ là ngày xưa Tam Quân là: Bộ Binh, Kỵ Binh và Thuỷ Binh; còn ngày nay Tam Quân là LỤC QUÂN 陸軍, HẢI QUÂN 海軍 và KHÔNG QUÂN 空軍. Lúc đón Kiều về sum họp, Từ Hải cũng đã : Tiệc bày Thưởng Tướng Khao Binh, Om thòm trống trận rập rình nhạc quân! HOÀNH TẢO THIÊN QUÂN 橫掃千軍: Hoành Tảo là Quét Ngang, như cây chổi quơ ngang quét hết, quét sạch. Chỉ chiến thuật thần tốc hiệu quả tiêu diệt sạch sẽ số lượng lớn quân địch như nhát chổi quét ngang. Trong Văn Thơ chỉ khí thế mạnh mẽ hùng tráng của thơ văn có sức mạnh đẩy lui được quân địch. Trong Thư Pháp là những nét bút mạnh mẽ dọc ngang phóng túng không bị gò bó. Trong nghề võ Hoành Tảo Thiên Quân là một chiêu thức của đường côn, đường roi, lưỡi giáo quét ngang mạnh mẽ và hiễm hóc để đẩy lui đối thủ. 國 HÁN VIỆT Quốc NGHĨA VIỆT Quốc gia, đất nước DẠNG KHÁC 国 TỪ GHÉP ái quốc 愛國 • anh quốc 英國 • báo quốc 報國. Chữ Quốc國 Chính thể bao gồm bộVi囗 tượng trưng cho bờ cõi, biên giới, chữ Qua (戈) tượng trưng cho quân đội cho khả năng bảo vệ đất nước, chữ “khẩu” (口) tượng trưng cho dân số và chữ “nhất” (一) tượng trưng cho sự đoàn kết thống nhất. Do đó nó được gọi là “Quốc gia” (國). Ngày nay, chữ giản thể cho từ “quốc gia” là (国) bao gồm bộ Vi口và bộ Ngọc (玉), bỏ qua yếu tố con người (trong khi dân là bộ phận quan trong nhất trong bộ máy nhà nước). Ngụ ý đơn giản của chữ国là chỉ của cải và quyền lực vô tình đã làm mất đi vẻ đẹp ý nghĩa ban đầu của chữ Quốc. 龜 HÁN VIỆT Quy, quân, cưu, khưu NGHĨA VIỆT Con rùa DẠNG KHÁC 龟 TỪ GHÉP Ô quy烏龜• kim quy金龜•quy bản 龜板 • quy bối 龜背 • quy cước 龜脚 • quy gia 龜家 • quy trảo 龜爪 • quy tử 龜子 • quy xác 龜殼 QUY 龜 là chữ Tượng Hình, từ Giáp Cốt Văn cho đến Kim Văn Đại Triện đều là hình tượng của con rùa được vẽ rất rõ ràng. Cho đến Tiểu Triện đã hình thành chữ viết hẵn hoi rồi, nhưng vẫn còn thấy được mang máng hình dáng của con rùa, nên QUY 龜 là từ chỉ chung các loại Rùa, Ba Ba, Đồi Mồi, Cua Đinh... RÙA cũng là một trong Tứ Linh: Long Lân QUY Phụng. Rùa có rất nhiều chủng loại, nhưng ta chỉ phân biệt 2 loại trong văn học là: KIM QUY 金龜: Rùa Vàng và Ô QUY 烏龜: Rùa Đen. KIM QUY 金龜 : Rùa Vàng, tượng trưng cho vinh hoa phú quý. Theo Sử Ký, vào đời Hán làm quan từ Ngũ phẩm trở lên đến các Tướng quân, Thừa Tướng, Chư Hầu... ấn tín đều có đúc một con Rùa Vàng ở bên trên tay cầm. Đến đời Đường rùa vàng được thêu trên các túi gấm đeo bên mình của các quan từ Tam phẩm trở lên, nên Rùa Vàng là biểu tượng của quyền qúy giàu sang, từ đó ta có thành ngữ: KIM QUY TẾ 金龜婿: Có nghĩa là Chàng rể qúy, cũng có nghĩa là Có chồng giàu sang, và lại phát sinh thêm thành ngữ: ĐIẾU KIM QUY 釣金龜: là Câu Rùa Vàng, tức là tìm cách để có được một tấm chồng giàu sang quyền qúy. Hai thành ngữ nầy vẫn còn rất thông dụng đến hiện nay. KIM QUY TẾ hiện nay chính là các Bác sĩ, Kỹ Sư, Thạc Sĩ, Tiến Sĩ... đó vậy. Ô QUY 烏龜 : Rùa Đen, chỉ sự xui xẻo, hết thời, nhục nhã hèn hạ... Ô QUY còn dùng để chỉ những ông chồng bị vợ cấm sừng. Quy NÔ 龜奴 hoặc QUY TỬ 龜子 dùng để chỉ Chồng của các Tú Bà hay các Ma Cô bảo vệ kỹ nữ trong các kỹ viện. Đọc truyện võ hiệp của Kim Dung hay nghe câu chưởi: "Lũ Rùa Đen rút đầu hèn nhát trốn hết cả rồi!" Tuy nhiên, trong Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu: Cận lai học đắc Ô QUY pháp, 近來學得烏龜法, Đắc súc đầu thời thả súc đầu. 得縮頭時且縮頭. Có nghĩa : Gần đây học được cách của con rùa đen là... Khi nào cần rút đầu thì hãy rút đầu lại! Ý nói : Con người cần phải biết tùy thời mà xử sự! 愧 HÁN VIỆT Quý NGHĨA VIỆT Hổ thẹn, Xấu hổ, làm nhục… DẠNG KHÁC 媿 TỪ GHÉP bão quý 抱愧• quý hãn 愧汗 Chữ “Quý” (愧) nghĩa là hổ thẹn, bao gồm bộ “Tâm” (忄) là tim, và chữ “Quỷ” (鬼) nghĩa là ma quỷ. Con người ai cũng có hai mặt thiện và ác, có Phật tính và ma tính, có thiện tâm và ma tâm. Nếu thiện tâm làm chủ thì đó là người tốt, còn nếu ma tâm làm chủ thì chẳng phải đó sẽ là người xấu sao? Có câu cổ ngữ rằng: “Không làm việc hổ thẹn với lòng mình thì không sợ ma quỷ gọi cửa”. Người làm những việc xấu xa, lừa người hại người, thì cũng chính là trong tâm sinh ma quỷ, không cần ma quỷ gọi cửa thì anh ta cũng không thể sống thoải mái thanh thản được. Người xưa nói: “Ngẩng mặt không hổ thẹn với Trời, cúi đầu không tủi thẹn với Đất”. Như vậy, làm người thì tâm chí cần phải quang minh lỗi lạc, không nên làm điều gì hổ thẹn với lương tâm mà để lại nỗi ân hận suốt đời. Chữ nghĩa của người xưa luôn hàm súc, phong phú và sâu sắc. Thông qua chữ “Quý”, cổ nhân muốn nhắn nhủ chúng ta rằng làm người phải thẳng thắn chân thật không lừa dối thì trong tâm mới không có ma quỷ. 軌 HÁN VIỆT Quỹ NGHĨA VIỆT Đường ray, quỹ đạo, phép tắc TỪ GHÉP cao quỹ 高軌 • quỹ đạo 軌道 • quỹ độ 軌度 • quỹ mô 軌模 • quỹ tắc 軌則 QUỸ軌 về cấu tạo thuộc dạng chữ Hình Thanh, bao gồm bên trái là bộ XA 車chỉ ý và bên trái là bộ CỬU 九 (số 9) chỉ âm đọc. XA 車 là chữ tượng hình miêu tả một cái xe nên QUỸ 軌 vốn là khoảng cách giữa 2 bánh xe ngày xưa, khoảng 8 thước. Sau này 軌 dùng để chỉ cái Trục giữa 2 bánh xe gọi là XA TRIỆT 車轍. QUỸ 軌 còn có nghĩa là Vòng quay hoặc là con đường nhất định đã được vạch sẵn, gọi là Quỹ Đạo軌道. Như Quỹ Đạo của mặt trăng quay quanh địa cầu. Quỹ Đạo còn có nghĩa là Đường Ray xe lửa. Đi sai Quỹ Đạo ta nói là "Đi trật đường ray", làm không đúng con đường đã được vạch sẵn ta gọi là "Đi trật đường ray" 沙 HÁN VIỆT Sa NGHĨA VIỆT Cát, bãi cát TỪ GHÉP phù sa 浮沙• sa mạc 沙漠 • sa trường 沙場. Chữ SA沙về mặt cấu tạo là một chữ Hội Ý có kết cấu trái phải, bao gồm bên trái là bộ THỦY氵(nước), Bên phải là chữ THIỂU少 (thiếu, ít). Tính chất hội ý của hai bộ thủ cấu tạo nên chữ SA (THỦY + THIỂU) là trên dòng sông, chỗ nào ít nước thì cát sẽ lộ ra. Trong kim văn và triện văn chữ SA 沙 là hình một dòng sông với một cồn cát bên phải, biểu thị cho chỗ đã khô cạn, không có nước để lộ ra cồn cát. 冊 HÁN VIỆT sách NGHĨA VIỆT Sách, sổ DẠNG KHÁC 册 TỪ GHÉP chú sách 註冊 • danh sách 名冊 • sách mệnh 冊命 • thủ sách 手冊. Chữ SÁCH冊là một chữ tượng hình, trong giáp cốt văn nó mô tả một hình thức cổ xưa của một cuốn sách, cuốn sách này được hình thành bởi các tấm thẻ tre được kết lại với nhau thành một chuỗi. 彳 HÁN VIỆT Sách, xích NGHĨA VIỆT Bước chân trái TỪ GHÉP Bộ thủ tạo chữ hán. Chữ SÁCH彳là một chữ tượng hình, là phần bên trái của hành行. 行có nghĩa là bước ngắn, bước chân trái gọi là sách彳, bước chân phải gọi là xúc亍, hợp 彳 với 亍 lại thành ra chữ hành行. Chữ 彳 xuất hiện rất thường xuyên với vai trò bộ thủ tao chữ hán. 床 HÁN VIỆT sàng NGHĨA VIỆT Cái giường, tấm phản TỪ GHÉP điếu sàng 弔床 • đồng sàng các mộng 同床各夢 • đồng sàng dị mộng 同床異夢. Chữ TƯỜNG床trong giáp cốt văn là một chữ tượng hình, miêu tả bằng hình ảnh giống như chữ tường爿 , Chữ 爿 có nghĩa là một nửa cây gỗ bị cắt ra, dùng làm vật để nằm hoặc để đồ vật lên trên ( xem lại chữ tường爿) Ở dạng khải thư, 床 là một chữ hội ý, gồm nghiễm广(mô tả một ngôi nhà chỉ có một bức tường, có nghĩa là một ngôi nhà lớn) và bộ mộc木. Người Trung Quốc cổ đại ngồi trên sàn nhà, họ không có đồ nội thất bằng gỗ lớn, đồ nội thất bằng gỗ lớn duy nhất là giường, vì vậy được sử dụng để thể hiện ý nghĩa của chiếc giường. 創 HÁN VIỆT Sáng NGHĨA VIỆT Mới, bắt đầu DẠNG KHÁC 创 TỪ GHÉP khai sáng 開創 • sáng chế 創制sáng kiến 創建 • sáng lập 創立sáng tác 創作 • sáng tạo 創造. Chữ SÁNG創 là một chữ hội ý kiêm hình thanh gồm chữ THƯƠNG倉 (cái kho) và bộ ĐAO刂 (con dao) tạo thành. Âm cang của chữ THƯƠNG và chuang của chữ SÁNG gần giống nhau (có thể coi đây là chữ hình thanh). Theo một số học giả, chữ SÁNG 創 thể hiện ở sự khám phá, mở kho tìm ra báu vật được cất giấu. Chữ THƯƠNG 倉 là cái kho nơi tàng trữ vật phẩm quý giá. Nếu kho không được mở báu vật chỉ mãi ở dạng tiềm tàng. Kho ở đây không có cửa, không có chìa khóa để mở một cách dễ dàng. Người ta phải dùng dao mở kho để lấy báu vật ra,. Vì thế có thể hiểu chữ SÁNG創nghĩa là sự khởi đầu. Trong những từ sáng lập, sáng chế đều thể hiện ý nghĩa là người đầu tiên tạo ra sự vật mà trước đó chưa từng có, chưa từng được công bố. 索 HÁN VIỆT Sách NGHĨA VIỆT Sợi dây TỪ GHÉP yêu sách 要索 Chữ SÁCH索 (dây) là một chữ tượng hình. Trong giáp cốt văn, hình dạng chữ giống như một sợi dây thừng được kết bởi những sợi gai, phía trên và phía dưới là phần thừa sau khi sợi dây đã được kết lại. Hình chữ sau biểu thị sợi dây thừng được dùng tay để kết lại. Kết dây thừng là công việc đơn giản nhất, có thể coi là bước đầu của ngành đan dệt cổ đại. Trong xã hội nguyên thủy, tác dụng chủ yếu của dây thừng là dùng để săn bắn. Người ta đan dây thừng thành những túi lưới để đựng đá, trong lúc đi săn, chỉ cần ném túi đá về phía dã thú là có thể thu được lợi phẩm. 殺 HÁN VIỆT Sát, sái, tát, ái NGHĨA VIỆT Giết chết DẠNG KHÁC 杀 TỪ GHÉP ám sát 暗殺 • cố sát 故殺• đồ sát 屠殺 • mưu sát 謀殺 • ngộ sát 誤殺, sát hại 殺害. Chữ SÁT殺là một chữ Hội Ý kiêm Hình Thanh. Thật ra, chỉ riêng chữ杀cũng đã có nghĩa là giết chết. Trong giáp cốt văn 杀 miêu tả một vật sắt nhọn xuyên qua đầu một con thú với cái đuôi rũ xuống, hình ảnh cái đuôi rũ xuống hàm ý con thú này đã chết. Từ chữ tiểu triện về sau, người ta thêm vào bộ THÙ 殳 (một loại vũ khí) để nhấn mạnh cái chết được gây ra bởi vũ lực. 森 HÁN VIỆT Sâm NGHĨA VIỆT Rừng rậm, sum suê, rậm rạp, đông đúc,… TỪ GHÉP Tiêu sâm 蕭森 • sâm lâm 森林 • sâm lâm học 森林學 Chữ SÂM森 được tạo thành từ 3 bộ mộc 木 (cây cối) với ý nghĩa là rậm rạp, sum suê, hay đông đúc...Hầu hết các chữ được tạo thành từ 2 hoặc 3 bộ giống nhau là các chữ Hội ý (theo Lục thư) và thường là rất dễ nhớ (姦 gian, 轟 oanh...). “Một MỘC chỉ mới là cây Hai MỘC ghép lại trồng cây gây rừng Thêm MỘC ở phía lưng chừng Chữ SÂM rậm rạp khu rừng âm u”. 超 HÁN VIỆT Siêu NGHĨA VIỆT Nhảy, vượt qua, vượt mức TỪ GHÉP siêu cấp 超級 • • siêu nhân 超人 • siêu nhiên 超然 • siêu phàm 超凡 • siêu thoát 超脫 • siêu việt 超越 SIÊU超 là chữ Hình Thanh bao gồm bên trái là bộ TẨU走biểu nghĩa và bên phải là chữ TRIỆU召 chỉ âm. TẨU走 là chữ tượng hình miêu tả một người đang dang hai tay hai chân như đang chạy ở phía trên, bên dưới là hình chữ CHỈ 止 là cái Dấu Chân, chữ TẨU 走nghĩa là CHẠY . Cho nên, với bộ TẨU走 biểu nghĩa SIÊU超 có nghĩa là nhảy vọt, là vượt qua, là vượt trội như: SIÊU TỐC 超速 : là Vượt qua tốc độ bình thường. SIÊU THANH 超聲 : là Vượt qua tốc độ của âm thanh. SIÊU QUẦN 超群 : là Người vượt trội nhất trong đám đông. SIÊU QUẦN XUẤT CHÚNG 超群出眾 : hay Siêu Quần Bạt Tuỵ đều có nghĩa là: Vượt hẵn lên trên mọi người chung quanh một cách xuất sắc, hơn hẵn mọi người! SIÊU CẤP 超級: là Vượt lên trên cấp độ bình thường. SIÊU CẤP THỊ TRƯỜNG 超級市場: Ta thường gọi tắt là SIÊU THỊ, trong đó có tất cả thực phẩm, vật dụng cho nhà bếp cho gia đình, kể cả quần áo và đồ trang sức đều đầy đủ cả! SIÊU NHÂN 超人 : là Người có khả năng vượt trội hơn tất cả người thường, là Superman! SIÊU ĐỘ 超度 : là Độ cho vượt qua tất cả các A Tì Địa Ngục để được đi đầu thai mà không phải làm ngạ quỷ 愁 HÁN VIỆT Sầu NGHĨA VIỆT Buồn bã TỪ GHÉP sầu bi 愁悲 • sầu cảm 愁感 • sầu lệ 愁淚. Chữ THU 秋 kết hợp với chữ TÂM 心 tạo thành chữ SẦU愁 với kết cấu trên dưới, tính chất hội ý của nó là tình thu, ý thu. Trong niềm vui mùa về, người ta không khỏi có chút bâng khuâng vương vấn trước khoảnh khắc giao mùa. Với những nước khí hậu nhiệt đới , một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mùa hạ nóng nực qua đi cho mùa đông lạnh giá tới. Giữa khoảng hạ chí và đông chí sẽ là mùa thu mát mẻ. Mùa thu đến bất chợt với không gian mát mẻ, bầu trời như cao xanh hơn, nước như trong hơn. Vương Bột trong bài Đằng vương các tự đã miêu tả mùa thu bằng mười bốn chữ, “ lạc hà giữ cô vụ tề phi, thu thủy công thường thiên nhất sắc”. Mười bốn chữ miêu tả ngắn gọn, đầy hình ảnh chan chứa tình, thu về với bao cảm xúc. Không gian như rộng mở, con người càng cảm thấy nhỏ nhoi trống trải, vì vậy mà đượm buồn. Cũng có lẽ vì thế mà trong thơ ca, mùa thu, nhất là chiều thu thường là hình ảnh ước lệ để diễn tả tâm trạng bâng khuâng, nỗi buồn man mác của con người. 士 HÁN VIỆT Sĩ NGHĨA VIỆT Học trò, quan, đàn ông chưa vợ,… TỪ GHÉP ẩn sĩ 隱士 • bần sĩ 貧士 • biện sĩ 辯士 • binh sĩ 兵士 • chiến sĩ 戰士. Theo lý giải của các chuyên gia ngôn ngữ chữ SĨ士trong kim văn là một chữ tượng hình, hình dung bộ phận sinh dục của con đực, cũng chính là dạng thể ban đầu của chữ MẪU牡(con đực). Sau dùng để chỉ đặc trưng về giới của người đàn ông theo nguyên tắc giả tá. Khi có chiến tranh, những người đàn ông khỏe mạnh, cường tráng phần lớn đều ra trận. Do đó chữ SĨ thường đi với chữ TỐT卒 (lính) trong từ sĩ tốt hay sĩ khí (khí thế của binh sĩ). Về sau, trong quân đội có chia ra làm các bậc như trung sĩ, thượng sĩ, hạ sĩ…tất cả các chữ này đều có liên quan đến ý nghĩa gốc ban đầu của chữ SĨ. Ngoài những nghĩa có liên quan đến quân sự chữ sĩ còn dùng để chỉ tầng lớp giữa, sau hàng khanh đại phu và trước thứ dân. Nói đến tứ dân trong xã hội cũ, người ta thường nhắc đến sĩ dân士民, thương dân 商民 , nông dân 农民và công dân工民trong đó SĨ đứng hàng đầu. Trong tiếng việt cũng có câu “nhấtsĩ nhì nông”. Và như vậy chữ SĨ dùng để chỉ người có học thức, biết văn biết võ. Trong tiếng hán hiện đại chữ SĨ còn phát triển thành hậu tố chỉ những người có tri thức, có trình độ học vấn nhất định trong lĩnh vực nào đó như bác sĩ, tiến sĩ, học sĩ… 生 HÁN VIỆT Sinh NGHĨA VIỆT Sinh ra, sống TỪ GHÉP chúng sinh 眾生 • cứu sinh 救生 • cửu tử nhất sinh 九死一生 • dân sinh 民生. Có khá nhiều quan điểm về nguồn gốc hình thành chữ SINH生, ở đây xin đưa an đưa ra hai quan điểm. Thứ nhất, chữ SINH生là chữ hội ý kết cấu đan xen, bao gồm bộ NHÂN人 (con người) và bộ THỔ土hợp lại mà thành. Tính chất hội ý của chữ SINH生là con người sinh ra và lớn lên từ đất. Trong truyền thuyết về Nữ Oa tạo ra con người ( nữ thần thủy tổ của thần thoại trung quốc) và “Sáng thế ký” của người Công giáo có một điểm chung là “đắp đất tạo người”, Con người được tạo ra từ đất. Điều này làm rõ quan điểm của người xưa, con người sinh ra từ cát bụi, sau này chết đi cũng trở về cát bụi. Quan điểm thứ hai căn cứ vào hình dạng chữ cổ. Trong giáp cốt văn đến triện văn, chữ SINH được biểu thị là hình ảnh một mầm cây mọc lên trên mặt đất, nét phẩy xuất hiện sau này biểu trưng cho chiếc lá cây, cũng có thể hiểu là hướng mà cây sẽ phát triển sẽ là hướng lên trên. Tính chất hội ý của chữ SINH là cây cỏ sinh trưởng và phát triển trên mặt đất. Ngoài nghĩa SINH là SỐNG ra, SINH còn có nghĩa là được SANH RA, như SINH SẢN 生產 (được Làm ra), SINH DỤC 生育 (được Đẻ ra)... Chỉ tồn tại hiện hữu như SINH HOẠT 生活 (Sống động, Hoạt động), SINH TRƯỞNG 生長, SINH TỒN 生存, SINH ĐỘNG 生動 ... Chỉ mạng sống của người, vật, như SINH MỆNH 生命, CHÚNG SINH 眾生, VỆ SINH 衛生 (Bảo vệ cuộc sống)... Chỉ cả một cuộc đời người, như BÌNH SINH 平生, NHẤT SINH 一生 (Cả đời), KIM SINH 今生 (Cuộc đời nầy, Kiếp nầy). Ta nhớ lại một câu kệ trong kinh Phật là : Dục tri tiền thế nhân, KIM SINH thụ giả thị; 欲知前世因,今生受者是; Dục tri lai thế qủa, KIM SINH tác giả thị. 欲知來世果,今生作者是 . Có nghĩa : Muốn biết cái nhân của kiếp trước, thì hãy xem sự thụ hưởng của KIẾP NẦY; Muốn biết cái hậu qủa của kiếp sau, thì hãy xem việc làm của KIẾP NẦY. SINH 生 còn chỉ những hoạt động để duy trì cuộc sống, như SINH KẾ 生計 là Cái Kế sách, nghề nghiệp, việc làm để duy trì cuộc sống; SINH Ý 生意 là Làm ăn Buôn Bán. SINH 生 còn có nghĩa là xảy ra, là PHÁT SINH 發生, như SINH BỆNH 生病 là Mắc bệnh, là Bị Bịnh. SINH KHÍ 生氣 : Có 2 nghĩa : a). Không khí sống động, vui tươi. b). Nổi giận, Hờn dỗi. SINH 生 còn chỉ Cây trái còn xanh, chưa chín, chưa tinh luyện, như : SINH QỦA 生果 là Trái cây còn sống. SINH NHỤC 生肉 là Thịt chưa nấu chín. SINH THIẾT 生鐵 là Sắt Thô chưa được tinh luyện. SINH 生 là LẠ, Chưa Quen, như SINH KHÁCH 生客 là Người Khách Lạ, MẠCH SINH 陌生 là Lạ Hoắc, SINH SƠ 生疏 là Lạ Lẫm, ta có thành ngữ: NHÂN ĐỊA SINH SƠ 人地生疏 là Đến xứ người nên đâm ra lạ lẫm ngỡ ngàng. SINH 生 là Học Trò, như HỌC SINH 學生, THƯ SINH 書生, NHO SINH 儒生 ... Người được sinh ra trước Học Trò, gọi là TIÊN SINH, nên TIÊN SINH 先生 là Ông Thầy, là Cô Giáo. Trong phép lịch sự xã giao hàng ngày, thì TIÊN SINH có nghĩa là ÔNG, là NGÀI. SINH 生 là Vai Kép Trẻ trong hát Bội ( Bộ ), thường được gọi là TIỂU SINH 小生, Vai gìa thì gọi là LÃO SINH 老生. TIỂU SINH 小生 : Còn có nghĩa là Tên học trò nhỏ, như trong câu đối của quan Đốc Học ra cho chàng thư sinh cao ngạo Cao Bá Quát như sau : Nhĩ TIỂU SINH hà xứ đắc lai, cảm thuyết Trình Chu sự nghiệp ? 爾小生何處得來,敢說程朱事業? Có nghĩa : Ngươi là tên Học Trò Nhỏ ở đâu đến đây, mà dám nói đến sự nghiệp của Trình Y Xuyên và Chu Hy chứ?! Thấy giọng điệu sấc láo của quan Đốc Học, Cao Bá Quát đã đối lại với thái độ cũng không kém phần sấc láo : Ngã quân tử kiến cơ nhi tác, dục vi Nghiêu Thuấn quân dân! 我君子見機而作,欲為堯舜君民 ! Có nghĩa : Ta là người quân tử tùy thời cơ mà làm, muốn cho vua và dân đều như ở dưới thời Nghiêu Thuấn! Cuối cùng SINH 生 cũng là một trong Bách Gia Tính (trăm họ): Họ SINH. Như SINH DỤNG HÒA 生用和 tri huyện huyện Đồng Hương tỉnh Chiết Giang đời Minh. SINH TÁC MAI 生作梅 là danh y đời Khang Hy, nổi tiếng với thuốc cao tiếp xương cốt bị gãy. 牲 HÁN VIỆT Sinh NGHĨA VIỆT Sinh vật, Vật tế thần TỪ GHÉP hy sinh 牺牲, sinh sát 牲殺• sinh súc 牲畜. Chữ SINH牲là một chữ hình thanh kết cấu trái phải, gồm bên trái là NGƯU牛 (con trâu) biểu nghĩa, bên phải là chữ SINH生biểu âm. Chữ SINH ngoài ý nghĩa chính là chỉ các loài sinh vật còn có một nghĩa khác là chỉ động vật dùng để cúng tế. Trong nghi thức tế lễ thần linh ngày xưa, trâu và dê là hai con vật được lựa chọn hàng đầu làm lễ phẩm. Những con vật này được giết, lấy máu và đầu làm vật cúng tế. Những con vật được giết phải là những con khỏe mạnh. Người ta giết chúng làm lễ phẩm nhầm cầu nguyện cho quốc thái dân an, mua thuận gió hòa. Cái chết của những con vật dâng cúng có ý nghĩa thật sự lớn lao. 雙 HÁN VIỆT song NGHĨA VIỆT Đôi, cặp DẠNG KHÁC 双 TỪ GHÉP song đao 雙刀 • song mã 雙馬 • • song sinh 雙生. Chữ SONG雙là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, gồm bên trên là bộ THÙ 雔 (đôi chim), bên dưới là bộ HỰU 又 (tay). Chữ THÙ雔về cấu tạo cũng là một chữ hội ý gồm hai bộ CHUY隹 (con chim) ghép lại mà thành. Về hình thể chữ qua các thời kỳ từ kim văn đến khải thư gần như không có sự thay đổi, vẫn là hình ảnh đôi chim bên trên và bên dưới là hình một cánh tay. Tính chất biểu ý của hai bộ phận này là dùng tay để xua đuổi đôi chim. Đối với loài chim, con người là mối đe dọa đối với chúng. Vì thế chúng sẽ tìm cách bay đi khi thấy bóng dáng con người. Hình ảnh bàn tay đưa ra xua đuổi đối với chúng là sự thách, nhưng đôi chim trước sau vẫn là một cặp, không tách rời ngay cả trong lúc nguy hiểm. Nếu không có mối liên hệ nào giữa chúng thì lập tức chúng sẽ bay toán loạn, không cần quan tâm đến những thứ khác. Hình ảnh đôi uyên ương không tách rời, vẫn ở bên nhau ngay cả trong lúc nguy nan là cách giải nghĩa ngắn gọn nhất về ý nghĩa của chữ SONG雙 . 所 HÁN VIỆT Sở NGHĨA VIỆT Nơi, viện, sở, đồn TỪ GHÉP chẩn sở 診所 • công sở 公所 • cư sở 居所 • ngụ sở 寓所 • quân sở 軍所 • sở tại 所在. Chữ SỞ所 là một chữ hội ý kết cấu trái phải, được hợp bởi bộ HỘ戶 (cửa một cánh, nhà) và bộ CÂN斤 (cái rìu). Bộ戶ngoài nghĩa là cánh cửa ra còn nghĩa là nhà, bộ斤tượng trưng cho vũ khí. Tính chất hội ý của chữ所là chỉ nơi ra vào có lính canh giữ. Ngày xưa, tại những địa điểm quan trọng có quan tướng làm việc, những nơi này sẽ có quân lính canh gác bên ngoài, những người cần trình báo hay giải quyết một vấn đề nào đó thì phải qua cửa có lính canh, phải trình bày giấy tờ và lý do thì mới được lính canh cho vào. 獅 HÁN VIỆT Sư NGHĨA VIỆT Con sư tử TỪ GHÉP mãnh sư 猛獅 • sư tử 獅子 • sư tử hống 獅子吼 SƯ獅 là chữ Hình Thanh kết cấu trái phải, chữ bao gồm bên trái là bộ KHUYỂN chỉ ý kết hợp với chữ SƯ (sư đoàn, thầy) chỉ âm đọc. KHUYỂN 犬 ( 犭) là Chó, với hình thức 犭 khi ghép với chữ hoặc bộ khác thì nằm bên tay trái, như: CẨU 狗 là Chó, HỒ 狐 là Chồn, HẦU 猴 là Khỉ. Với KHUYỂN biểu nghĩa nên SƯ 獅 có nghĩa là con Sư tử là chúa tể đồng cỏ thỉnh thoảng vẫn được mệnh danh là Chúa Sơn Lâm cùng với Hổ. Múa Kỳ Lân, múa Sư Tử là những phong tục tập quán không thể thiếu trong ngày Tết Nguyên Đán của người Hoa và của cả người Việt Nam ta nữa. Sư và Hổ đều được tôn vinh là Chúa Sơn Lâm, là Vua của Núi Rừng. Sư Tử còn có một địa vị thật cao trong Phật Giáo, được xem như là một con vật của thần linh, như Đức Phật được tôn xưng là NHÂN TRUNG SƯ TỬ人中獅子, là Sư Tử trong loài người. Lời thuyết pháp của Phật gọi là SƯ TỬ HỐNG 獅子吼, là Tiếng gầm của con Sư Tử, vì khi Sư Tử gầm lên thì muôn thú đều im hơi lặng tiếng, tượng trưng cho lời thuyết pháp của Phật có thể cảnh tỉnh chúng sinh, trấn áp ưu phiền khổ não. Chỗ của Phật ngồi gọi là SƯ TỬ TỌA 獅子座. Trước cửa các chùa chiềng miếu mạo, hay có hình của 2 con Sư Tử đứng 2 bên để tượng trưng cho sự uy nghi hùng tráng, có tác dụng trấn thủ và bảo vệ. Hình tượng của Văn Thù Bồ Tác luôn luôn cởi trên một con Sư Tử. SƯ TỬ là biểu tượng của Pháp Lực, Trí Lực, Trấn áp tà ma. Đọc Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung, không ai có thể quên được "Kim Mao Sư Vương" Tạ Tốn với môn công phu "Sư Tử Hống" có thể làm rối loạn thần kinh của những đối thủ công lực còn non kém. Trong văn học thì không thể nào không biết đến "Sư Tử Hà Đông" của Trần Qúy Thường (hiệu là Long Khâu Cư Sĩ) rất giỏi văn chương, thích la cà với các cô kỹ nữ xinh đẹp, nhưng lại rất sợ vợ. Vợ là Liễu Nguyệt Nga con của một thế gia vọng tộc ở xứ Hà Đông. Qúy Thường là bạn của Tô Đông Pha đời Tống, đã bị Tô diễu cợt bằng bài thơ sau đây: 誰似龍丘居士賢, Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền, 談空談有夜不眠。 Đàm không đàm hữu dạ bất miên. 忽聞河東獅子吼, Hốt văn Hà Đông Sư Tử hống, 拄杖落手心茫然。 Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên! Có nghĩa: Có ai mà giỏi được bằng Long Khâu Cư Sĩ đâu?! Có thể đàm luận chuyện đời suốt đêm không ngủ. Nhưng ... Bỗng nghe tiếng rống của Sư Tử Hà Đông, thì... Giật mình hoảng hốt đến nỗi gậy rớt khỏi tay! Diễn nôm: Long Khâu Cư Sĩ giỏi ai bằng, Chuyện có chuyện không nói rất hăng. Chợt bỗng Hà Đông Sư Tử rống, Giật mình gậy rớt, hết còn... răng! Từ đó về sau... SƯ TỬ HÀ ĐÔNG trở thành bà vợ dữ, bà vợ hung ác, lấn lướt và "ăn hiếp" chồng! 師 HÁN VIỆT sư NGHĨA VIỆT Nhiều, đông đúc, sư (gồm 2500 lính), thầy giáo, sư thầy TỪ GHÉP ân sư 恩師• bốc sư 卜師 • • danh sư 名師 • dược sư 藥師 • đại sư 大師 • gia sư 家師 • giáo sư 教師 • kĩ sư 技師 • SƯ師 nguyên nghĩa là QUÂN ĐỘI. Trong Giáp cốt Văn 師 miêu tả một gò đất cao nơi thường được chọn làm nơi đóng quân của quân đội. Bắt đầu từ Kim Văn có thêm TAP帀 (Nguyên là chữ 匝.) có nghĩa là ‘một vòng xung quanh” biểu thị cho việc diễu binh, lại có thể hiểu là làm hàng rào bao quanh doanh trại. Sau này theo theo pháp giả táSƯ 師được dùng để chỉ nghĩa GIÁO SƯ ; LUẬT SƯ; PHÁP SƯ. SƯ là quân đội như: XUẤT SƯ出師 nghĩa là xuất QUÂN. TOÀN SƯ NHI HOÀN 全師而還có nghĩa là toàn QUÂN trở về. Phép nhà binh ngày xưa định cứ 2500 người gọi là một SƯ nên SƯ cũng có nghĩa là nhiều, đông đúc như chỗ đô hội trong nước gọi là KINH SƯ 京師 nghĩa là chỗ to rộng và đông người. SƯ là Thầy, thầy giáo. Ta có: GIÁO SƯ 教師 thầy dạy, ĐẠO SƯ 導師 bậc thầy hướng dẫn theo đường chính. Trong Luận Ngữ 論語có câu: “TAM NHÂN HÀNH, TẤT HỮU NGà SƯ YÊN 三人行, 必有我師焉 (Thuật nhi 述而) Ba người (cùng) đi, tất có người (có thể) làm thầy ta. Cha ông ta cũng có câu: “DƯỠNG BẤT GIÁO, PHỤ CHI QUÁ. GIÁO BẤT NGHIÊM, SƯ CHI ĐỌA" 養不教,父之過。教不嚴,師之惰。Có nghĩa: "Nuôi mà không dạy là lỗi của người cha. Dạy mà không nghiêm, là do sự biếng nhác của người Thầy." SƯ là Chuyên gia, nhà chuyên môn (sở trường về một ngành nghề). Như: HỌA SƯ 畫師 thầy vẽ, LUẬT SƯ 律師 trạng sư (thông hiểu về luật). SƯ là tiếng tôn xưng nhà tu hành, đạo sĩ. Như: PHÁP SƯ 法師: Thầy cúng, có phép thuật trừ ma quỷ — Vị tăng, thầy tu theo đạo Phật; THIỀN SƯ 禪師 :Vị tăng, người tu theo đạo Phật. 左 HÁN VIỆT Tả, tá NGHĨA VIỆT Bên trái TỪ GHÉP cực tả 極左 • tả biên 左邊 •道 • tả hữu 左右 • tả ngạn 左岸 • tả phái 左派 • tả xung hữu đột 左衝右突. Chữ TẢ左là một chữ hội ý mô tả một bàn tay với CÔNG工(một công cụ) bên cạnh nó. Người Trung Quốc cổ đại cho rằng tay phải quan trọng hơn trong số hai bàn tay vì nó mạnh hơn và nhanh nhẹn hơn, trong khi tay trái ít quan trọng hơn và được xem là trợ lý của tay phải. Công cụ là một trợ lý của con người vì vậy chữ工được thêm vào để thể hiện nó là tay trái hoặc tay trái hay bên trái. Mặt khác, 左cũng có nghĩa là hỗ trợ hoặc phụ giúp với âm đọc là “tá”, nhưng ý nghĩa đó sau nay đã được thay thế bằng 佐. 佐 HÁN VIỆT Tá NGHĨA VIỆT Phụ giúp TỪ GHÉP chứng tá 證佐 • phù tá 扶佐 • phụ tá 輔佐 • Chữ TÁ 佐 là một chữ hình thanh kiêm hội ý. Nếu hiểu là chữ hình thanh thì chữ TÁ bao gồm chữ NHÂN 亻bên phải có nhiệm vụ là thành phần biểu nghĩa, Chữ TẢ 左 (trái) có tác dụng biểu thị âm đọc. Tuy nhiên, bản thân chữ TẢ 左 có nghĩa là bên trái cũng có nghĩa là tay trái. Trong hai tay thì tay trái ít quan trọng hơn tay phải. Với các công việc cần thao tác nhanh và sức lực, người ta thường sử dụng bàn tay phải, vì ít quan trọng hơn nên người ta xem bàn tay trái là bàn tay phụ cho bàn tay phải. Như vậy chữ NHÂN 亻hợp với chữ TẢ左có nghĩa là người phụ, hay người trợ giúp. 謝 HÁN VIỆT Tạ NGHĨA VIỆT cảm ơn, nhận lỗi, rụng tàn TỪ GHÉP bái tạ 拜謝 • cảm tạ 感謝 • chủng tạ 踵謝 • hậu tạ 厚謝 • tạ lễ 謝禮 • tạ thế 謝世 • tạ tội 謝罪 • tàn tạ 殘謝. TẠ謝 về mặt cấu tạo là chữ Hình Thanh bao gồm bên trái là bộ NGÔN 言chỉ ý và bên phải là chữ XẠ射 (bắn) chỉ âm đọc. NGÔN言 vốn là chữ tượng hình miêu tả một cái lưỡi kèm theo biểu thị của lời nói phát ra nên TẠ 謝 là Lời cảm kích đối với người giúp đỡ hoặc ban ân huệ cho ta, là Lời Cám Ơn, như CẢM TẠ 感謝, ĐA TẠ 多謝, TẠ ÂN 謝恩, NGÔN TẠ 言謝 là Nói lời Cảm Ơn... TẠ còn có nghĩa là Nhận, như TẠ TỘI 謝罪 là Nhận Tôi, TẠ LỖI là Nhận Lỗi ... TẠ là Từ Chối, như BẾ MÔN TẠ KHÁCH 閉門謝客: là Đóng cửa lại từ chối tiếp khách. TẠ là Tàn Tạ, là Chết đi, như TẠ THẾ 謝世: là Lìa Đời, là Chết. Còn như HOA TẠ 花謝 : là Hoa Tàn. THỦY LƯU HOA TẠ 水流花謝 : là Nước chảy hoa tàn, ta nói là "Nước cuốn hoa trôi." Đây là thành ngữ có xuất xứ từ bài XUÂN TỊCH của Thôi Đồ đời Đường, toàn bài như sau : 水流花謝兩無情, THỦY LƯU HOA TẠ lưỡng vô tình, 送盡東風過楚城。 Tống tận đông phong qúa Sở thành. 胡蝶夢中家萬里, Hồ điệp mộng trung gia vạn lý, 子規枝上月三更。 Tử quy chi thượng nguyệt tam canh. 故園書動經年絕, Cố viên thư động kinh niên tuyệt, 華髮春唯滿鏡生。 Hoa phát xuân duy mãn kính sinh. 自是不歸歸便得, Tự thị bất quy quy tiện đắc, 五湖煙景有誰爭。 Ngũ hồ yên cảnh hữu thùy tranh. Dịch Nghĩa: Nước cuốn hoa trôi cả hai đều vô tình, đều rất tự nhiên... Cũng như gió xuân đã thổi hết qua Sở thành suốt mùa xuân. Ta vẫn mơ màng giấc bướm về cố hương xa xôi vạn dặm... Tỉnh dậy đã canh ba trăng đã treo đầu cành cùng tiếng tử quy. Vì biến động nên suốt năm ta không nhận được thư từ quê nhà Trong khi mái tóc xuân đà điểm bạc bạc cả gương soi. Nếu muốn về quê thì ta đã về rồi, nhưng vì ta chưa muốn về... Cái cảnh sương khói mơ màng của vùng Ngũ Hồ ở quê ta đó, có ai mà giành giựt gì được với ta đâu! (Tại bất đắc chí nên ta chưa muốn về mà thôi!). Cũng như hiện giờ đang ở Mỹ, chưa muốn về Việt Nam không phải là không về được, mà là vì... buồn trong bụng qúa... chừng chừng, nên hổng muốn về mà thôi!!! Diễn Nôm : Hoa trôi nước cuốn vô tình, Gió đông thổi hết Sở thành thôi xanh. Chập chờn giấc bướm năm canh, Tử quy ngơ ngẩn đầu cành gọi trăng, Thơ nhà năm hết bặt tăm, Soi gương tóc đã hoa răm mất rồi. Muốn về lòng lại bảo thôi, Ngũ Hồ cảnh đẹp ai người tranh đâu?! 災 HÁN VIỆT Tai NGHĨA VIỆT Tai ương, tai họa DẠNG KHÁC 灾 TỪ GHÉP tai ách 災厄 • tai biến 災變 • tai hại 災害 • tai hạn 災限 • tai hoạ 災禍, tai nạn 災難, tai ương 災殃. Chữ TAI災 là một chữ hội ý, bao gồm bộ XUYÊN巛 (dòng sông) và bộ HỎA 火 (lửa) hợp lại mà thành. Trong khi 巛 tượng trưng cho lũ lụt thì 火 tượng trưng cho hỏa hoạn. Lũ lụt và hỏa hoạn được coi là những thảm họa chính trong quá khứ của con người. Một dạng thể khác của TAI là灾 trong giáp cốt văn mô tả một ngôi nhà đang cháy, nghĩa chính của nó là cháy nhà sau đó cũng mở rộng nghĩa là tai ương nói chung. Các cụm từ , thành ngữ liên quan đến TAI 災 có: TAI ÁCH 災厄; TAI NẠN 災難: là Tai nạn rủi ro xấu xa. VÔ VỌNG CHI TAI 毋望之災 : là Cái Tai họa không mong mỏi mà lại đến, có nghĩa là: Tai họa ập đến bất ngờ! 材 HÁN VIỆT Tài NGHĨA VIỆT Gỗ, vật liệu, tài liệu,… TỪ GHÉP quan tài 棺材 • tài khí 材器 • tài liệu 材料 • tài mộc 材木. Chữ TÀI材 về cấu tạo là một chữ hình thanh kết cấu trái phải, bao gồm bên trái là chữ MỘC木 (cây cối) có nhiệm vụ biểu diễn nghĩa và bộ TÀI才(tài giỏi) có tác dụng biểu thị âm đọc. MỘC là gỗ 木, trong hoạt động sản xuất của người Hán xưa, cây cối ngoài vai trò cung cấp lương thực thông qua hái lượm hoặc trồng trọt, cây cối còn cung cấp vật liệu, phục vụ xây dựng và chế tạo vũ khí. Chữ TÀI 材 với MỘC 木 là thành phần biểu nghĩa, biểu thị cho những thứ có liên quan đến vật liệu gỗ từ thiên nhiên. 載 HÁN VIỆT Tải, tái, tại NGHĨA VIỆT Chở, vận tải TỪ GHÉP áp tải 壓載 • đăng tải 登載 • hạ tải 下載 • tải trọng 載重 • thiên tải 千載 • vận tải 運載 • xa tải 車載 Chữ TẢI載 là chữ Hình Thanh bao gồm bên trái là bộ XA車 chỉ ý và bên phải là chữ TAI𢦒biểu thị âm đọc. XA車là xe vừa là phương tiện di chuyển cũng là phương tiện chuyên chở nên TẢI là chở. VẬN TẢI 運載 là Chuyên Chở. TẢI TRỌNG 載重 ta gọi là Trọng tải, là Sức Chở của xe tàu. Ta có thành ngữ : VĂN DĨ TẢI ĐẠO 文以載道 : Văn học văn chương là dùng để CHỞ cái đạo lý làm người. Ý chỉ Văn học phải có ích lợi cho đời sống thực tế của nhân sinh, tức là VĂN HỌC VỊ NHÂN SINH, chớ không phải như VĂN HỌC VỊ NGHỆ THUẬT chỉ chú trọng trau chuốt lời lẽ cho đẹp, cho hoa mỹ, cho lạ tai để thỏa mãn tình cảm lãng mạn trong lòng trong một lúc mà nhiều khi đâm ra sáo rỗng, không có lợi ích gì cho cuộc sống nhân sinh cả! TẢI 載 còn có nghĩa là Năm, như ta đã biết qua câu thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu là : Bạch vân THIÊN TẢI không du du! 白雲千載空地悠悠! mà cụ Tản Đà đã dịch là : NGÀN NĂM mây trắng bây giờ còn bay! Trong Kiều, sau khi báo ân báo oán, Giác Duyên từ biệt ra đi, thì Kiều đã giữ lại bằng câu : Nàng rằng: "THIÊN TẢI NHẤT THÌ, Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn?! Rồi đây bèo hợp mây tan, Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu! THIÊN TẢI NHẤT THÌ 千載一時 : Ta nói là "Ngàn Năm Một Thuở" Ý nói là Lâu Lắm mới có được một lần! 三 HÁN VIỆT Tam, tạm, tàm NGHĨA VIỆT Số 3 TỪ GHÉP nhị diện 二面 • nhị đẳng 二等 • nhị phẩm 二品 • nhị phân 二分nhị thập 二十 . Chữ NHẤT三là một chữ chỉ sự, được mô tả là ba đường gạch ngang. Giống như chữ NHẤT一và chữ NHỊ 二, người Trung Quốc cổ đại đã sử dụng ba đường gạch ngang để ghi lại con số này. Ba đường gạch ngang này theo quan niệm xưa là tượng trưng Thiên, Nhân, Địa, tức là tam tài (thiên tài, nhân tài, địa tài). 早 HÁN VIỆT Tảo NGHĨA VIỆT Buổi sáng sớm TỪ GHÉP tảo hôn 早婚 • tảo huệ 早慧 • tảo khởi 早起, tần tảo 儘早. Chữ TẢO 早là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bao gồm bên trên là bộ NHẬT日 (mặt trời) và biến thể của GIÁP甲 (can đầu tiên trong mười Thiên can天干). Vì甲là đầu tiên trong mười Thiên can (天干), 甲có nghĩa là bắt đầu, nên 早 được sử dụng để mô tả thời gian buổi sớm của một ngày từ lúc mặt trời mọc cho đến trưa. Ngoài nghĩa chỉ thời gian sáng sớm, TẢO cũng có nghĩa là bắt đầu sớm hơn bình thường như trong từ tảo hôn. 掃 HÁN VIỆT Tảo, táo NGHĨA VIỆT quét, cái chổi, vẽ,… TỪ GHÉP tảo địa 掃地 • tảo mộ 掃墓 • tảo thanh 掃清 • tảo trừ 掃除. Chữ 掃trong tiếng Trung có nghĩa là quét, là chữ được thay thế mở rộng cho dạng nguyên gốc là帚 – Chửu. Với chữ nguyên gốc 帚 có thể truy trở lại từ dạng chữ Giáp Cốt (chữ khắc trên xương hoặc mai rùa, hình thái chữ đầu tiên của tiếng Hán), lối chữ hình vẽ tượng hình đơn giản minh họa cho dụng cụ để quét. Nó giống như một bó lau sậy gắn vào một cái cây bằng những sợi chỉ buộc. Trong Kim văn hoặc Chung Đỉnh văn (loại văn tự được khắc hoặc đúc trên đồ đồng, là sự kế thừa của Giáp Cốt văn), chữ 冖 /mì/ (mịch: trùm, đậy), được thêm vào chính giữa kí tự, ngụ ý chỉ ra việc cột cho bó lau sậy càng chặt hơn. Trong hệ thống chữ Triện ( là một kiểu chữ cổ củathư pháp Trung Quốc), phần trên cùng đại diện cho chữ 爪 có nghĩa là móng vuốt vào hoặc 抓 cónghĩa là chộp lấy. Trong khi đó phần kí tự bên dưới thấp hơn là một kí tự đảo ngược của chữ 丰 (phong trong từ phong phú) biểu thị cho chữ 篲 (tuệ) có nghĩa là cái chổi. Kết nối các yếu tố này trong kiểu chữ Triện đầy đủ ta có từ minh họa cho ý nghĩa là giữ một cây chổi để quét sàn nhà. Khi vận dụng linh hoạt kí tự này, chữ 帚 có thể trở thành một danh từ khi thêm bộ trúc (竹) vào phần trên của chữ, ta được chữ 箒 (trửu), như một phép biến hóa, đọc là /zhǒu/ và có nghĩa là cây chổi. Bằng cách khác, bộ thủ (扌) được thêm vào để hình thành nên chữ 掃, có nghĩa là một tay cầm chổi. Từ này có chức năng như một động từ biểu thị ý nghĩa là quét và được phát âm là /sǎo/, âm Hán Việt đọc là tảo. Trong ngôn ngữ Trung Quốc hiện đại, chữ 掃 (tảo) luôn được dùng trong các từ ghép với nghĩa là quét bằng một cây chổi, như là từ 掃地 /sǎo dì/ (tảo địa), có nghĩa là quét nhà, 打掃 /dǎ sǎo/ (đả tảo), nghĩa là làm sạch và 掃墓 /sǎo mù/ (tảo mộ), là quét dọn mồ mả. Thỉnh thoảng từ này cũng được dùng trong cụm từ ghép với nghĩa trừu tượng hơn, như trong cụm từ 威嚴掃地 /wēi yán sǎo dì/ (uy nghiêm tảo địa), nghĩa là mất đi phẩm giá hay uy quyền (phẩm giá của một người đã bị quét sạch). 則 HÁN VIỆT Tắc NGHĨA VIỆT Quy tắc, gương mẫu, noi theo TỪ GHÉP chuẩn tắc 準則 • nguyên tắc 原則 • nội tắc 內則 • quy tắc 規則 • tắc lệ 則例. Chữ TẮC則là một chữ hội ý kết cấu trái phải, bao bao gồm貝và bộ ĐAO 刀 (một con dao). Ở đây, 貝 thực sự là dạng đơn giản của 鼎 (một cái vạc cổ có 3 chân), 則 đại diện cho những quy tắc hoặc luật lệ được khắc bằng dao trên một cái vạc (giống như chữ kim văn) để thể hiện tầm quan trọng và vĩnh cửu (thực tế cho thấy chữ được khắc trên đồ đồng có thể tồn tại hàng thế kỷ và hơn thế nữa).Vì vậy則 có ý nghĩa là nguyên tắc hoặc quy định. 稷 HÁN VIỆT Tắc NGHĨA VIỆT Thần lúa, lúa tắc TỪ GHÉP xã tắc 社稷 • tắc thực 稷食 • tắc tử 稷子. Chữ TẮC稷là một chữ hội ý, gồm bộ HÒA稷 (cây lúa), bộ ĐIỀN田 (đồng ruộng) và bộ THỦ手 (tay) tạo thành. Ý nghĩa ban đầu của chữ TẮC 稷 ban đầu nghi thức tế lễ là tạ ơn thần lúa gạo, cấu mong cho mùa màng bội thu. Không gian tế lễ là ngoài đồng, vật tế lễ là lúa. Bàn tay ở đay vơi ý nghĩa là biểu trưng cho sự cung kính dâng lên thần linh những vật phẩm gieo trồng được – đó là lúa gạo. Con người sinh ra có không gian sống, có lúa gạo để ăn, đó là niềm hạnh phúc. Đó cũng là điều kiên tiên quyết để đảm bảo sự sống dài lâu từ đời nay sang đời khác. Trong tiếng hán chữ Xà và chữ TẮC ghép lại thành hai chữ xã tắc ý chỉ là đất nước với nghĩa thiêng liêng. 辛 HÁN VIỆT tân NGHĨA VIỆT Cay, nhọc, tân (ngôi thứ 8 hàng can) TỪ GHÉP gian tân 艱辛 • sầu tân 愁辛 • tân cam 辛甘 • tân cần 辛勤 • tân khổ 辛苦 • tân sở 辛楚 • tân toan 辛酸. TÂN辛 là chữ tượng hình, trong cổ văn TÂN辛 mô tả một con dao, đây là một dụng cụ dùng để khắc chữ lên mặt phạm nhân hoặc nô lệ thời cổ đại. Nên TÂN 辛 nghĩa gốc là Đại Tội 大罪 là Tội lớn, Tội nặng. Từ đó phát sinh ra nghĩa TÂN là CAY. Ta có từ TÂN KHỔ 辛苦 là Cay Đắng. TÂN TOAN 辛酸 : TÂN là Cay, TOAN là Chua; TÂN TOAN là Cay Chua, ta thường nói thành CHUA CAY cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. NGŨ TÂN 五辛 : là Năm thứ thảo mộc có vị Cay Nồng là: Hành lá, Tỏi, Hẹ, củ Hành tây, củ Kiệu, còn gọi là NGŨ HUÂN 五葷 : là Năm thứ cải có mùi vị Cay Nồng, Hăng hắc, chỉ dùng để ăn mặn, ăn Chay không dùng được. TÂN 辛 là ngôi thứ tám của Thiên Can 天干 : là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, TÂN, Nhâm, Qúy 甲、乙、丙、丁、戊、己、庚、辛、壬、癸,Ta có TÂN HỢI CÁCH MỆNH 辛亥革命 : là Cách Mạng Tân Hợi, là cuộc cách mạng diễn ra ngày 10 tháng 10 năm Tân Hợi 1911, do Bác sĩ Tôn Dật Tiên lãnh đạo lật đổ nhà Thanh, triều đại cuối cùng của đế chế Trung Hoa để kiến lập nền dân chủ và thành lập nước TRUNG HOA DÂN QUỐC 中華民國. Trước mắt Ngày 10 tháng 10 hàng năm, dân chúng Đài Loan 賓 HÁN VIỆT Tân, thấn NGHĨA VIỆT Khách quý DẠNG KHÁC 宾 TỪ GHÉP nghênh tân 迎賓 • phi luật tân 菲律賓 • tân chủ 賓主 • tân hữu 賓友 • tân quán 賓館. Chữ “Tân” chính thể 賓 (Quan khách); chữ “Tân” giản thể 宾, thiếu chữ Bối 貝 – Bảo bối, thay bằng chữ “Binh” 兵 – Binh lính Xưa kia khách đến nhà dù sang hèn, phú quý, bần tiện, không mang quà quý vẫn được coi là bảo bối (貝- Bảo bối). Chủ nhà bày biện yến tiệc, khoản đãi với tấm lòng thành. Ngày nay khách đến nhà bị coi như binh lính (Bộ “Miên” 宀 chỉ mái nhà), không chỉ thiếu quà quý, mà còn có binh đao. Từ xưa đã gọi chuyện này là loạn cõi thế gian. 盡 HÁN VIỆT Tận, tẫn NGHĨA VIỆT Hết, cạn, xong, quá sức DẠNG KHÁC 尽 TỪ GHÉP tận số 盡數 • tận tâm 盡心 • tận thế 盡世 • tận tình 盡情 • tận trung 盡忠 • tận tuỵ 盡瘁 • tường tận 詳盡 Chữ TẬN 盡là một chữ hình thanh kiêm hội ý, trong giáp cốt văn chữ 盡 mô tả một bàn tay đang cầm chổi quét sạch bụi bẩn trong một vật dụng để đựng thức ăn (皿), ý chỉ đã ăn xong. Cho nên, 盡có nghĩa là hết, cạn như TẬN THẾ : Cõi đời chấm dứt, ý nói loài người chết hết, hay như CÙNG TẬN : chỗ cuối cùng – hết sạch không còn gì cả. Trong văn ngôn các thành ngữ liên quan đến TẬN có rất nhiều tiêu biểu như: KHỔ TẬN CAM LAI 苦盡甘來 : là Cái Khổ đến tận cùng rồi thì Cái Ngọt sẽ đến mà thôi. Ta nói là " Hết cơn bỉ cực, đến hồi thái lai " ! ĐIỂU TẬN CUNG TÀNG 鳥盡弓藏 : Chim hết cất cung, là Chim đã hết rồi thì Cung đã không còn được dùng nữa, nên đem đi cất. Đã hết lợi dụng được nữa thì cất đi. Câu nầy nghe còn nhẹ hơn câu "Vắt chanh bỏ vỏ" của ta nhiều, nhưng tích của nó thì nghe phũ phàng thảm khốc hơn cả "Vắt chanh bỏ vỏ" bội phần... Theo Thuyết Lâm Huấn của sách Hoài Nam Tử có câu : "Giảo thố đắc nhi liệp khuyển phanh, Cao điểu tận nhi cường nổ tàng 狡兔得而猎犬烹,高鸟尽而强弩藏 ". Có nghĩa "Đã bắt được con thỏ giảo quyệt rồi thì nướng con chó săn luôn. Con chim bay cao đã bị bắn rớt rồi thì cất đi cây cung nỏ mạnh". Và theo Việt Vương Câu Tiễn Thế Gia của Sử Ký kể : Phạm Lãi là tướng mạnh và là một trong những mưu thần chủ yếu của Việt Vương Câu Tiễn. Ông đã cùng với Văn Chủng, một mưu sĩ bậc nhất, giúp Câu Tiễn lên kế hoạch phục thù, kiêm cả ngầm huấn luyện chỉ huy quân đội tiêu diệt Ngô Vương Phù Sai, xưng bá trung nguyên. Sau khi diệt Ngô, vì là mưu sĩ và là công thần bậc nhất, nên Việt Vương Câu Tiễn phong Phạm Lãi là Thượng Tướng Quân và Văn Chủng là Thừa Tướng. Phạm Lãi đã không nhận tước phong, từ quan ra đi, ẩn cư ở nước Tề. Vì lo cho số phận của Văn Chủng, Phạm Lãi đã lén cho người đem thư về khuyên bạn hãy từ quan mà ra đi như mình, vì Câu Tiễn là người tâm địa hẹp hòi, chỉ có thể cùng chung hoạn nạn chứ không thể cùng chung phú qúy được. Phải luôn nhớ là "Phi điểu tận, lương cung tàn. Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh 飛鳥盡,良弓藏,狡兔死,走狗烹 (Bắn hết chim bay thì cung cất lại. Bắt hết thỏ thì nướng chó săn)". Nhưng, Văn Chủng không tin là Việt Vương Câu Tiễn sẽ hại mình. Ông nghĩ, mình đã lập được công lớn như vậy, đây chính là lúc mình phải được hưởng thụ, sao lại phải bỏ đi, nên ông kiên quyết ở lại. Ít lâu sau, Câu Tiễn sai người ban cho Văn Chủng thanh kiếm mà Ngô Vương Phù Sai bắt Ngũ Tử Tư phải tự sát, kèm theo câu nói: "Tiên sinh dạy cho Qủa nhân 9 biện pháp để đối phó với nước Ngô. Qủa nhân chỉ mới dùng có 3 biện pháp thì đã tiêu diệt được nước Ngô rồi! Bây giờ phiền tiên sinh đem 6 biện pháp còn lại xuống nói cho tiên đế biết đi!" Đến nước nầy, Văn Chủng mới hỡi ôi, hối hận vì đã không chịu nghe lời khuyên của Pham Lãi. Sau tiếng than dài, ông ta bèn hươu gươm tự sát. Phần Phạm Lãi ẩn vào vùng Ngũ hồ kinh thương, thành một thương lái giàu có ở Động Đình Hồ, lại đổi họ tên thành Đào Chu Công. Theo truyền thuyết dân gian, Phạm Lãi khi từ quan đã lén dắt theo người đẹp Tây Thi để cùng ngao sơn ngoạn thủy, vui hưởng lạc thú nhân gian, thưởng ngoạn hết cảnh đẹp của vùng Ngũ hồ xinh tươi như tranh vẽ. 習 HÁN VIỆT Tập NGHĨA VIỆT Luyện tập, quen,… DẠNG KHÁC 习 TỪ GHÉP học tập 學習 • luyện tập 練習 • ôn tập 溫習. Chữ TẬP習là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, gồm bộ VŨ羽 (lông vũ) và BẠCH白(trắng) hợp thành. Ý nghĩa của chữ này là khi con chim non vừa tách ra khỏi vỏ trứng, lông vũ của chúng mỡi bắt đầu hình thành, màu trắng. Để có thể tồn tại và phát huy vai trò của đôi cánh, những con chim non ấy mỗi ngày phải rèn luyện, ban đầu là bò, giương đôi cánh mới nhú lên. Cứ như thế dần dần chúng có thể bay lên được, từ cự ly ngắn đến cự ly dài hơn và cuối cùng, khi đôi cánh đã hoàn thiện, nó có thể mặc sức bay lượn trên bầu trời. Ý nghĩa của chữ chữ TẬP 習 là nhấn mạnh vào tính thường xuyên, liên tục. TẬP 習 đòi hỏi phải kiên trì và nhẫn nại. Chữ TẬP 習 đã thể hiện óc quan sát tinh tế thế giới động vật xung quanh và liên hệ đến đời sống con người. Ai cũng có cái ban đầu bỡ ngỡ, chỉ cần chúng ta kiên trì rèn luyện sẽ có ngày thành kỹ xảo, thành thói quen. Thiên Học nhitrong Luận ngữ có câu : “Học nhi thời tập chi” (học xong phải biết ôn tập,luyện tập một cách kịp thời, thường xuyên những gì đã học. Điều mà người xưa nhấn mạnh tính chất việc học là không phải ở lý thuyết thuần túy, mà nhấn mạnh hoạt động thực tiễn, khả năng vận dụng. Chỉ có thể tập một cách có phương pháp mới có thể biến tri thức của thầy thành tri thức tiềm tàng của mình được, chỉ có vận dụng vào thực tiễn mới làm cho tri thức học phát huy giá trị với cuộc sống. Người học biết học và tập một ccahs có phương pháp, phù hợp với cơ chế sinh lý của não bộ về trí nhớ thì thông tin ghi nhận được mới lưu trữ được lâu, việc học ấy mới thực sự thiết thực và con người ấy mới thành công được. 集 HÁN VIỆT Tập NGHĨA VIỆT Đậu, Hợp lại, tụ lại TỪ GHÉP sưu tập 搜集 • tập đoàn 集团 • tập đoàn 集團 • tập hợp 集合 • • tập trung 集中, tề tập 齊集. TẬP集là một chữ hội ý có kết cấu trên dưới, bao gồm bộ CHUY隹 (con chim) ở bên trên và bộ MỘC 木 (cây cối) ở bên dưới. Tính chất biểu ý của chữ TẬP 集 ban đầu là con chim đậu trên ngọn cây. Hình dạng chữ ở cổ văn cho đến dạng khải thư không có sự thay đổi đáng kể, vẫn là hình ảnh một con chim đậu trên ngọn cây. Đối với loài chim, cây là ngôi nhà của chúng. Cây cung cấp thức ăn, nơi làm tổ nuôi con, là nơi dừng chân sau những chuyến bay xa. Từ đặc điểm, tập tính sinh sống của loài chim, người xưa đã sáng tạo ra chữ TẬP 集 với nghĩa gốc ban đầu là chỉ động tác đậu xuống trên ngọn cây của con chim. Loài chim có đặc tính là sống theo bầy đàn cho nên chữ TẬP 集 mở rộng nghĩa chỉ sự tụ họp, tập hợp lại. 疾 HÁN VIỆT Tật NGHĨA VIỆT Bệnh tật, ốm đau TỪ GHÉP bệnh tật 病疾 • cố tật 固疾 • cổ tật 蠱疾 • phế tật 廢疾. Chữ TẬT疾là một chữ ở dạng hình thanh kiêm hội ý. Nếu hiểu là chữ hình thanh thì chữ 疾được hợp bởi矢 và疒 trong đó bộ THỈ 矢 (mũi tên) Là thành phần chỉ âm, bộ Nạch 疒 (bệnh tật) có tác dụng chỉ ý. Cũng giống như trong cấu tạo chữ BỆNH 病, 疾 cũng có sự xuất hiện của 疒 . chữ 疒là hình ảnh của một người bệnh đang nằm trên giường, chữ 疒có nghĩa bệnh tật, ốm đau, 疒kết hợp với âm đọc của 矢 tạo thành 疾 với nghĩa là bệnh tật. Chữ 疾 còn có một nghĩa nữa là nhanh, gấp rút, ý nghĩa này chắc chắn có liên quan đến bộ 矢 , đó là lý do tại sao nên hiểu chữ theo dạng chữ hội ý. 矢là hình ảnh mũi tên, mũi tên thì di chuyển rất nhanh, chữ 矢hội với 疒 với ý chỉ diễn biến của bệnh thì rất nhanh, cho nên cứu bệnh như cứu hỏa, phải nhanh chóng và kịp thời. 走 HÁN VIỆT Tẩu NGHĨA VIỆT Chạy, đi TỪ GHÉP bôn tẩu 奔走• tẩu tán 走散 • tẩu thoát 走脫. Chữ TẨU走là một chữ hội ý kết cấu trên dưới. Chữ走trong cổ văn miêu tả một người đàn ông đang chạy, phía dưới là chữ CHỈ止 có nguồn gốc là hình ảnh bàn chân với các ngón chân (xem bài chữ止). 止 được thêm vào với ý nghĩa nhấn mạnh sự nhanh chóng trong mỗi bước chân của người đàn ông. Cho nên TẨU 走 vốn nghĩa là CHẠY, nhưng trong ngôn ngữ thường dùng với nghĩa ĐI. Chạy và Đi đều là động tác di chuyển của chân chỉ khác nhau ở chỗ mau và chậm mà thôi, như: TẨU LỘ. TẨU BỘ 走路。走步 : là Đi đường, đi bộ. ĐÀO TẨU 逃走 : là Chạy trốn. Một số nghĩa dùng rộng ra của chữ TẨU như: TẨU Mà 走馬 : là Cưởi ngựa, ta cũng nói là Chạy Ngựa. TẨU TƯ 走私 : Không có nghĩa là Đi Riêng, Chạy Riêng, mà có nghĩa là Buôn Lậu. Buôn trốn thuế. TẨU CẨU 走狗 : Không có nghĩa là Chó Chạy, mà là Chạy như Chó, dùng để chỉ những kẻ làm CHÓ SĂN, TAY SAI cho kẻ địch. TẨU TÁN 走散 : là Đi tản ra khắp nơi, nên có nghĩa là: Đem giấu đi mỗi thứ một nơi, như "TẨU TÁN đồ ăn cắp ăn trộm." Tẩu Tán Tài Sản: là đem tài sản đi cầm cố, thế chấp, sang nhượng hoặc tặng cho người thân, bạn bè, người quen... hay dấu diếm ở nhiều nơi để trốn tránh pháp luật hoặc ai đó. ĐÔNG BÔN TÂY TẨU 東奔西走: là Chạy đông chạy tây, ta nói là Chạy ngược chạy xuôi, chỉ sự vất vả để lo toan một việc gì đó. PHI SA TẨU THẠCH 飛沙走石: là Cát bay đá chạy, chỉ cuồng phong gió lớn hay dùng để chỉ những người có pháp thuật cao cường, có thể "Hô phong hoán vũ, Phi sa tẩu thạch" là "Hô mưa gọi gió, làm cho đá chạy cát bay!" 西 HÁN VIỆT Tây, tê NGHĨA VIỆT Phía tây TỪ GHÉP âu tây 歐西• tây nguyên 西元 • tây ninh 西寧 • tây phương 西方 • tây tạng 西藏 • • tây trúc 西竺 Chữ TÂY (西) trong trong "đông tây 東西" có nghĩa là phương tây, hướng tây. Chữ này là chữ gốc của THÊ 栖 có nghĩa là nghỉ, đậu, nguyên nghĩa của nó là "chim đậu trên cây" . Trong giáp cốt văn và kim văn TÂY 西 miêu tả một cái tổ chim, đến chữ triện thì thêm hình tượng con chim vào thành hình con chim đang về tổ để nghỉ ngơi lúc mặt trời lặn. Sau này người ta mượn chữ nầy để chỉ hướng mặt trời lặn là hướng TÂY (theo dạng giả tá, tương tự như trường hợp chữ BẮC 北), về nghĩa gốc thì thêm 木 vào trở thành 栖 diễn tả ý nghĩa ban đầu. TÂY đối diện với hướng Đông là hướng chính, hướng mặt trời mọc. Ta có ĐÔNG là chủ là chính như "Cổ đông" (chủ cổ phần), tương tự TÂY là khách là phụ. Tiêu biểu cho nghĩa này ta có "Đông cung" (cung, nơi ở của hoàng hậu) và "Tây cung" (cung, nơi ở của quý phi). Chữ TÂY ngày nay còn được dùng để chỉ các nước Âu Mỹ và người người Âu Mỹ như trong các từ " Tây y" (y học Âu Mỹ) hay "Tây học" (nền học vấn Âu Mỹ). 洗 HÁN VIỆT Tẩy, Tiển NGHĨA VIỆT Rửa, giặt, tẩy, gội, tắm gội, sạch sẽ, giải trừ,… TỪ GHÉP tẩy trần 洗塵 ; tẩy uế 洗穢 ; cách diện tẩy tâm 革面洗心. Chữ TẨY洗 là một chữ Hình Thanh kết cấu trái phải. Bao gồm bên trái là bộ THỦY氵(nước) là thành phần chỉ ý, bên phải là chữ TIÊN先 (trước tiên) là thành phần chỉ âm đọc. Muốn tẩy rửa tất nhiên phải dùng đến nước, nghĩa của洗là tẩy rửa, làm sạch nghĩa mở rộng là thanh trừng, triệt hạ… “Trâu già đi trước vẫy đuôi Nước văng ba giọt tẩy xuôi bụi trần”. 祭 HÁN VIỆT Tế, sái NGHĨA VIỆT Cúng tế TỪ GHÉP chủ tế 主祭 • tế đàn 祭壇• tế lễ 祭禮. Chữ TẾ祭là một chữ hội ý gồm ba bộ thủ tạo thành. Phía trên gồm hai bộ thủ, bên trái là bộ NHỤC肉 (thịt) bên phải là bộ HỰU又(tay, một biến thể của bộ thủ). Hai bộ thủ này hợp lại với ý nghĩa là bàn tay giơ cao, dâng miếng thịt (tượng trưng cho lễ vật dâng cúng. Bên dưới là chữ THỊ示(bày tỏ), thể hiện lòng thành kính hướng về tổ tiên, hướng về thần linh mà tỏ ý nguyện cầu. Cũng có quan điểm cho rằng chữ THỊ示ở đây là chiếc bàn đặt đồ tế lễ. Với ba bộ thủ mỗi bộ có ý nghĩa tượng trưng riêng, tất cả là sự tái hiện một cách cô đọng nhất về nghi thức tế lễ thần linh ngày xưa. 幣 HÁN VIỆT Tệ NGHĨA VIỆT Tiền, vải lụa, lễ vật, quà biếu,… DẠNG KHÁC 币 TỪ GHÉP tệ chế 幣制 • tệ trị 幣值 • tiền tệ 錢幣. Chữ TỆ幣ban đầu là một chữ hình thanh kết cấu trên dưới. Nghĩa gốc của TỆ幣là che lấp. Chữ TỆ幣có liên quan đến chữ BẠCH帛nhưng nghĩa của chữ TỆ không hoàn toàn đồng nhất với BẠCH帛(tơ lụa) TỆ幣 là bó tơ. Dần dần phát triển nghĩa chỉ tên các loại lễ vật. Vì vậy TỆ cũng giống như HÓA貨 (hàng hóa) đều trở thành tên gọi của tiền bạc, của cải thời cổ đại. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng TỆ幣 là vật trung gian của hàng hóa, không ăn được cũng không mặc được, chỉ là một loại giá trị tính toán dùng trong việc trao đổi hàng hóa, làm vật thay thế để trao đổi ngang giá. Điều đó cũng chứng tỏ mối quan hệ hữu cơ giữa hàng hóa và tiền tệ. Như cách hiểu ngày nay trong thương mại Tiền – hàng và hàng – tiền luôn luôn trao đổi, luân phiên không ngừng, thúc đẩy kinh tế phát triển. 石 HÁN VIỆT Thạch NGHĨA VIỆT Đá TỪ GHÉP cẩm thạch 錦石 • dĩ noãn đầu thạch 以卵投石 • hoá thạch 化石; bàn thạch 磐石. Chữ THẠCH石là một chữ tượng hình mô tả một chiếc chuông được treo trên một cái giá, vì một hòn đá rất khó được vẽ, do đó, một chiếc chuông làm bằng đá được người trung quốc xưa sử dụng để thể hiện khái niệm về đá. Loại chuông đá này đến nay vẫn được tìm thấy nhiều ở vùng Tây Tạng trong các di tích người xưa để lại. Thực tế tại một số ngôi chùa ở Việt Nam và Trung Quốc thỉnh thoảng người ta vẫn thấy xuất hiện loại chuông đá này. Cũng có một số học giả cho rằng, chữ 石 đơn giản là miêu tả lại một hòn đá trên vách núi. Sở dĩ có nhận định này là do phần bên trái của 石rất giống bộ HÁN丆hay厂 (sườn núi), trong khi bộ 口 tượng trưng cho hòn đá. THẠCH 石 còn là đơn vị đo lường ngày xưa : Cứ 10 đấu (táo) thì vào một THẠCH. Ngày xưa, phát lương cũng tính theo đơn vị nầy, như chức Lang Trung ở Việt Nam ta ngày xưa lãnh mỗi năm được tới 2.000 (hai ngàn) THẠCH lương thực, theo câu đối của Trạng Nguyên Nguyễn Hiền (thế kỷ XIII) mà ta thường gọi là Trạng Hiền, sinh năm 1235 tại làng Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực. Nhưng có người lại cho là của Trạng Vũ Công Duệ (1468-1522), người làng Trình Xá, tỉnh Sơn Tây. Vũ Công Duệ 22 tuổi đã đỗ Trạng Nguyên làm quan đến chức Đô Ngự Sử cuối đời nhà Lê. Trạng tính khí rất cương trực khiến các quan văn võ đều nể sợ. Khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, Trạng cương quyết không theo phe nghịch thần, còn mắng chửi Mạc Đăng Dung thậm tệ rồi ôm ấn nhảy xuống cửa Thần Phù tự tử mà chết. Thuở nhỏ Công Duệ nhà rất nghèo, một hôm cùng mấy bạn đồng lớp trên đường đi học, Công Duệ lấy đất sét nặn thành con voi, bắt bốn con cua làm chân, bắt hai con bướm làm tai, bắt một con đỉa làm vòi. Thành ra con voi bằng đất sét biết đi, biết vẫy tai và co vòi lên xuống. Lúc đó một vị quan đang cưỡi ngựa đi qua thấy lạ liền dừng ngựa lại xem. Sau khi hỏi Công Duệ một vài câu, thấy Công Duệ đối đáp trôi chảy chứng tỏ là một đứa bé có học và thông minh nên vị quan muốn thử tài mới bảo: - Mày đã đi học rồi, vậy ta ra cho câu đối,nếu mày đối được ta sẽ thưởng tiền cho. Công Duệ đồng ý và vị quan ra câu đối như sau: - Đồng tử lục thất nhân, vô như nhĩ xảo. 童子六七人,無如爾巧; (Trẻ nít sáu bảy đứa, không ai khéo hơn mày ) Trước khi đối, Công Duệ hỏi vị quan: - Thế ông là gì đã? Vị quan trả lời: -Ta là Lang Trung, mỗi năm lãnh hai ngàn THẠCH lúa. Quan nói xong, Công Duệ liền ứng khẩu đối: -Lang Trung nhị thiên THẠCH, mạc nhược công... 郎中二千石,莫若公 ....! (Quan Lang Trung hai ngàn thạch, không ai bằng ông...) Nghe Công Duệ đối như thế, vị quan ngạc nhiên mới hỏi : -Tại sao mày đối thiếu một chữ? Cậu bé Công Duệ mỉm cười, trả lời một cách hóm hỉnh: - Còn một chữ nữa tôi để dành, hễ quan lớn thưởng tiền thật thì tôi đối là "Liêm 廉 ", bằng không thì tôi đối là "Tham 貪". Vị quan nghe nói phải phục tài, bèn móc túi thưởng tiền cho cậu bé Công Duệ để lấy được chữ "Liêm", nên câu đối thành: Lang Trung nhị thiên THẠCH, mạc nhược công liêm! 郎中二千石,莫若公廉! (Lang Trung hai ngàn thạch, không ai thanh liêm bằng ông). THẠCH 石 còn là đơn vị đo diện tích tương đương với Mẫu: Hữu nhị THẠCH điền 有二石田 : là Có 2 MẪU ruộng. THẠCH 石 còn là dụng cụ châm cứu để trị bệnh ngày xưa, nên từ kép Thuốc Men gọi là DƯỢC THẠCH 藥石. THẠCH CAO 石膏 : khoáng chất thường dùng có công thức ký hiệu là : CaSO4•2H2O . Dùng trong nghệ thuật điêu khắc đắp tượng, trong kiến trúc, trong Y dược ... THẠCH BI 石碑 là Bia Đá; THẠCH CỔ 石鼓 là Cái Trống bằng Đá; THẠCH CUNG 石弓 là Cây cung dùng để bắn Đá; THẠCH ĐẦU 石頭 là Cục Đá; THẠCH ĐẦU KÝ 石頭記 là Tên riêng của Hồng Lâu Mộng; quyển tiểu thuyết nổi tiếng của Tào Tuyết Cần đời Minh Thanh. THẠCH TRẦM ĐẠI HẢI 石沉大海 : là Đá chìm biển lớn; ta nói là " Đá chìm đáy biển " Chỉ việc gì đó bặt vô âm tín, lặng thinh luôn, chìm lĩm không có tin tức hồi âm gì cả ! THÂN MẠO THỈ THẠCH 身冒矢石 : là Thân mình mạo hiễm trong vòng tên đá. Ta nói là " Đem thân vào vòng lửa đạn ". Khi biết được tin của cô Kiều, Kim Trọng đã muốn treo ấn từ quan để : Dấn mình trong án can qua, Vào sinh ra tử họa là thấy nhau! KIM THẠCH CHI NGÔN 金石之言 : là Những lời Vàng Đá. Những lời nói chắc chắn không hề phai như Vàng và vững chắc như Đá. Cũng trong lúc trở lại tìm Kiều, Kim Trọng đã bày tỏ nỗi lòng với ông bà viên ngoại : Cùng nhau thề thốt đã nhiều, Những điều VÀNG ĐÁ phải điều nói không! HẢI KHÔ THẠCH LẠN 海枯石爛 : là " Biển cạn đá mòn " hay " Sông cạn đá mòn " hoặc " Bể cạn non mòn "... đều như nhau. Khi lén đến Quan Âm Các để thăm Kiều, Thúc Sinh đã than thở với nàng như sau : Dẫu rằng SÔNG CẠN ĐÁ MÒN, Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ ! THẠCH 石 cũng là một Họ trong Bách gia tính, làm ta nhớ đến thằng "Cẩu tạp chủng" Thạch Trung Ngọc và Thạch Phá Thiên trong Hiệp Khách Hành 俠客行 của nhà văn Kim Dung hồi thập niên 60 của Thế kỷ trước. Hiệp Khách Hành 俠客行 là tựa của một bài thơ Ngụ Ngôn Cổ Phong của Thi Tiên LÝ BẠCH được Kim Dung chẳng những lấy tựa bài thơ làm tựa cho quyển tiểu thuyết võ hiệp của mình mà còn lấy cả nội dung của bài thơ giảng giải như là một Bí Kíp Võ Công, nhưng lại rất thú vị và mĩa mai, vì chỉ có người "dốt" như "Cẩu tạp chủng Thạch Phá Thiên mới "ngộ" được cái tuyệt kỹ võ công nầy qua những nét viết "khoa đẩu" của hình con nòng nọc mà thôi! 泰 HÁN VIỆT Thái NGHĨA VIỆT Yên bình TỪ GHÉP bĩ cực thái lai 否極泰來, thái quốc 泰國 • thái sơn 泰山. Chữ THÁI泰là một chữ Hội Ý kết cấu trên dưới, bao gồm bên trên là 2 bộ PHONG丯 (cây cỏ), ở dưới là bộ THỦY氺 (nước). Trong thể chữ Triện văn chữ THÁI 泰 ngoài hình ảnh dòng nước, hai bên bờ là những hàng cây, còn có thêm hình ảnh một cánh chim đang dang đôi cánh bay lượn trên trời cao. Tất cả những hình ảnh này vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ, gợi một cảm giác bình yên cho con người. Với sự phát triển của chữ hán, về sau này hình ảnh cánh chim trong chữ THÁI 泰 không còn nữa, chỉ còn hình ảnh của nước và cây cỏ. Nước là nguồn sống, màu xanh cũng là màu của sự sống, là màu của yên bình ấm no. 采 HÁN VIỆT Thái, thải NGHĨA VIỆT Hái, ngắt, lựa chọn TỪ GHÉP thái chi 采脂 • thái chủng 采种 • thái môi 采煤 • thái nạp 采纳 • thái noãn 采暖, phong thái 丰采• Chữ THÁI采khắc họa lại cảnh thu hoạch hoa màu của người xưa, đây là một trong hai hoạt động chủ yếu thời cổ đại là săn bắn và hái lượm. Về cấu tạo采 là một chữ hội ý điển hình có kết cấu trên dưới, bao gồm phía trên là một dạng thể của bộ TRẢO爫(tay, móng vuốt) và phía dưới là bộ MỘC木 (cây, hoa màu). Tính chất hội ý của (采) là dùng tay để thu hoạch hoa màu. Nghĩa gốc của là hái, ngắt. Trước đây采 cũng được dùng với nghĩa là lựa, chon, sưu tập, tuy nhiên sau khi chữ 採 ra đời,采chủ yếu được dùng với nghĩa gốc. Ngoài ra trong trong một số tài liệu cổ 采 cũng được dùng như 彩 (như sắc thái色彩). 青 HÁN VIỆT thanh NGHĨA VIỆT Màu xanh TỪ GHÉP đan thanh 丹青 • đạp thanh 踏青 • thanh niên 青年 • thanh xuân 青春 • thiên thanh 天青 • Chữ THANH青 trong thể giáp cốt được mô tả là hình ảnh một cái giếng được bao quanh bởi cỏ, giếng có nước, vì vậy cỏ xung quanh luôn tươi tốt và có màu xanh. Trải qua quá trình phát triển, hình thể chữ có sự biến đổi, hình ảnh cây cỏ được biểu hiện bằng chữ PHONG丰 (cỏ), bên dưới là một chữ giống bộ NGUYỆT (trăng) thay cho hình ảnh cái giếng trước đây. Trước đây青, được sử dụng để đại diện cho màu xanh lục và xanh lam, nhưng hai ý nghĩa như vậy đã được thay thế bằng 綠 và藍, bây giờ 青chủ yếu có nghĩa là màu xanh lục nhạt. Mặt khác, khi một cái cây được phủ dày đặc bởi những chiếc lá màu xanh lá cây, nó trông có vẻ tối, vì vậy cũng thường được sử dụng để mô tả một cái gì đó có màu tối, như tóc và mắt. 清 HÁN VIỆT Thanh, Sảnh NGHĨA VIỆT Trong sạch (nước), họ thanh,.. TỪ GHÉP thanh bạch 清白 • thanh bần 清貧 • thanh bình 清平 • thanh cao 清高. Chữ THANH清 (trong sạch) là một chữ hình thanh được cấu tạo bởi bên trái là bộ Thủy 氵 là nước bên trái là chữ THANH青 (bộ phận biểu âm ). Bản thân chữ THANH青 cũng mang nghĩa tươi trẻ thanh khiết khi kết hợp thêm bộ Thủy氵với hàm ý là nước trong, tinh khiết. 成 HÁN VIỆT Thành NGHĨA VIỆT Xong, hoàn thành, trở thành TỪ GHÉP hình thành 形成 • hoàn thành 完成 • hợp thành 合成, khánh thành 慶成 • kinh thành 京成 Chữ THÀNH成 là một chữ hội ý, mô tả ai đó cầm giáo để bảo vệ thành phố của mình, ý nghĩa ban đầu của nó là thành phố, nhưng ý nghĩa đó đã được thay thế bằng 城, bây giờ成có nghĩa là thành tựu, giàu có và thịnh vượng. 城 HÁN VIỆT Thành, giàm NGHĨA VIỆT Thành trì, thành phố TỪ GHÉP cấm thành 禁城 • kinh thành 京城 • thành quách 城郭 • thành quan 城关• thành thị 城巿. Chữ THÀNH城 là một chữ hình thanh kiêm hội ý, bao gồm 土 (đất) và 成. 成 mô tả ai đó cầm giáo để bảo vệ thành trì của mình, ý nghĩa ban đầu của nó là thành trì, 土 được thêm vào với ý nhấn mạnh rằng đó là một địa điểm hoặc lãnh thổ có chủ quyền. 聖 HÁN VIỆT Thánh NGHĨA VIỆT Thánh, thánh nhân DẠNG KHÁC 圣 TỪ GHÉP chí thánh 至聖 • đại thánh 大聖 • hiển thánh 顯聖 • lê thánh tông 黎聖宗. Chữ THÁNH chính thể gồm chữ NHĨ (耳 – cái tai), chữ KHẨU (口 – miệng), và chữ VƯƠNG (王 – vua). Như vậy, THÁNH là đôi tai, là cái miệng của Trời, truyền đạt ý chỉ của Trời, biết lắng nghe thiên hạ, truyền đạo của Thiên tử, giáo hóa để nhân tâm con người hướng thiện. Sau này chữ THÁNH giản thể là “圣” rất giống với chữ QUÁI (怪 – yêu quái) thiếu mất bộ TÂM (心), tức là yêu quái vô tâm, hữu tâm tác quái, kỳ thực chính là chỉ yêu quái nơi địa ngục. Người ta tô vẽ, làm đẹp cho yêu quái, nhưng lại trù ghét bậc thánh nhân. 艸 HÁN VIỆT Thảo NGHĨA VIỆT Bộ thảo, mang nghĩa cỏ cây DẠNG KHÁC 艹 THẢO 艸là chữ Tượng Hình, Đại Triện Tiểu Triện đều là hình tượng của những cọng cỏ, những mầm non vừa mọc lên khỏi mặt đất. Nên THẢO là Cỏ, là THẢO MỘC 草木: Chỉ chung các loài Cây Cỏ. 艸 và 艹 là hai hình thức của bộ THẢO, chỉ dùng để ghép với các phần khác để thành lập chữ mới có liên quan đến Thảo mộc, còn chữ THẢO 草 thực sự là chữ Hài Thanh, được ghép bởi chữ TẢO 早 là Sáng sớm chỉ Âm và bộ THẢO 艹 ở phía trên chỉ Ý. Vì Bộ THẢO 艹 luôn luôn nằm phía trên, nên được gọi là THẢO ĐẦU 草頭. Ta có tất cả 981 chữ được ghép với THẢO ĐẦU nầy, trong khi chỉ có vỏn vẹn 4 chữ được ghép với bộ THẢO 艸 nầy mà thôi. Tiêu biểu như : HUỶ 芔 là chữ cổ của chữ HUỶ 卉 ngày nay, có nghĩa là: Các loài cỏ. Ta có thành ngữ KỲ HOA DỊ HUỶ 奇花異卉, tương đương với KỲ HOA DỊ THẢO 奇花異草, có nghĩa như Hoa Thơm Cỏ Lạ của ta vậy! SÔ 芻 (刍) : là Cỏ Sô cỏ Gai, ta thường gọi là Sô Gai. Nhà nông dùng để kết áo mặc bên ngoài che mưa che nắng và cho đỡ lạnh. Đây là cách ăn mặc theo nhà nông, giản dị quê mùa. Nên khi có đại tang như cha mẹ mất, thì con cái không được ăn mặc đẹp, mà phải ăn mặc SÔ GAI. Ta có các từ như : SÔ NGÔN 芻言 : là Lời nói quê mùa. SÔ NGHỊ 芻議 : là Những lời bàn luận quê mùa. Cả 2 từ SÔ NGÔN và SÔ NGHỊ đều là lời nói khiêm nhựợng để chỉ Lời nói phát biểu và nghị luận của bản thân mình; cũng như từ THIẾT NGHĨ là Trộm Nghĩ mà ta đã có dịp nhắc tới ở bài trước vậy! MẢNG 茻 ( 莽 ): là Có RẬM, cỏ mọc thành từng bụi. THẢO MẢNG 草莽 : chỉ Dân nhà quê thô lổ cục mịch. Đây cũng là lời nói khiêm tốn của những anh hùng còn ẩn náo ở nhà quê mà ta thường gọi là THẢO MẢNG ANH HÙNG 草莽英雄.. Về phần THẢO ĐẦU gần một ngàn chữ có liên quan đến thảo mộc, tiêu biểu nhất là các chữ sau đây: HOA 花 : là Bông. Ta gọi là Bông Hoa. Những thứ gì đẹp giống như...BÔNG đều được gọi là Hoa, như : TUYẾT HOA 雪花 : Hoa Tuyết, PHÁO HOA 炮花: Pháo Bông, LÃNG HOA 浪花 : Hoa Sóng TRÀ 茶 : là Trà ! Trà Lài, Trà Sen, Trà Ô Long, Trà Trảm Mã, Trà Thiết Quan Âm 升 HÁN VIỆT Thăng NGHĨA VIỆT Bay lên TỪ GHÉP thăng cấp 升級• thăng đường 升堂 • thăng long 升龙 • thăng quan 升官 • thăng thiên 升天 • thăng tiến 升進 • thăng trầm 升沈. Chữ THĂNG 升là một chữ tượng hình, trong giáp cốt văn chữ 升 mô tả lại hình ảnh một con chim đang bay lên, cho nên, nghĩa của 升là lên, đi lên. Chữ 升 có cách viết tương đối giống chữ CỦNG廾điểm phân biệt là nét phết được thêm vào ở phía bên trái. Các từ từ và cụm từ thường gặp: THĂNG TRẦM 升沈: Lên cao và chìm xuống. Chỉ sự thay đổi ở đời. TRỰC THĂNG CƠ 直升機: máy bay trực thẳng, một loại máy bay lên thẳng BẠCH NHẬT THĂNG THIÊN 白日升天: Theo đạo giáo, người sau khi tu luyện đắc đạo, giữa ban ngày bay lên cõi trời thành tiên. Thành ngữ này cũng dùng để chỉ sự giàu sang vinh hiển quá mau chóng.   身 HÁN VIỆT Thân, quyên NGHĨA VIỆT Thân thể, mạng, chính mình TỪ GHÉP an thân 安身 • bản thân 本身 • chung thân 終身 • hiến thân 獻身 • hiện thân 現身 • hoá thân 化身 • Chữ THÂN身 là một chữ tượng hình, mô tả lại toàn bộ cơ thể người với đầy đủ các phần đầu, tay, bụng và phần chân. Chữ THÂN身 chỉ các bộ phận chủ yếu hoặc trung tâm của vật thể nhấn mạnh ý nghĩa chỉ thân thể người. Thân thể là do tạo hóa ban tặng, là hình hài của bố mẹ để lại, mất đi thân thể đồng nghĩa mất đi sự sống nên nó cũng có nghĩa là mạng sống. THÂN身cũng được dùng để chỉ bản thân, chính mình. Ta có các từ ghép và thành ngữ về chữ THÂN như sau: NHÂN THÂN 人身 : là Thân thể con người. THÚ THÂN 獸身 : là Mình mẩy của Thú vật. THỌ THÂN 樹身 : là Thân cây. THUYỀN THÂN 船身 : là Thân Ghe, thân Tàu... THÂN còn chỉ tự mình, sinh mạng, địa vị của con người, như : BẢN THÂN 本身, TỰ THÂN 自身, HIẾN THÂN 獻身, THÂN THẾ 身世, THÂN PHẬN 身分, XUẤT THÂN 出身... THÂN là cái mạng sống, nên HIẾN THÂN là Trao cả cái mạng sống của mình cho ai đó, như HIẾN THÂN cho Tổ Quốc chẳng hạn... Khi cô Kiều quyên sinh, tức là chối bỏ cái mạng sống của mình, thì Tú Bà đã khuyên rằng: Một người dễ có mấy THÂN, Hoa xuân phong nhụy ngày xuân còn dài. Cũng là lỡ một lầm hai, Đá vàng chi nở ép nài mưa mây... THÂN CƯỜNG LỰC TRÁNG 身强力壮: Chỉ Thân thể cường tráng, thân hình mạnh mẽ. Thể lực tốt. BÁN THÂN BẤT TOẠI 半身不遂: là Nửa thân mình không theo ý của mình, là bị liệt mất nửa người. ĐƠN THÂN ĐỘC Mà 單身獨馬: ta nói là Một mình một ngựa. THÂN BẠI DANH LIỆT 身敗名裂: là Thân Danh Bại Liệt, chỉ bản thân và danh dự của mình đều thất bại, thua thiệt, rách nát, xấu xa chẳng ra gì cả! Thân Bại Danh Liệt còn chỉ tiếng tăm danh vọng đều xuống cấp, mất hết uy tín ở đời, thất bại một cách triệt để. Sách Luận Ngữ, chương Học Nhi, Thầy Tăng Tử nói rằng: NGÔ NHẬT TAM TỈNH NGÔ THÂN 吾日三省吾身. Có nghĩa: Mỗi một ngày phải suy gẫm về bản thân mình 3 việc (Có tận tâm làm tròn trách nhiệm được giao hay không? Với bạn bè còn có chỗ nào chưa thành thật không? Có ôn tập lại những lời mà thầy đã dạy hay không?) 親 HÁN VIỆT Thân, Thấn NGHĨA VIỆT Cha mẹ, ruột thịt, thân cận, gần gũi,… DẠNG KHÁC 亲 TỪ GHÉP hoàng thân 皇親• kết thân 結親 • mẫu thân 母親. Chữ THÂN親 tức thân thích, thân hữu. Gồm bộ TÂN辛 bên trái, và chữ KIẾN見 bên phải, hàm nghĩa của bộ tân tức là vị cay, tượng trưng cho sự gian khổ, kiến tức là gặp mặt, nhìn thấy nhau; cho dù trong lúc khó khăn nhất, những người thân vẫn có thể luôn ở bên cạnh và tương trợ lẫn nhau, vẫn luôn thăm viếng và giữ được tình cảm khăng khít. Chữ giản thể đã bỏ mất đi chữ kiến chỉ còn lại bộ tân, anh em, vợ chồng, cha con vì bước đường mưu sinh gian khổ đã không còn nhìn mặt nhau nữa. 辰 HÁN VIỆT Thần, thìn NGHĨA VIỆT Giờ thìn, ngôi thứ 5 của hàng chi, rồng, tinh tú TỪ GHÉP sinh thần生辰• bất thần 不辰 • củng thần 拱辰 • dao thần 搖辰 • tinh thần 星辰 THẦN 辰 về cấu tạo là một chữ Tượng Hình, trong cổ văn 辰 miêu tả một dụng cụ làm cỏ được làm bằng vỏ hến, sau này do cách dùng Giả Tá mà phát sinh ra nghĩa chỉ thời gian, nên ta có từ THỜI THẦN 時辰 là GIỜ GIẤC, cái Đồng Hồ chỉ giờ giấc gọi là THỜI THẦN CHUNG 時辰鐘. Chữ THẦN 辰 nầy còn được đọc là THÌN, khi dùng để chỉ ngôi thứ 5 của Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, THÌN 辰 ... biểu tượng trong 12 con Giáp là con RỒNG. Giờ THÌN là từ 7 cho đến 9 giờ sáng. SINH THẦN 生辰 : là Sinh Nhật, là một cách gọi khác để chỉ ngày sinh cho trịnh trọng hơn. Chúc sinh nhựt cho người trẻ tuổi thì viết là SINH NHẬT KHOÁI LẠC 生日快樂; chúc sinh nhựt cho người cao niên thì viết là SINH THẦN DU KHOÁI 生辰愉快. Cả 2 cách nói đều có nghĩa là SINH NHẬT VUI VẺ! TINH THẦN 星辰 : Chỉ chung các Ngôi Sao trên trời. Từ dùng để gọi chung tất cả những tinh tú trên trời là NHẬT NGUYỆT TINH THẦN 日月星辰 : là Mặt Trời, Mặt Trăng và Các Vì Sao. 臣 HÁN VIỆT Thần NGHĨA VIỆT Bề tôi TỪ GHÉP cận thần 近臣• trọng thần 重臣 • trung thần 忠臣. Chữ THẦN臣 là một chữ tượng hình, theo cách giải thích của người Đường Hán, tác giả cuốn "Mật mã chữ Hán” thì chữ THẦN臣 trong giáp cốt văn và kim văn giống như hình con mắt đứng thẳng, khi người ta ngẩng đầu lên, nếu nhìn nghiêng sẽ thấy vị trí của mắt trong trạng thái dựng đứng , là biểu tượng người đang quỳ gốì, tuân thủ lệnh truyền, thể hiện sự thần phục” Về nghĩa gốc THẦN có nghĩa là nô lệ nam giới. Cách xưng gọi trong xã hội cũ quy định, nam tự xưng là THẦN, nữ tự xưng là thiếp, cũng xuất phát từ nghĩa gốc này. Các từ ghép THẦN DỊCH, THẦN PHỤC, THẦN DÂN... đểu có nghĩa liên quan đến sự tuân thủ phụng sự, chịu sự thống trị... Nguyên tắc lịch sự trong xưng hô của người Hán là “tôn hô khiêm xưng”, hạ thấp mình và đề cao ngưòi khác chính là chuẩn mực lịch sự của người Trung Quốc. Do đó, xưng hô trong tiếng hán cổ đại có xuất hiện cặp : QUÂN –THẦN và QUÂN –THIẾP. Trong chế độ Quân Chủ ngày xưa thì... THẦN 臣 : là Bề Tôi của Vua là QUÂN 君, gọi là QUÂN THẦN 君臣 : là VUA TÔI, là Vua và Bề Tôi. THẦN còn có nghĩa là Dân chúng trong một nước Quân Chủ được gọi là THẦN DÂN 臣民: là "Phó thường dân" đó! THẦN còn là lời tự xưng một cách khiêm nhượng của người xưa, như: THẦN BỘC 臣僕: là Nô Bộc ngày xưa tự xưng với chủ; THẦN THIẾP 臣妾 : là Lời tự xưng của Vợ hoặc Thiếp ngày xưa. Trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu : Tiên đáo vi quân, 先到為君, Hậu đáo vi thần. 後到為臣。 Có nghĩa : Ai đến trước thì làm Vua, Ai đến sau thì làm tôi. Ý muốn nói: Người nào nhanh chân nắm bắt trước thì vẫn hơn người chậm chạp đến sau. Nói theo bình dân là: "Thằng nào tới trước thì làm cha!" Nhân nhắc đến quân thần, lại nhớ đến vua Tự Đức. Một hôm, nhân cao hứng nhà vua làm được một đôi câu đối hay, mới đem ra để khoe với Cao Bá Quát, nhưng lại không có nói đó là câu đối của mình. Câu đối ấy như sau: THẦN khả báo QUÂN ân, 臣可報君恩, TỬ năng thừa PHỤ nghiệp. 子能承父業。 Có nghĩa : Bề Tôi có thể báo được ơn vua, Con có thể kế thừa được sự nghiệp của Cha. Ý muốn nói, mình có thể kế thừa được sự nghiệp của cha mình để lại mà làm một ông vua thật tốt, nên đám bề tôi của mình cũng có thể báo đáp được cái ân đức của mình. Nhà vua đang rất đắc ý, không ngờ Cao Bá Quát lại phán cho một câu: "Đại nghịch bất đạo, tội đáng chém đầu!" Hỏi: Tại sao?, thì thưa rằng: TÔI mà dám để trên CHÚA, CON mà dám để trước CHA, chẳng đáng chém đầu sao? Lại hỏi: Phải làm sao? Lại thưa rằng : Phải sữa lại như thế nầy : QUÂN ân THẦN khả báo, 君恩臣可報, PHỤ nghiệp TỬ năng thừa. 父業子能承. Có nghĩa : Ơn đức của vua, bề tôi có thể báo đáp. Cơ nghiệp của cha, con có thể kế thừa được. Vua Tự Đức phải chịu là giỏi, nhưng lại ngầm ghét cái tánh ý cao ngạo, trịch thượng của Chu Thần. 神 HÁN VIỆT Thần NGHĨA VIỆT thần linh, thánh, lạ,huyền bí,… TỪ GHÉP ác thần 惡神 • an thần 安神 • an thần dược 安神藥. Trong ấn tượng trực quan của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng thì “Thần” là đại biểu cho những điều tốt đẹp, là từ bi, che chở và phù hộ cho con người thế gian và có hình tượng của con người. Điều này có quan hệ trực tiếp với những truyền thuyết về Thần tạo ra con người phỏng theo hình tượng của mình. Còn trong văn hóa truyền thống phương Đông, trong nền tảng chữ Hán, thì hàm nghĩa của “Thần” được chất chứa trong kết cấu của chữ “Thần”: Trong thể chữ Kim Văn, chữ Thần (“神”) được cấu thành bởi chữ Thị (“示”) và chữ Thân (“申”). Chữ Thị (“示”) nằm bên trái của chữ Thân. Ngày nay, nó thường được viết thành “礻”, có nghĩa là bảo cho biết, mách cho biết. Từ ý nghĩa ấy, nó tượng trưng cho sự điểm hóa, gợi ý và khai thị của Trời đất và Thần đối với con người thế gian. Bên phải của chữ “Thần” là chữ Thân (“申”), nó vốn là chữ gốc của chữ Thần (“神”). Trong một lý giải khác, chữ Thân (“申”) là chỉ các tia chớp của ngày mưa, nó biến hóa không ngừng. Khi chữ Kim Văn kế tục chữ Giáp Cốt thì có loại chữ Kim Văn viết chữ Thân (“申”) dưới hình dạng của đôi bàn tay, dựng thẳng đứng để biểu thị rằng Thần nắm trong tay hết thảy. 十 HÁN VIỆT Thập NGHĨA VIỆT Số 10, đủ hết TỪ GHÉP cửu thập 九十 • dĩ nhất đương thập 以一當十 • hà tiên thập vịnh 河仙十詠 • hồng thập tự 紅十字 • thập điện 十殿. Chữ THẬP十mô tả một sợi dây có nút thắt trên đó, người Trung Quốc cổ đại đã sử dụng biểu tượng đó để đại diện cho số mười, vì số mười là số lớn nhất mà con người có thể đếm bằng cả hai tay của mình, đó cũng là một đơn vị tự nhiên. trong khái niệm của người Trung Quốc cổ đại, một nút thắt trong một sợi dây có nghĩa là một đầu của một sợi dây, vì vậy một nút thắt trong một sợi dây được sử dụng để đại diện cho số mười. Sử dụng nút thắt đại diện cho số 10 có thể thấy trong các chữ chấp廿(hai mươi), tạp卅(ba mươi) và tấp卌(bốn mươi) được mô tả hai, ba và bốn nút thắt trong một sợi dây tương ứng. 拾 HÁN VIỆT Thập, thiệp NGHĨA VIỆT Gom, nhặt TỪ GHÉP san thập 删拾• sưu thập 蒐拾 • thập giới 拾芥 • thu thập 收拾. Chữ THẬP là một chữ hình thanh kiêm hội ý, Bao gồm bộ THỦ 扌(tay) và HỢP 合 (thu thập, chứa). 合là hình ảnh của một thùng chứa có nắp, có ý nghĩa là chứa và thu thập (xem bài chữ合). Bàn tay là bộ phận cơ thể chính để làm việc của con người, khi chúng ta muốn gom hoặc thu thập một cái gì đó, chúng ta cần phải nhặt nó lên. 七 HÁN VIỆT Thất NGHĨA VIỆT Số 7 TỪ GHÉP song thất lục bát 雙七六八 • thất bảo 七寶 • thất nguyệt 七月• thất thập 七十. Chữ THẤT七trong thể chữ cổ được mô tả là một chữ thập, đại diện cho trung tâm của thế giới. Từ kiến thức của người Trung Quốc cổ đại, thế giới này được hình thành bởi bảy mặt, là đông, nam, tây, bắc, mặt trên, mặt dưới và mặt cuối cùng là trung tâm, vì vậy chữ thập được sử dụng để thể hiện khái niệm trung tâm (giống như khi ta quan sát một hình lập phương từ trên xuống dưới, điểm cong ra ở thể chữ triện văn thể hiện cho điểm trung tâm đó) vì nó mang nghĩa thứ bảy, người Trung Quốc cổ đại cũng sử dụng biểu tượng như vậy để mô tả số lượng bảy七. Người Trung Quốc cổ đại rất quan tâm đến thiên nhiên, và họ cũng nghĩ rằng con người là trung tâm của thế giới, vì vậy họ đã đặt con người là trung tâm cuối cùng, tức là thứ bảy. Bảy là con số rất quan trọng với người trung quốc. 室 HÁN VIỆT Thất NGHĨA VIỆT Nhà TỪ GHÉP gia thất 家室 • mật thất 密室. Chữ THẤT室gồm có bộ MIÊN宀 (mái nhà) và chữ CHÍ至 (đến), có nghĩa “người đến nhà”. Trong “Thuyết văn giải tự/ 《说文解字》 ” có ghi: “‘室/thất’, ‘nhà’, theo đến địa chỉ đã định/ 室,家也,从宀从至。至所止也/ Thất, gia dã, tòng miên, tòng chí. Chí sở chỉ dã” (Hứa Thận, 1998), nghĩa là người chồng trong thị tộc của mình không có “室/thất” (nhà), mà phải đến thị tộc nữ mới có “室/thất” (nhà). Phương thức cấu tạo THẤT室đã phản ánh tập tục (nam di cư) – nam giới về nhà vợ cư ngụ trong xã hội thời kỳ này. Điều này được hiện qua hình thể chữ Giáp cốt, chữ Kim, Tiểu triện và chữ Khải theo thứ tự từ trái qua phải. 妻 HÁN VIỆT Thê NGHĨA VIỆT Vợ, vợ cả,… TỪ GHÉP đa thê 多妻 • hiền thê 賢妻 • phu thê 夫妻. Nam nữ lớn lên, đến tuổi kết làm vợ chồng là đạo lý thông thường của làm người. Dưới chữ THÊ妻là chữ NỮ女cầm trong tay một chiếc chổi, cho nên, người vợ phải là người quán xuyến, lo toan công việc trong nhà. Đây cũng là quan niệm của người trung quốc xưa, người vợ chăm lo con cái, quán xuyến công việc gia đình cho chồng yên tâm lo những công việc lớn hơn. Thời cổ đại, người phụ nữ đòi hỏi phải “tam tòng”, ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết thì theo con. Việc người phụ nữ theo người đàn ông mà nói cũng không phải là một loại quyền uy của người đàn ông mà là một loại trách nhiệm. Loại trách nhiệm này không chỉ thể hiện trong đời sống vật chất mà còn bao hàm cả về mặt tinh thần. 体 HÁN VIỆT Thể, bổn NGHĨA VIỆT Thân mình, hình thể, dạng DẠNG KHÁC 體 TỪ GHÉP bản thể 本体cơ thể 肌体 • cụ thể 具体 • • thân thể 身体 • thể tài 体栽 • thi thể 尸体 • thực thể 实体 • tinh thể 星体. Chữ THỂ体là một chữ Hội Ý kết cấu trái phải, được cấu tạo bởi bộ NHÂN 人 (con người) và BẢN 本 (gốc, cơ sở). Cơ thể con người là cơ sở của một con người, nó là điểm kết nối chung của cả đầu tay và chân. 体là biến thể của 體, cả hai đều có chung ý nghĩa và cách phát âm, cả hai được dùng song song với nhau. 世 HÁN VIỆT Thế NGHĨA VIỆT Đời, thế hệ TỪ GHÉP cái thế 蓋世, cận thế 近世, giáng thế 降世 • hạ thế 下世 • hậu thế 後世. Chữ THẾ世 là một chữ Tượng Hình, trong cổ văn miêu tả một một cành lá với những chiếc lá lớn nhỏ nối liền nhau. Vì hàng năm lá vàng khô rụng xuống, lá mới lại mọc lên. Cũng như con người, thế hệ cha ông mất đi thế hệ hệ con cháu được sinh ra kế tục, cứ như vậy, từ thế hệ này đến thế hệ khác cuộc sống cứ tiếp nối. Ngày xưa cho rằng cứ 30 năm là một THẾ, cũng như thế hệ cha được nối tiếp bằng thế hệ con là một thế. 尸 HÁN VIỆT Thi NGHĨA VIỆT Xác người chết, thi thể TỪ GHÉP Vai trò chính là bộ thủ tạo chữ hán. Chữ THI 尸là một chữ tượng hình. Trong các dạng cổ văn, 尸 miêu tả xác một người nằm bất động, chân tay buông xuôi. Ý nghĩa ban đầu của 尸 là chỉ xác người chết nhưng ý nghĩa như vậy đã được thay thế bằng chữ THI 屍. Ngày nay chúng ta ít gặp 尸 với vai trò chữ đơn tạo từ ghép, 尸được dùng chủ yếu với vai trò là bộ thủ tạo chữ hán. Trên đây là bộ THI, và là chữ THI giản thể, chữ THI đủ nét thì như thế nầy: THI 屍 : là Thi Thể 屍體, Thi Hài 屍骸 ... CƯƠNG THI 僵屍 : là Xác chết thành tinh biết đi biết nhảy. TÁ THI HOÀN HỒN 借屍還魂 : Mượn xác để hoàn hồn sống dậy. Có trên 50 chữ được ghép bằng bộ THI. Tiêu biểu cho bộ THI có chữ ... ĐỒ 屠 : là Giết Gia Súc. Sau dùng rộng ra chỉ dự Giết Hại tập thể, tàn sát thảm thương với các từ như... ĐỒ TỂ 屠宰 : ĐỒ là Giết. TỂ là Chặt. Giết rồi còn Chặt ra làm nhiều mảnh, nên ta gọi ĐỒ TỂ là những người chuyên giết heo hằng ngày để bán thịt. 矢 HÁN VIỆT Thỉ, thi NGHĨA VIỆT Mũi tên, ngay thẳng TỪ GHÉP bồng thỉ 蓬矢 • cung thỉ 弓矢 • hao thỉ 嚆矢 • phi thỉ 飛矢 • tang hồ bồng thỉ 桑弧蓬矢 • thỉ ngôn 矢言 • thỉ thạch 矢石 THỈ 矢thuộc chữ Tượng Hình, Giáp Cốt Văn, Kim Văn, Đại Triện đều là hình tượng của một Mũi Tên vừa bắn ra khỏi cung. Nên THỈ 矢 là Mũi Tên, mà Mũi Tên thì luôn Đi Thẳng một đường không đổi hướng, nên THỈ cũng có nghĩa là “ngay thẳng” như : THỈ CHÍ BẤT CẢI 矢志不改 : Giữ vững chí hướng quyết không đổi dời. Lời thề nguyền, lời ước hẹn, mãi mãi vẫn không thay đổi ! THỈ 矢 là TÊN làm bằng cây. Còn TIỄN 箭 là TÊN làm bằng tre. HỒ 弧 là CUNG làm bằng cây; Còn CUNG 弓 được uốn bằng tre. Nên : CUNG TIỄN là Cung Tên, mà HỒ THỈ cũng là Cung Tên nữa! HỒ 弧 là Cung thường được làm bằng cành cây Dâu tằm ăn, gọi là cây TANG 桑, nên gọi là TANG HỒ 桑弧. Còn THỈ 矢 là Tên thường được làm bằng xương sống của cỏ Bồng 蓬, gọi là BỒNG THỈ 蓬矢, nên ta có thành ngữ TANG HỒ BỒNG THỈ 桑弧蓬矢. Ta hay nói thành TANG BỒNG HỒ THỈ hay HỒ THỈ TANG BỒNG gì cũng thế. Ngày xưa sanh con trai thì khi làm lễ tế cáo trời đất tổ tiên, người cha mới dùng Cung bằng cành Dâu và Tên bằng cỏ Bồng bắn ra bốn phương tám hướng Đông Tây Nam Bắc, ý là muốn cho con trai sau nầy lớn lên có chí hướng vẫy vùng và lập nghiệp ở khắp bốn phương, ta gọi đó là Chí Tang Bồng Hồ Thỉ, nghĩa là có chí lớn. Trong bản nhạc Nếu Một Mai Anh Biệt Kinh Kỳ, nhạc sĩ Minh Kỳ Hoài Linh đã viết : Tám hướng bốn phương trời mây ... Thôi nhé, anh đi từ đây!... Cụ Nguyễn Công Trứ mở đầu cho bài hát nói "Nợ Nam Nhi" của mình bằng 2 câu : Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái Cái công danh là cái nợ lần! THỈ TẬN BINH CÙNG 矢盡兵窮 : là Tên hết lính cũng không còn. Chỉ sự quyết tâm chiến đấu đến giây phút cuối cùng. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều đơn vị của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu đến THỈ TẬN BINH CÙNG mới chịu buông xuôi. THÂN ĐƯƠNG THỈ THẠCH 身當矢石 : là Lấy thân mình mà đương cự lại tên đá. Bây giờ thì ta nói là " Trong vòng Lửa Đạn ", còn ngày xưa thì chỉ có " Tên và Đá " mà thôi. Khi bị Hồ Tôn Hiến lừa, Từ Hải thất trận, chết đứng ở cửa thành. Lúc loạn quân dắt Thuý Kiều tới thì chỉ thấy : Trong vòng TÊN ĐÁ bời bời, Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ ! 豕 HÁN VIỆT Thỉ NGHĨA VIỆT Con heo, lợn TỪ GHÉP Bộ thủ chữ Hán THỈ 豕là chữ tượng hình, Giáp Cốt Văn miêu tả một con Heo với đầu nhọn, phần bụng to và đuôi. THỈ 豕vẫn ở dạng hình vẽ cho đến chữ Lệ đã hình thành dạng chữ viết nhưng vẫn còn thấy được hình dạng của một con Heo.THỈ 豕là bộ thủ tạo chữ, tiêu biểu cho bộ THỈ có chữ GIA家có nghĩa là nhà là gia đình. Heo là loài vật nuôi rất gần gũi với đời sống người Trung Quốc,trong nền kinh tế cổ sơ, dưới một nóc gia mà có nuôi được một con heo, là đã hình thành được nề nếp của một gia đình đầm ấm rồi, nên GIA家 có nghĩa là NHÀ là theo Hội Ý nầy mà thành. Ngoài chữ GIA家 còn có chữ TRƯ豬 là một trong lục súc gắn bó với con người. Ta có TRƯ KHUYÊN 豬圈: là Cái Chuồng heo. TRƯ ĐẦU 豬頭: là Cái Đầu Heo và cuối cùng là TRƯ NGỘ NĂNG 豬悟能 hay TRƯ BÁT GIỚI 豬八戒: là Đệ tử thứ 2 của Đường Tam Tạng, mê ăn, thích gái, biếng làm, hay ngủ... đủ cả thói hư tật xấu của con người. 示 HÁN VIỆT Thị, kỳ NGHĨA VIỆT Tỏ rõ, mách bảo, thần đất TỪ GHÉP ám thị 暗示 • biểu thị 表示 • cáo thị 告示 • chỉ thị 指示 • hiển thị 顯示 • thị chúng 示眾 • thị uy 示威 • yết thị 揭示 THỊ 示là chữ dùng Tượng Hình, Chỉ Sự để Hội Ý, từ Giáp Cốt Văn cho đến Kim Văn Đại Triện, mặc dù hình tượng có khác nhưng tựu trung vẫn là hình tượng của cái bàn thờ với cái giá 3 chân, vạch ngang nhỏ phía trên là tượng trưng cho vật cúng, với Ý là: Khi cúng bái thì ta phải van vái để BÀY TỎ lòng mình, nên... THỊ 示 : là Bày Tỏ, là Dùng cử chỉ hoặc lời nói khiến cho người khác hiểu ý mình, như: BIỂU THỊ 表示, CÁO THỊ 告示, CHỈ THỊ 指示, THỊ UY 示威, THỊ CHÚNG 示眾 ... THỊ UY 示威 : là LÀM OAI. Nhưng ngoài nghĩa "Chứng tỏ cho người khác biết sức mạnh của mình" ra; THỊ UY còn có nghĩa là: BIỂU TÌNH, đi THỊ UY tức là Đi Biểu Tình đó. (BIỂU TÌNH 表情 là từ Hán Việt chuyên dùng theo tập quán của người Việt: ĐI BIỂU TÌNH; Người Hoa nói là: ĐI THỊ UY. Còn BIỂU TÌNH 表情 thì họ chỉ hiểu theo nghĩa: Biểu lộ tình cảm, tức là "Bày tỏ tình cảm của mình" mà thôi!). THỊ UY 示威 cũng có nghĩa là RA OAI, như Hai hàng công sai dàn chào của Bao Công khi sử án thường hô to từ "UY VŨ!" để cướp tinh thần và Ra Oai với phạm nhân. Trong Kiều, khi biết Thúc Sinh đã chuộc Kiều về làm vợ lẽ, Thúc Ông thưa Kiều lên Phủ đường, khi quan Phủ xử án; cụ Nguyễn Du cũng đã viết như thế nầy: Trông lên mặt sắt đen xì, Lập nghiêm trước đã RA UY nặng lời : " Gã kia dại nết chơi bời, Mà con người thế là người đong đưa!... THỊ CHÚNG 示眾 : là Răn Chúng."Trảm thủ Thị Chúng 斬首示眾 " là "Chém đầu răn chúng". Chém đầu một người để răn cả đám đông quần chúng phải khiếp sợ mà nghe theo. THỊ PHẠM 示範 : Làm việc gì đó để người khác thấy mà làm theo. Ta nói là LÀM GƯƠNG, làm Mẫu, làm Kiểu. ÁM THỊ 暗示 : là Ra dấu ngầm để cho người khác hiểu. TỰ KỶ ÁM THỊ 自己暗示 : là Tự mình ám thị mình, vì nguyên nhân nào đó không thể nói ra, rồi tự mình giày vò ray rức lấy mình, rồi sinh ra trầm cảm mà thành bệnh rối loạn về tâm lý, đôi khi ảnh hưởng đến thần kinh... 侍 HÁN VIỆT Thị NGHĨA VIỆT Coi sóc, thân cận, gần gũi,… TỪ GHÉP nội thị 內侍 • thị độc 侍讀• thị nữ 侍女• thị vệ 侍卫. Chữ THỊ侍được kết hợp bởi chữ NHÂN亻(người) và chữ TỰ寺 (ngôi chùa). Trong giáp cốt và triện văn, chữ THỊ nhìn giống như hình ảnh một người đang dùng tay để chăm sóc cây. Phần bên phải của chữ là hình ảnh đôi bàn tay đang hướng tới cái cây nhỏ biểu thị cho việc đang vun xới, cắt tỉa cây. Nghĩa ban đầu của chữ THỊ 侍là coi sóc, chăm bẵm. Theo thời gian, phần bên phải của chữ biến đổi và trở thành chữ TỰ 寺như bây giờ. Chữ Tự cũng phát triển thêm nghĩa là gần gữi hay thân cận. 釋 HÁN VIỆT Thích, dịch NGHĨA VIỆT Cởi ra, bày ra, làm rõ TỪ GHÉP băng thích 冰釋 • chú thích 注釋 • giải thích 解釋 • phóng thích 放釋 • thích ca 釋迦. Chữ THÍCH釋 là một chữ hình thanh kết cấu trái phải bao gồm bên trái là bộ BIỆN釆(phân biệt) biểu nghĩa và bên phải là chữ DỊCH 睪(nhòm, ngó) biểu thị âm đọc. BIỆN釆 là chữ tượng hình miêu tả dấu chân thú để lại trên mặt đất, người ta có thể biết được nhiều thông tin thông qua dấu chân thú để lại nên THÍCH 釋có nghĩa là làm rõ hay cắt nghĩa cho rõ như trong từ “giải thích 解釋” có nghĩa là cắt nghĩa làm rõ vấn đề gì đó. Ta cũng có từ“chú thích 注釋” là lưu ý và giải thích cho rõ nghĩa một vấn đề. THÍCH ngoài nghĩa làm rõ và cắt nghĩa cũng có nghĩa là bày ra, bỏ ra, thả ra như trong từ “phóng thích” là thả ra, ta có “phóng thích phạm nhân” là THẢ những người bị ở tù ra. Ngoài những nghĩa trên THÍCH 釋 còn là tên gọi tắt của Đức Phật THÍCH CA MÂU NI 釋迦牟尼 do phiên âm tiếng Phạn là Sakyamuni mà ra, nên đạo Phật còn gọi là THÍCH ĐẠO 釋道 hoặc THÍCH GIÁO 釋教 là Đạo Thích. Tương tự THÍCH ĐIỂN 釋典 là Kinh Phật, THÍCH TỬ 釋子 là Thầy Chùa. 請 HÁN VIỆT thỉnh • tình • tính NGHĨA VIỆT Mời, Xin, cầu xin, khẩn cầu, Yết kiến, bái kiến,… DẠNG KHÁC 请 TỪ GHÉP tấu thỉnh 奏請 • thỉnh an 請安 • thỉnh cầu 請求 • thỉnh giáo 請教 • thỉnh nguyện 請願. Chữ 請 nghĩa là Mời, Xin, cầu xin, khẩn cầu, Yết kiến, bái kiến. Về cấu tạo, 請là một chữ hình thanh điển hình có kết cấu trái phải. Kết hợp bởi chữ Ngôn 言 là lời nói (thành phần chỉ ý) và chữ Thanh 青 màu xanh (là thành phần biểu thị âm đọc). “Tôn hô khiêm xưng” là chuẩn mực trong giao tiếp của người Trung Quốc xưa. Nghĩa là xin, cầu xin, được sử dụng làm kính từ như: “thỉnh giáo” 請教 xin dạy bảo cho, “thỉnh thị” 請示 xin chỉ bảo cho. Ta có một câu thơ lục bát về chữ THỈNH này như sau: "Lấy trăng làm ghế vua ngồi (青) Nói lời (言) tốt đẹp thỉnh mời vua sang". 氏 HÁN VIỆT Thị, chi NGHĨA VIỆT Họ, họ nghành (sinh vật học) TỪ GHÉP bá thị 伯氏 • ngoại thị 外氏 • tính thị 姓氏 • yên thị 閼氏. Chữ THỊ氏là một chữ tượng hình. Hình dạng chữ THỊ氏 trong các thể chữ cổ mô tả một người đàn ông cúi đầu giữ một cái khung, khung có nghĩa là bao quanh một mảnh đất, ngụ ý người đó có được một mảnh đất. Ở Trung Quốc cổ đại, chư hầu sẽ lấy một họ khác sau khi một mảnh đất được cấp cho anh ta, họ đó là 氏, thường được đặt tên theo tên của một quốc gia, một địa điểm hoặc một vị trí chính thức. Mặt khác, cả TÍNH 姓và THỊ氏 đều có nghĩa là họ, nhưng姓xuất phát từ mẹ trong khi xuất phát từ cha, hiện tượng đó được tạo ra bởi các giai đoạn khác nhau của xã hội, sự khác biệt giữa chế độ mẫu hệ và chế độ phụ hệ. Bây giờ không có sự khác biệt giữa 姓hoặc 氏, vì tất cả đều thừa hưởng họ từ cha. THỊ 氏 : là THỊ TỘC, là Dòng Họ của các Vua Chúa Quý Tộc ngày xưa, như THẦN NÔNG THỊ 神農氏, HÒA THỊ CHI BÍCH 和氏之璧, THÁI THƯỜNG THỊ 太常氏 ... Được nhiều người biết đến nhất là ... Là THỊ XUÂN THU 吕氏春秋 : là Chuyện của nhà họ Lã thời Xuân Thu, nổi tiếng với con buôn Lã Bất Vi với thương vụ buôn vua bán chúa và là cha đẻ của Tần Thuỷ Hoàng. Đọc tiểu thuyết võ hiệp của KIM DUNG ta hay bắt gặp các danh hiệu như: Triệu Thị Song Hùng 趙氏雙雄 là Hai người anh hùng của dòng họ Triệu, hay Mộ Dung Thị 慕容氏 là Dòng họ Mộ Dung hậu duệ của nước Yên trong Thiên Long Bát Bộ... Gần đây nhất, điện ảnh Hồng Kông trong thập niên 60-70 của Thế Kỷ trước có Thiệu Thị Điện Ảnh Hữu Hạn Công Ty 邵氏電影有限公司 là Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Điện Ảnh của anh em nhà họ THIỆU đã rất nổi đình nổi đám với các phim như: Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, Hoa Mộc Lan, Sơn Ca Luyến... Nhưng tại sao... THỊ 氏 trong ngôn ngữ Việt Nam hiện nay lại đổi "giới tính" trở thành từ chuyên dùng cho Phái Nữ vậy?! Đây là Tập Quán Ngôn Ngữ do Thói Quen của ông cha ta khi viết về Lý Lịch của Phái Nữ. Ví dụ như muốn nói rõ thân thế của một người đàn bà họ LÊ, tên KIM HOA, có chồng và sống trong gia đình nhà chồng mang họ NGUYỄN, thì phải viết như thế nầy : NGUYỄN môn, LÊ THỊ, KIM HOA, nhũ danh THỊ LÀI .... 阮門黎氏金花乳名氏萊 .... Có nghĩa : Bà KIM HOA thuộc DÒNG HỌ LÊ sống trong môn tộc của nhà họ NGUYỄN, tên cúng cơm là THỊ LÀI ... Chính vì cách nói trên mà gây nên hiểu lầm THỊ 氏 là chữ lót của tên phái nữ, nhưng vì sử dụng lâu ngày thành thói quen, hễ nhắc đến chữ THỊ là nghĩ ngay đến đó là Mấy Bà Mấy Cô... Đặt tên cho phái nữ cũng dùng chữ THỊ, như : Thị Mầu, Thị Nở, Thị Mẹt... 視 HÁN VIỆT Thị NGHĨA VIỆT Nhìn, coi TỪ GHÉP cận thị 近視• giám thị 監視 • khiếm thị 欠視 • kỳ thị 歧視 • miệt thị 蔑視. Về mặt cấu tạo chữ THỊ視trong các từ điển chữ hán hiện đại được định nghĩa là một chữ hình thanh kiêm hội ý. Nếu hiểu là chữ hình thanh, chữ THỊ視gồm chữ THỊ礻bên trái biểu âm, và chữ KIẾN見bên phải biểu nghĩa. Chữ 見 chủ thể về các nghĩa liên quan đến các đặc điểm, chức năng của mắt như nhìn, quan sát,… kết hợp với âm đọc của chữ 礻tạo thành chữ THỊ 視. Nếu hiểu là chữ hội ý thì tính chất biểu ý của hai thành phần tạo chữ (礻+ 見)là : người ta chi có thể nhìn thấy thứ gì đó khi chúng được biểu hiện ra bên ngoài (THỊ là tỏ rõ, mách bảo KIẾN 見 là nhìn). 是 HÁN VIỆT Thị NGHĨA VIỆT Đúng, là TỪ GHÉP bổn thị 本是 • chỉ thị 只是 • quốc thị 國是 • tận thị 盡是 • thị phi 是非. Chữ THỊ是 là một chữ Hội Ý kết cấu trên dưới, bao gồm bộ NHẬT (mặt trời) và một biến thể của chữ CHÍNH正 (đúng, ngay thẳng). Chữ THỊ是trong giáp cốt văn mô tả một bàn chân tiến về phía trước, mặt trời là biểu tượng của sự sáng, đi về phía mặt trời có nghĩa là theo đuổi ánh sáng. Vì vậy Chữ THỊ是có ý nghĩa của sự đúng đắn, chân lý và sự khẳng định. Cũng về nguồn gốc chữ THỊ是 một số học giả cho rằng: THỊ vốn chữ Hội Ý, chữ bao gồm bên trên là NHẬT QUY một dụng cụ đo lường rất thông dụng thời cổ xưa, bên dưới là hình ảnh của bàn chân. Nhật quy biểu trưng cho sự chính xác, đúng đắn trong khi hình bàn chân biểu trưng cho bước đi; nên THỊ是tức là “đi đúng hướng”. 天 HÁN VIỆT thiên NGHĨA VIỆT Trời, bầu trời, mùa, tự nhiên TỪ GHÉP tây thiên 西天 • thanh thiên 青天 • thăng thiên 升天 • thiên chúa 天主 • thiên chức 天職 • thiên cơ 天機 • thiên cung 天宮 Chữ THIÊN天 là một dạng chữ chỉ sự. Trong các dạng chữ cổ chữ天mô tả một người cao lớn (chữ大),phía trên là một mặt phẳng, mặt phẳng này sau đó được thay bằng một nét ngang, nét ngang như vậy để nhấn mạnh thứ ở trên đầu con người (chỉ sự), đó là bầu trời. THIÊN là phần cao nhất ở trên đầu, nên THIÊN có nghĩa là Trời. Con người sống giữa trời đất, hợp với trời đất thành TAM TÀI 三才: THIÊN ĐỊA NHÂN 天地人, nên hễ có bất cứ sự cố vui buồn gì xảy ra đều liên quan đến trời và đất, vì thế mà ta có rất nhiều thành ngữ, khẩu ngữ liên quan đến Trời Đất như: 1. Đĩnh Thiên Lập Địa 頂天立地 : Ta nói là Đội trời đạp đất. 2. Kinh Thiên Động Địa 驚天動地 : Ta nói là Động trời động đất. 3. Hôn Thiên Ám Địa 昏天黯地 : Ta nói là Tối trời tối đất. 4. Phiên Thiên Phúc Địa 翻天覆地 : Ta nói là Nghiêng trời lở đất. 5. Mai Thiên Oán Địa 埋天怨地 : Ta nói là Than trời trách đất. 6. Đàm Thiên Thuyết Địa 談天說地 : Ta nói là Nói trời nói đất. Nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. 7. Hoa Thiên Tửu Địa 花天酒地 : Ta nói là Ăn chơi mút mùa. Ăn chơi lu bù trời đất. 8. Hồ Thiên Hồ Địa 胡天胡地 : Ta nói là Quậy cho tới bến. Quậy đến nỗi không còn biết trời đất gì cả! 9. Hoan Thiên Hỉ Địa 歡天喜地 : Ta nói là Vui mừng qúa đổi. Vui qúa trời qúa đất. 10. Tạ Thiên Tạ Địa 謝天謝地 : Ta nói là Tạ trời tạ đất, là Cảm ơn trời cảm ơn đất, là Cảm ơn Trời Đất! Mười thành ngữ trên có thể coi là "Thập Đại Thiên Địa 十大天地". Mười cái TRỜI ĐẤT lớn nhất trong cuộc sống hàng ngày! 妾 HÁN VIỆT Thiếp NGHĨA VIỆT Vợ lẽ, nàng hầu,.. TỪ GHÉP thê thiếp 妻妾 • tì thiếp 婢妾 • tiện thiếp 賤妾 • tiểu thiếp 小妾. Chữ “妾/ thiếp” (vợ lẽ, vợ bé) là chữ hội ý. Thể chữ Giáp cốt được cấu tạo từ chữ “辛/ tân” (hình đao, nghĩa là cực hình, khổ sở) và bộ “女/ nữ”. Cấu tạo nghĩa cho thấy hình ảnh người phụ nữ có tội đang chịu hình phạt. Thuyết văn giải tự/ 《说文解字》 ” giải thích: “Thiếp, nghĩa là người phụ nữ có tội, là nô lệ phải hầu hạ bên cạnh chủ/ 妾,有罪女子,给事之得接于君者” (Hứa Thận, 1998). Cho thấy “thiếp” có địa vị thấp hèn và phụ thuộc như nô lệ. “妻/ thê” “妾/ thiếp” là hệ quả của sự ép hôn. Xã hội ngày xưa theo quan niệm Nho giáo Trung Quốc cho rằng: “Trong ba điều bất hiếu, lớn nhất là không có con nối dõi/ 不孝有三,无后为大/ bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (Mạnh Tử/ 孟子) đã biến người phụ nữ thành công cụ sinh đẻ để có người nối dõitông đường. Đây chính là căn cớ để nam giới có thể đàng hoàng lấy “thê” (vợ), rồi lại có “thiếp” (vợ lẽ, vợ bé). Tuy có cách nói “tam thê”, nhưng trong thực tế cuộc sống thường chỉ có một “thê” (vợ cả), còn lại là thiếp. Vợ cả mặc dù được coi là người vợ chính thức, về mặt hình thức có quyền lợi ngang bằng với chồng, nhưng trên thực tế, dù là “thê” hay “thiếp”, họ đều là những người phụ thuộc vào chồng và có địa vị thấp hơn. Chuyện hôn nhân ngày trước đều do cha mẹ và bề trên sắp đặt, nhất nhất phải tuân theo “Mệnh lệnh sắp đặt của cha mẹ và lời mai mối/ 父母之命,媒妁之言/ phụ mẫu chi mệnh, môi chước chi ngôn”. Nữ giới không được tự ý kết hôn. Bất luận chồng là người như thế nào cũng phải chấp thuận. “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy/ 嫁鸡随鸡,嫁狗随狗” (Gả cho gà thì theo gà, gả cho chó thì lấy chó). Do vậy, trong hôn nhân ép buộc và sắp đặt, mọi người thường luôn có tâm trạng ai oán, sầu bi. Nhiều nơi ở Trung Quốc cho đến nay vẫn còn lưu truyền bài hát “Khốc giá ca/ 《哭嫁歌》 ” (khúc hát buồn khi đi lấy chồng), chính là những nội dung phản ánh tâm trạng bi ai, oán thán của người con gái với cha mẹ khi bị sắp đặt ép gả. “Thê, thiếp”, sự ép hôn và sắp đặt hôn nhân đã phản ánh địa vị thấp hèn, thân phận phụ thuộc vào nam giới của nữ giới trong chế độ xã hội phụ quyền. 涉 HÁN VIỆT Thiệp NGHĨA VIỆT Lội, bước vào, liên quan, can thiệp. DẠNG KHÁC 渉 TỪ GHÉP can thiệp 干涉 • giao thiệp 交涉 • lịch thiệp 歴涉 • quan thiệp 關涉. Chữ THIỆP涉là một chữ hội ý điển hình có kết cấu trái phải, bao gồm bộ THỦY氵 (nước, sông) và chữ BỘ 步 (bước chân, đi bộ) hợp thành. Chữ 步 mô tả đôi bàn chân một trái một phải đang bước đi (xem lại bài chữ步), khi 步 kết hợp với bộ氵 thành chữ 涉 mô tả hai bàn chân đang di chuyển qua một con sông. Nghĩa gốc của 涉 chỉ việc lội nước như “bạt sơn thiệp thủy跋山涉水”(trèo đèo lội suối). Mặt khác, bàn chân của ai đó sẽ bị ướt nếu người đó băng qua sông bằng chân, vì vậy 涉 cũng được sử dụng để mô tả một cái gì đó hoặc ai đó có liên quan hay dính líu đến điều khác. 聽 HÁN VIỆT Thính, Thinh NGHĨA VIỆT Nghe, Nghe theo,… DẠNG KHÁC 聴 , 聼 TỪ GHÉP Thám thính 探聽 • thính thoại 聽話 • thu thính 收聽 Chữ “Thính” (聽) nghĩa là lắng nghe, bao gồm bộ “Nhĩ” (耳 – tai), bộ “Vương” (王 – vua), chữ “Thập” (十 – mười), chữ “Mục” (目 – mắt), chữ “Nhất” (一) và chữ “Tâm” (心). Nếu ghép các bộ này vào nhau chúng ta sẽ hiểu được hàm ý mà người xưa muốn gửi gắm: Khi lắng nghe một ai đó, chúng ta phải khiến người ấy cảm thấy mình quan trọng như một vị vua (chữ Vương), và lắng nghe bằng đôi tai của mình (bộ Nhĩ). Đồng thời chúng ta còn phải dồn mọi ánh nhìn và sự chú ý tới họ (chữ Thập, chữ Mục). Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, điều quan trọng nhất là phải dành trọn trái tim để cảm nhận những điều họ nói (chữ Nhất, Tâm). Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể lắng nghe trọn vẹn những thông điệp mà họ muốn truyền tải, mới biết cách thấu hiểu và trân trọng người khác. 壽 HÁN VIỆT Thọ NGHĨA VIỆT Sống lâu TỪ GHÉP hưởng thọ 享壽 • nhân thọ 仁壽 • phú thọ 富壽 • thượng thọ 上壽 • trường thọ 長壽 • vạn thọ 萬壽. Theo ‘Thuyết văn giải tự’: “Thọ, cửu dã”, nghĩa là: “Thọ chính là lâu dài vậy”. Thế nên khi nói con người thọ nghĩa là sinh mệnh được kéo dài, cũng gọi là trường thọ. Bí quyết để đạt được trường thọ nằm ở ngay cách viết chữ Thọ này. Chiết tự chữ Thọ (壽) là: Sỹ Nhất Công Nhất Thốn Khẩu (士一工一寸口), nghĩa là kẻ sỹ (士) có trí tuệ, tri thức lý trí hiểu đạo lý quy luật tự nhiên, một mặt (一) làm việc (工), cống hiến cho nhân quần cho xã hội, một mặt (一) tu tốt cái miệng của mình (口), ăn uống, nói năng có chừng mực (寸), bởi vì “Bệnh theo miệng mà vào, họa theo miệng mà ra”. Khổng Tử cũng nói: “Trí giả lạc, nhân giả thọ”, nghĩa là: người có trí tuệ thìvui vẻ, người có lòng nhân thì trường thọ. Sau khi Trương Tam Phong, ông tổ phái Võ Đang đắc Đạo thành Tiên, cả 2 hoàng đế nhà Minh là Chu Nguyên Chương và sau đó là Chu Đệ đều tìm ông cầu phép trường sinh nhưng không gặp, ông chỉ để lại bài thơ có 2 câu cuối như sau: “Dám đem lời mọn phiền Thánh đế, Thanh tâm quả dục phép trường sinh”. Thế nên với người thường, chỉ cần giảm bớt dục vọng, nhân ái bao dung với mọi người thì cũng đã có thể kéo dài tuổi thọ rồi. Còn để đạt tới mức ‘thọ cùng trời đất’ thì một người ắt phải tu luyện. Trong Hán thư có viết: “Nếu đại vương thành tâm chú ý như thế, thì tâm đại vương sẽ có chí của vua Nghiêu Thuấn, thân thể của đại vương sẽ có tuổi thọ của Chân nhân Tùng Kiều”. Tùng Kiều ở đây là Xích Tùng Tử và Vương Tử Kiều, là hai người tu đắc Đạo thành Tiên. Bản thân vua Nghiêu cũng bái Doãn Thọ làm thầy, sau này nhường ngôi cho vua Thuấn để vào núi tu đạo. 妥 HÁN VIỆT Thỏa NGHĨA VIỆT Yên ổn, thỏa đáng, thích hợp. TỪ GHÉP ổn thoả 穩妥 • thoả đáng 妥當 • thoả hiệp 妥协 • thoả hiệp 妥協 • thoả mãn 妥滿 Chữ THỎA妥là một chữ hội ý có kết cấu trên dưới, bao gồm phía trên là bộ TRẢO爫 (tay) và phía dưới là bộ NỮ 女 (con gái). Hình ảnh một bàn tay phía trên một người phụ nữ với ý chỉ đã đạt được cô ta hay nói theo chiều ngược lại thì cô gái này đã yên bề gia thất. Nghĩa gốc của 妥 là “yên ổn” hay “an định”, ý nghĩa này sau đó được thay thế bằng 綏, tuy nhiên cả hai chữ này vẫn được dùng song song và có thể thay thế cho nhau trong một số trường hợp. 退 HÁN VIỆT Thoái, Thối NGHĨA VIỆT Lui, lùi đối lại với “tiến” 進. hay rút lui, lui binh,... DẠNG KHÁC TỪ GHÉP suy thoái 衰退 • thoái hoá 退化• thoái thác 退託 • thoái trào 退潮 • thoái vị 退位. Chữ THOÁI退 nghĩa là Lui, lùi đối lại với “tiến” 進. hay rút lui, lui binh...Gồm bộ quai Sước 辶(nghĩa là đi, bay, chạy...) và chữ Cấn 艮 ( là cứng, kiên cố, ngang ngạnh...) Khi đi 辶 mà gặp cản trở 艮 tiến không được thì phải lùi 退. Đây là cách ngắn gọn để ghi nhớ chữ hán này. Về mặt cấu tạo nó là một chữ hình thanh, bộ辶liên quan đến nghĩa đi đứng, di chuyển kết hợp âm đọc của艮để tạo thành chữ退. 吐 HÁN VIỆT Thổ NGHĨA VIỆT Nhả ra, nói ra TỪ GHÉP thổ khí 吐氣 • thổ lộ 吐露 • thổ phiền 吐蕃 • thổ tả 吐瀉• Chữ THỔ吐là một chữ hình thanh kết cấu trái phải. Trong đó, bộ KHẨU口 (miệng) bên trái là thành phần biểu nghĩa, bộ THỔ 土 (đất) bên phải là bộ phận có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. KHẨU 口 chủ thể về các nghĩa liên quan đến các đặc tính của miệng như ăn uống, nói năng…kết hợp với âm đọc của土tạo thành chữ 吐 với nghĩa là nói ra như trong từ THỔ LỘ吐露 hay nghĩa nhổ ra như trong từ THỔ TẢ吐瀉. 吞 HÁN VIỆT Thôn NGHĨA VIỆT Nuốt, tiêu diệt DẠNG KHÁC 呑 TỪ GHÉP kình thôn 鯨吞thôn thực 吞食 • thôn tính 吞併 • thôn tính 吞并• xà thôn tượng 蛇吞象 • xâm thôn 侵吞 THÔN吞là chữ Hình Thanh bao gồm bên trên là THIÊN 天(trời) chỉ âm và bên dưới là bộ KHẨU口 biệu thị ý nghĩa. Một dạng thể khác của chữ THÔN là 呑, chữ này không phổ biến ở Trung Quốc nhưng được sử dụng ở Nhật bản. Với bộ口 biểu ý THÔN吞 có nghĩa là “nuốt”.Ta có từ THÔN TÍNH吞併: THÔN là nuốt, TÍNH là gộp lại nên THÔN TÍNH nghĩa đen là “gom lại và nuốt”ý nói chiếm giữ đất đai, lãnh thổ của người khác làmthành của mình. Thành ngữ tiêu biểu cho chữ THÔN là XÀ DỤC THÔN TƯỢNG 蛇欲吞象 : có nghĩa là Rắn mà muốn nuốt Voi, dùng để chỉ lòng tham vô đáy của con người. Đây là cách nói tắt,câu đầy đủ là: Nhân tâm bất túc Xà Thôn Tượng 人心不足蛇吞象 là Lòng người vô đáy không bao giờ là đủ, rắn mà lại muốn nuốt voi! 寸 HÁN VIỆT Thốn NGHĨA VIỆT Bộ thốn (214), tay, đơn vị đo TỪ GHÉP công thốn 公寸 • phân thốn 分寸 • tam thốn thiệt 三寸舌 • thốn địa 寸地 • thốn tâm 寸心 • thốn thiệt 寸舌 • Chữ THỐN 寸 là một chữ chỉ sự. Mô tả một cánh tay với một nét vẽ chỉ vào mạch cổ tay. Trong lý thuyết của y học Trung Quốc, mạch cổ tay là điểm đập trên cổ tay mà thầy thuốc Trung Quốc dùng để chẩn đoán thông qua xung nhịp đập, điểm xung như vậy cách một khoảng dưới lòng bàn tay. THỐN寸có nghĩa ban đầu là 'mạch cổ tay', vì bác sĩ Trung Quốc có thể biết tình trạng bệnh bằng cách nhấn vào đó, nhưng ý nghĩa đó đã được thay thế bằng 忖, nên sau đó 寸dùng để chỉ đơn vị đo. Mặt khác, giống như 又, 寸được sử dụng như một thành phần cấu tao trong một hán tự khác, là một trong 214 bộ thủ, nó có nghĩa là 'bàn tay'. 時 HÁN VIỆT Thời, Thì NGHĨA VIỆT Thời gian, lúc, cơ hội, mùa,…. DẠNG KHÁC 时 TỪ GHÉP đồng thời 同時 • đương thời 當時 • giao thời 交時• hợp thời 合時. Chữ THỜI 時 giải thích cách đo vị trí của mặt trời của người xưa. Chữ THỜI có thể chia ra làm 3 bộ phận nhật 日, thổ 土, thốn 寸 tức là trên mặt đất (土) đo đạc (寸) vị trí của mặt trời (日). Cổ nhân cho rằng bất kỳ mặt trời ở phương hướng nào thì đều thấy bóng của nó, người ta căn cứ sự di chuyển của bóng mặt trời để xác định thời gian. Chữ THỜI giản thể 时 là từ hội ý nhưng vẫn giữ nguyên được ý nghĩa đo thời gian qua mặt trời. 收 HÁN VIỆT Thu, thâu NGHĨA VIỆT Thu về, lấy về, bắt giữ TỪ GHÉP bị thu 被收, thu giám 收監, thu thập 收拾. Chữ THU收 là một chữ hội ý, bao gồm丩là biến thể của 勾 (hình ảnh hai móc nối với nhau) và 攵 (hình ảnh một bàn tay đang cầm một cây gậy hoặc một công cụ). Một cái móc (勾)là một công cụ để kéo đồ vật, trong khi攵đại diện cho vũ lực hay quyền lực, vì vậy 收 có nghĩa là hành động dùng quyền lực, vũ lực để đạt được một cái gì đó. 秋 HÁN VIỆT Thu NGHĨA VIỆT Mùa thu TỪ GHÉP lập thu 立秋 • thu phong 秋風 • thu thuỷ 秋水 • trung thu 中秋. Chữ THU秋là chữ hội ý kết cấu trái phải, một bên là bộ HÒA禾(cây lúa), một bên là bộ HỎA火 (lửa). Sau thời ký sinh trưởng và phát triển, cây cối đơm hoa kết trái và bước vào độ chín. Mùa thu về dưới sắc vàng của ánh nắng mặt trời, bông lúa chín ngả màu vàng, lá cây ngả màu vàng, màu vàng như màu lửa, gợi cảm giác ấm cúm đầy đủ. Chữ THU秋 với sự hội ý của HÒA và HỎA có sức gợi tả sinh động, khiến người ta hình dung ra cảnh đồng quê tràn ngập ánh vàng của mùa màng, của cỏ cây hoa lá sau chu kì sinh sôi nảy nở. Cũng có lý giải chữ THU dựa vào tập quán trồng cấy của người dân. Khi mùa về người ta thu hoạch lấy hạt để dùng và làm hạt giống. Phần rơm rạ thì người ta đốt đi để chuẩn bị gieo trồng vụ mùa sau. Dù hiểu theo cách nào thì mua thu cũng gắn liền với văn hóa nông nghiệp, sự tri nhận về đặc thù của cảnhsắc thu và tập quán gieo trồng của người Trung Quốc cổ đại. Xuân là mùa gieo trồng , Thu là mùa thu hoạch. Trước thời Tây Chu người ta chỉ chia một năm thành hai mùa, mùa xuân và mùa thu. Chính vì vậy sử biên niên nước lỗ còn gọi là Xuân Thu. Hơn thế nữa trong văn học chữ THU 秋 còn có nghĩa là năm, ví dụ như trong từ thiên thu. 殳 HÁN VIỆT thù NGHĨA VIỆT Một loại binh khí có cán dài, cây gậy, bộ thù TỪ GHÉP Bộ thủ chữ hán Chữ THÙ殳là một chữ Tượng Hình, trong cổ văn chữ mô tả một bàn tay đang cầm một một binh khí, 殳được dùng để chỉ một vũ khí cổ xưa của Trung Quốc,một thứ vũ khí dài một trượng hai thước, thường không có mũi nhọn giống như một cây gậy được làm bằng tre. 讎 HÁN VIỆT Thù NGHĨA VIỆT Thù địch, đối lại,… TỪ GHÉP báo thù 報讎 • phục thù 復讎 • thâm thù 深讎. Chữ THÙ 讎 (thù địch) trong thuyết văn giải tự định nghĩa là một chữ hình thanh. Được hợp bởi chữ THÙ 雔 biểu âm và bộ NGÔN 言 biểu ý. Thực ra có thể coi chữ THÙ là chữ hội ý. Chữ THÙ 讎 hợp bởi 2 bộ CHUY隹 (con chim) ở hai bên, ý nói hai con chim đang đối đầu nhau, bộ NGÔN言ở giữa biểu thị sự tranh luận gay gắt. Điều đặc biệt là chữ THÙ雔 được biểu thị bằng hai con chim đứng cạnh nhau như đôi uyên ương, cho nên chữ THÙ雔lại mang nghĩa hoàn toàn trái ngược, nó mang nghĩa là đôi chim hay bạn bè.Vị trí đứng của hai chú chim đã quyết định 2 ý nghĩa trái ngược của hai chữ đồng âm THÙ讎 (thù địch) và THÙ雔 (bạn bè, hiện nay ít dùng). 取 HÁN VIỆT Thủ, thú NGHĨA VIỆT Lấy, lấy được TỪ GHÉP thủ đắc 取得 • thủ tiêu 取消 • tiến thủ 進取 • tranh thủ 爭取 • tuân thủ 遵取. Chữ “取/ thủ” là chữ hội ý, được cấu thành bởi bộ “又/ hựu” (tay phải) và bộ “耳/ nhĩ” (tai), ý nghĩa ban đầu là trong các cuộc săn bắn tóm bắt được dã thú hoặc chinh phạt được rồi cắt lấy tai trái, đúng như tinh thần của câu: “获者取左耳Hoạch giả thủ tả nhĩ” trong “Chu lễ/ 《周礼》. 趣 HÁN VIỆT Thú, xúc NGHĨA VIỆT Thú vui, ham thích,… TỪ GHÉP hứng thú 興趣 • lạc thú 乐趣 • lí thú 理趣 •nhã thú 雅趣 • thú vị 趣味. Là một chữ Hình Thanh, gồm bộ TẨU (走) và âm đọc THỦ (取). Âm THỦ (取) lại gồm NHĨ (耳 Tai) và HỰU (又), tức là “lại nghe thấy”, ý nghĩa là “lấy, lấy về”. Bước ra cuộc sống để tìm lấy những thú vui để mang lại lợi ích, niềm vui cho bản thân mình. Người ta vẫn nói "đi một ngày đàng học một sàng khôn" có lẽ chữ khôn ở đây rất phù hợp với chữ thú chăng? 娶 HÁN VIỆT Thú NGHĨA VIỆT Cưới, lấy vợ,… TỪ GHÉP cáo thú告娶• giá thú嫁娶• hôn thú婚娶. Sự xuất hiện chữ “娶/ thú” (lấy vợ) phản ánh dấu tích nam giới cướp hôn. Chữ “娶/ thú” được cấu tạo bởi bộ “女/ nữ” và chữ “取/ thủ” (lấy). “取/ thủ” với nghĩa gốc là cướp đoạt. “取/ thủ” là chữ hội ý, được cấu thành bởi bộ “又/ hựu” (tay phải) và bộ “耳/ nhĩ” (tai), nghĩa là tóm bắt được dã thú hoặc chinh phạt được rồi cắt lấy tai trái, đúng như tinh thần của câu: “获者取左耳Hoạch giả thủ tả nhĩ” trong “Chu lễ/ 《周礼》 ”. Chữ “取/ thủ” thêm bộ “女/ nữ” thành chữ “娶/ thú” trong từ “嫁娶/ giá thú”, nghĩa là cướp người phụ nữ làm vợ. Sự xuất hiện của chữ “娶/ thú” đánh dấu bước quá độ chuyển từ xã hội thị tộc mẫu hệ sang xã hội thị tộc phụ hệ. Đồng thời, sự phát triển ngữ nghĩa của nó cho thấy sự quy thuận của nữ giới.Tập tục “nữ di cư” – nữ giới theo về nhàchồng được hình thành, chế độ xã hội nam quyền được xác lập. Tính chất biểu ý của chữ 娶 thú “vừa thể hiện vai trò chủ động của người đàn ông, vừa thể hiện quan niệm truyền thống, đàn ông sau khi lấy vợ, người con gái mà mình giành được sẽ thuộc ‘tài sản’ riêng của mình”. 首 HÁN VIỆT Thủ, thú NGHĨA VIỆT Cái đầu, đúng đầu TỪ GHÉP nguyên thủ 元首 • thủ cấp 首级 • thủ đô 首都, thủ khoa 首科thủ phạm 首犯 • thủ phủ 首府 • thủ tướng 首相 Chữ THỦ首là một chữ tượng hình, mô tả một đầu người, đầu người như vậy có tóc dài trên đỉnh và mắt to trên mặt, hai đặc điểm này là điểm khác biệt chính của con người so với các loài động vật khác. Đầu là bộ phận quan trọng nhất của cơ thể, vì vậy chúng ta sử dụng首để mô tả một cái gì đó là gốc hay đứng đầu. THỦ VĨ 首尾 : là Đầu và Đuôi. Ngày xưa, nhà giàu thường vái cúng một con heo; còn nhà nghèo thì chỉ cúng CÁI THỦ VĨ: là Cái Đầu heo có thêm 4 cái móng và cái Đuôi heo để tượng trưng cho nguyên con heo. Vì thế, mà giới bình dân quen gọi Cái Đầu Heo là Cái Thủ Vĩ, vì họ chỉ thấy cái đầu heo thật to mà không thấy cái đuôi heo chỉ có một khúc nhỏ xíu được đặt kế bên. THỦ CẤP 首级 : Là Cái đầu của kẻ địch được chặt xuống đem về báo công để được thăng cấp. Về sau Thủ Cấp là từ dùng để chỉ cái đầu lâu của ai đó. THỦ 首 còn dùng để chỉ người cầm đầu như THỦ LÃNH 首領, THỦ TƯỚNG 首相, NGUYÊN THỦ 元首 ... THỦ 首 là Hạng nhất, là Số một, như THỦ PHỦ 首府 là Phủ Đệ hạng nhất, nơi nguyên thủ quốc gia ở; THỦ ĐÔ 首都 là Đô thành hạng nhất trong các thành đô, nơi mà chính quyền trung ương đóng đô và làm việc. Nhưng theo tập quán ngôn ngữ hiện nay thì THỦ PHỦ và THỦ ĐÔ được sử dung với ý nghĩa như nhau, Ví dụ: THỦ ĐÔ (hay THỦ PHỦ ) của nước Mỹ là Washington, D.C. THỦ 首 còn là Lượng Từ ( article ), có nghĩa là : MỘT BÀI, như : NHẤT THỦ CA 一首歌 : là Một bài hát. NHẤT THỦ THI 一首詩 : là Một bài thơ. ĐƯỜNG THI TAM BÁ THỦ 唐詩三百首 : là Ba trăm bài thơ đời Đường. Có câu vè mà ông bà học chữ Nho ngày xưa thường nhắc là: Thục đọc Đường thi tam bá thủ, 熟讀唐詩三百首, Bất hội ngâm thi dã hội ngâm ! 不會吟詩也會吟。 Có nghĩa : Đọc thuộc được ba trăm bài Thơ Đường rồi, thì dù cho... Không biết ngâm thơ cũng sẽ biết ngâm mà thôi! THỦ 首 khi đọc là THÚ (dấu sắc) thì thành Động từ, có nghĩa là Nhận chịu việc gì đó, như : ĐẦU THÚ 投首, TỰ THÚ 自首 : là Tự mình đi nhận chịu những sai phạm hoặc lỗi lầm mà mình đã gây nên. CÁO THÚ 告首 hay XUẤT THÚ 出首 là Ra mặt để thưa kiện ai đó. 受 HÁN VIỆT Thọ, thâu, thụ NGHĨA VIỆT Được, nhận lấy, bị, mắc phải TỪ GHÉP cảm thụ 感受 • hấp thụ 吸受 • hưởng thụ 享受• thụ giáo 受教. Chữ THỤ授là một chữ hội ý, trong cổ văn nó mô tả một bàn tay (又- hựu) đưa thuyền cho một tay khác (爫, một dị thể của bộ trảo 爪). Thuyền là một thứ có thể chứa nhiều thứ khác, vì vậy nó được sử dụng để đại diện cho một cái gì đó có giá trị. Hình dạng của một chiếc thuyền trong cổ văn rất rõ ràng, nhưng bây giờ nó đã được đơn giản hóa thành hai nét. Trước đây, 受 có nghĩa là hành động cho và nhận, nhưng sau đó hành động cho đã được thay thế bằng 授. Bây giờ 受 chỉ có nghĩa là hành động nhận. 售 HÁN VIỆT Thụ NGHĨA VIỆT bán TỪ GHÉP thụ mại 售賣 • tiêu thụ 消售 • tiêu thụ 銷售. Chữ THỤ售là chữ xuất hiện sau chữ THÙ讎trong thuyết văn có ghi : “thù do ứng dã, tòng ngôn thù thanh” (thù cũng có nghĩa là ứng). thực ra THÙ讎là chữ kiêm nghĩa. Xét theo hai bộ bán chuy隹, chữ THÙ biểu thị ý nghĩa là hai chú chim đối đầu nhau, Bộ NGÔN言biểu thị ngôn ngữ ứng đáp. Người ta mượn chữ THÙ để biểu thị sự đối đáp bằng ngôn ngữ giữa người với người. Nếu mở rộng nghĩa nó, nó có nghĩa là buôn bán tiêu thụ. Trong cuốn hán thư âm nghĩa có ghi : “ thù diệc thụ dã” (thù cũng có nghĩa là thụ). Chữ THỤ được dùng trong hoạt động thương mại, có liên quan đến nghĩa của từ MÃI (mua) và MẠI (bán), nhưng giữa chúng có điểm khác nhau. Sách quảng vận ghi rằng : “thụ, mại vật xuất thủ”, có nghĩa là chỉ khi đồ vật được bán ra thì mới gọi là THỤ 售. 順 HÁN VIỆT Thuận NGHĨA VIỆT Suôn sẻ, xuôi, hiếu thuận,… DẠNG KHÁC 顺 TỪ GHÉP bình thuận 平順• hiếu thuận 孝順 • hoà thuận 和順 • thuận hoà 順和• thuận lợi 順利. Chữ THUẬN順 là chữ Hội Ý kiêm Hình Thanh kết cấu trái phải, gồm bộ XUYÊN 川 (sông, dòng nước) và bộ HIỆT 頁 (đầu) tạo thành. Cuộc sống con người ban đầu gắn liền với rừng rú, sông nước. họ quan sát, thử nghiệm và phát hiện được tính chất của sự vật hiện tượng khách quan. Sông thường chảy từ đầu nguồn ra biển, nước xuôi dòng là thuận theo lẽ tự nhiên (cách nhìn nhận này giống như trong cấu tạo chữ pháp法sẽ nói trong nột dịp khác ). Do đó, chữ THUẬN順 vốn được thể hiện bằng hình ảnh nước từ đầu nguồn đổ ra biển, nước xuôi dòng. Sau đó dùng để liên hệ sang các sự vật hiện tượng thiên nhiên và xã hội khác như (mưa thuận gió hòa) (xuôi chèo mát mái) hay (hiếu thuận) THUẬN xét về đạo làm con theo lễ giáo phong kiến là nhất mực nghe lời cha mẹ : “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, quân xử thần tử, thần bất tửbất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” (vua bảo bề tôi phải chết mà bề tôi không chết là bất trung,cha bắt con chết mà đứa con không chết là đứa con bất hiếu). Sinh lão bệnh tử là quy luật ở đời, cha trước con sau là thuận, lá vàng còn ở trên cây, lá xanh đã rụng về cội là nghịch cảnh. Về quan điểm giáo dục, người Trung Quốc cũng như người Việt Nam chịu ảnh hưởng của lễ giao phong kiến, Cha mẹ có quyền lực tối cao trong việc giáo dục con cái, những người con lý tưởng trong cách nhìn nhận truyền thống là phải biết hiếu thuận. Cái được gọi là hiếu thuận tức là phải biết nghe theo, tuân thủ một cách vô điều kiện những chỉ giáo của cha mẹ. Những quy ước xã hội với đạo làm con được ghi trong lễ ký là hôn định, thần tỉnh (sắp sếp chỗ nghỉ ngơi cho cha mẹ lúc về chiều và thăm hỏi cha mẹ buổi sáng sớm) hữu ẩn nhi vô phạm (biết che giấu những lỗi cha mẹ mắc, không được phê phán, xúc phạm cha mẹ)… là thể hiện đức hiếu thuận của đạo làm con. Ngày nay một số quan niệm lễ giáo phong kiến đã lỗi thời, nhiều người cho rằng, trong gia đình, cha mẹ cần để cho con cái một không gian hoạt động và quyền tự quyết về tương lai của mình, không phải bất cứ điều gì cũng do cha mẹ quyết định. Chính vì vậy, đạo làm con nên hiếu thuận hay hiếu kính đang là vấn đề được xã hội quan tâm. 束 HÁN VIỆT Thúc, thú NGHĨA VIỆT Bó, buộc, gói, hạn chế, ước thúc TỪ GHÉP kết thúc 结束• quản thúc 管束 • thúc thủ 束手 • ước thúc 約束. Chữ THÚC束trong cổ văn là một chữ tượng hình, mô tả một gói đồ mà hai đầu của nó được buộc bằng dây thừng. sau quá trình biến đổi của chữ hán, chữ 束 giờ đây là một chữ hội ý, phần gói đồ được thể hiện bằng bộ VI囗,phần dây buộc hai đầu được thay bằng hai đầu của chữ MỘC木. Cần phân biệt chữ 束 với chữ ĐÔNG東cả hai có hình thể tương đối giống nhau do có chung một nguồn gốc hình thành. 水 HÁN VIỆT Thủy NGHĨA VIỆT Nước, sông, sao thủy TỪ GHÉP thuỷ lộ 水路 • thuỷ lôi 水雷 • thuỷ lợi 水利 • thuỷ ngân 水银 • thuỷ ngưu 水牛 • thuỷ sản 水產. Chữ THỦY水 là một chữ Tượng Hình, nước đến từ sông, vì vậy, 水là hình ảnh của một dòng sông. Trong quá khứ, 水 mang ý nghĩa của cả nước và sông. Sau khi chữ XUYÊN 川 và HÀ河xuất hiện, 水 đặc biệt chỉ còn có nghĩa là nước. Ngày nay, ngoài vai trò là chữ đơn, chữ水cùng với chữ火là hai bộ thủ chữ hán xuất hiện với tần suất nhiều nhất trong cấu tạo các chữ hán khác. 書 HÁN VIỆT Thư NGHĨA VIỆT Sách, thư từ DẠNG KHÁC 书 TỪ GHÉP chiến thư 戰書 • chiếu thư 詔書 • chúc thư 囑書 • chứng thư 證書 • công thư 攻書 • mật thư 密書• Chữ THƯ書là một chữ Hội Ý có kết cấu trên dưới, bao gồm bộ DUẬT聿và bộ VIẾT曰 (dễ nhầm với bộ日) hợp lại mà thành. Trong khi bộ DUẬT 聿 (cây bút) là hình ảnh của một bàn tay cầm bút thì bộ VIẾT (nói) với bộ KHẨU口thêm một nét ngang ở giữa biểu thị cho lời nói phát ra từ miệng. Tính chất hội ý của hai bộ thủ 聿 + 曰) là cầm bút để viết ra những câu chuyện. Người ta dùng bút để viết thư, viết sách, nội dung là những câu chuyện sảy ra hàng ngày hay những thứ không tiện diễn tả bằng lời nói. THƯ 書, nếu là... Động từ thì có nghĩa là : VIẾT, như THƯ PHÁP 書法 : là Cách viết chữ. THƯ TẢ 書寫 : là Viết Lách ( Từ kép của Viết ). Danh từ thì có nghĩa là : SÁCH, là THƠ, như THƯ TỊCH 書籍: là Sách Vở. THƯ TÍN 書信 : là Thơ Từ. Các thành ngữ có chữ THƯ như : BẠCH DIỆN THƯ SINH 白面書生 : là Học trò mặt trắng, chỉ các anh học trò nghèo ngày xưa, suốt ngày trốn trong nhà để đọc sách, và vì nghèo ăn thiếu dinh dưỡng, nên da mặt trắng bệt. Bạch Diện Thư Sinh còn dùng để chỉ các thư sinh chưa đậu đạt gì cả, mặc áo thiên thanh hay aó dài trắng, chưa có áo mão cân đai rực rở để phản chiếu cho da mặt hồng hào! BÁC LÃM QUẦN THƯ 博覽群書 : BÁC là Rộng, LÃM là Xem, QUẦN là Nhiều, THƯ là Sách. Nên Bác Lãm Quần Thư là chỉ Xem và Đọc rất nhiều Sách. Dùng để chỉ những người thông thái, học rộng biết nhiều, kiến thức uyên bác. PHẦN THƯ KHANH NHO 焚書坑儒 : là Đốt sách và chôn học trò học theo Nho Giáo. Đây là chính sách cưỡng bách để thống nhất văn tự một cách cực đoan của Tần Thuỷ Hoàng Đế (259-210 trước Công Nguyên). 鼠 HÁN VIỆT Thử NGHĨA VIỆT Con chuột, tiểu nhân TỪ GHÉP ẩn thử 隱鼠 • băng thử 冰鼠 • đại thử 袋鼠 • vị thử袋鼠,điền thử 田鼠 • sát thử 殺鼠 • súc miêu phòng thử 畜猫防鼠 • tùng thử 松鼠 • xã thử 社鼠 THỬ 鼠 là chữ Tượng Hình, trong Giáp Cốt Văn THỬ 鼠là hình tượng của con chuột và 3 hạt thóc, sang qua Kim Văn Đại Triện, Tiểu Triện là hình con chuột ngồi nhe răng với cái mình và 4 chân bên dưới, cuối cùng là cái đuôi từ phải cong sang trái, nên THỬ 鼠 là Chuột. Chuột là giống gậm nhấm phá phách, từ nông phẩm, thực phẩm, đến đồ gia dụng không từ thứ nào cả, nên còn được gọi là HAO TỬ 耗子 (con vật làm Hư Hao đồ đạc), và vì tính nào tật nấy, cứ thế phá phách, nên lại được gọi là LÃO THỬ 老鼠 = đồng âm với LÃO THỬ 老此, có nghĩa là LÃO THỊ NHƯ THỬ 老是如此: Cứ vẫn như thế! Trong 12 con giáp, có 2 con được gọi là LÃO : 1, Con Chuột : LÃO THỬ 老鼠. 2, Con Cọp : LÃO HỔ 老虎. Ta còn gọi là Ông Cọp. Ta thường nói : Nhát như thỏ đế! Nhưng người Hoa lại nói: ĐẢM TIỂU NHƯ THỬ 膽小如鼠: là Mật nhỏ như chuột, nên gọi những người nhát gan là THỬ ĐẢM 鼠膽: Mật chuột. Chuột lại là con vật bị xem thường xem khinh, như ta mắng những kẻ tiểu nhân, những tên đầu trộm đuôi cướp là: Đồ chuột nhắt! Tương đương với từ THỬ BỐI 鼠輩: là Lũ chuột. Người ta ghét chuột, nên hễ thấy chuột là đuổi đánh ném chọi, vì thế ta lại có thành ngữ: ĐẦU THỬ KỴ KHÍ 投鼠忌器 : Ta nói là "Ném chuột sợ vỡ đồ." Thành ngữ nầy có xuất xứ từ Hán Thư, Giả Nghị Truyện, như sau: Xưa có người thích sưu tập đồ cổ ngoạn. Ông ta tìm mua được một chiếc bình cổ thật đẹp, đặt trên bàn trong phòng khách, suốt ngày ngắm nghía trầm trồ. Một hôm, vừa từ nhà trong bước ra, ông ta thấy một con chuột đang định nhảy lên trên chiếc bình. Quýnh qúa, ông ta bèn tháo một chiếc guốc đang mang ném con chuột. Không ngờ, con chuột thì chạy mất, nhưng chiếc bình bị guốc ném trúng, rớt xuống đất vỡ tan. Ông ta vô cùng hối hận cho sự nóng nảy thiếu suy đoán của mình. Giả Nghị, một Thừa Tướng giỏi đời Hán, đã dùng câu truyện trên để khuyên ngăn Hán Văn Đế không nên dùng cực hình đối với giai cấp Đại phu Qúy tộc, sẽ ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của nhà vua... nên, Câu "Đầu Thử Kỵ Khí" có nghĩa làm việc gì đó mà không dám làm thẳng tay, vì còn nghi ngại sẽ ảnh hưởng đến những việc khác có liên quan. Giống như tình trạng diệt tham nhũng hiện nay ở Việt Nam vậy, chỉ làm chiếu lệ, không dám làm thẳng tay, vì... Ném chuột còn sợ bị "bể" đồ! CÙNG THỬ NIẾT LY 窮鼠齧貍 : Con chuột ở bước đường cùng thì cắn con cáo. Ý nói kẻ cùng đường thì dám làm liều. SÚC MIÊU PHÒNG THỬ 畜猫防鼠: có nghĩa là Nuôi mèo để ngừa chuột, ý nói luyện tập quân lính để phòng khi giặc tới. MIÊU KHẤP LÃO THỬ 猫哭老鼠 : là Mèo khóc Chuột, ý muốn nói: Chỉ làm bộ thương xót mà thôi! Cả câu là "Miêu khấp lão thử giả từ bi 猫哭老鼠假慈悲": Mèo khóc chuột là lòng từ bi giả dối, để che mắt thiên hạ nhằm muốn đạt được một mục đích nào đó. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ truyện Thuyết Đường, hồi thứ 62. Đây là câu nói mỉa mai của tướng Trình Giảo Kim nói với Tần Vương Lý Thế Dân, khi Tần Vương đến điếu tang tiểu tướng La Thành vừa mới bị Ân Tề Nhị Vương hại chết. Trình Giảo Kim cho là Tần Vương chỉ giả bộ thương xót để cho các tướng khác cảm động mà liều mình bán mạng để giúp nhà Đường tạo dựng nên cơ nghiệp mà thôi, chớ chẳng phải thương xót thật tình, nên câu... Mèo khóc Chuột có nghĩa tương đương như là câu "Nước mắt cá sấu" của ta vậy! Trong THẤT HIỆP NGŨ NGHĨA 七俠五義 là 7 người Hiệp sĩ và 5 người Nghĩa sĩ, thì NGŨ NGHĨA có ngoại hiệu là 5 con chuột theo thứ tự như sau : 1. TOẢN THIÊN THỬ : Lư Phương 鑽天鼠盧方, là Lão Đại: Chuột chui lên trời, rất giỏi về khinh công. 2. TRIỆT ĐỊA THỬ : Hàn Chương 徹地鼠韓彰, là Lão Nhị: Chuột chui xuống đất, giỏi về đào hầm chôn thuốc nổ. 3. XUYÊN SƠN THỬ : Từ Khánh 穿山鼠徐慶, là Lão Tam: Chuột xuyên qua núi, người to lớn có sức mạnh vô song. 4. PHIÊN GIANG THỬ :Tưởng Bình 翻江鼠蔣平, là Lão Tứ: Chuột vượt qua sông, giỏi thủy tánh, cơ trí hơn người. 5. CẨM MAO THỬ : Bạch Ngọc Đường 錦毛鼠白玉堂, là Lão Ngũ: Chuột lông gấm, trẻ và đẹp trai nhất trong 5 con chuột, mặc dù hành hiệp trượng nghĩa, nhưng thủ đoạn cũng khá tàn độc, rất đố kỵ với ngoại hiệu Ngự Miêu (Mèo của vua) của Nam Hiệp Triển Chiêu. Trong văn học Việt Nam ta cũng có một giai thoại văn chương độc đáo có nhắc đến con chuột của Trang Quỳnh khi ông đối lại câu đối hóc búa của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm: "Cây xương rồng trồng đất rắn, long vẫn hoàn long", Trạng đã đối rất khéo, rất hay và rất "rắn mắt" là: " Qủa dưa chuột tuột thẳng gang, thử chơi thì thử!" Ngoài ra, nói đến chuột thì không thể thiếu con chuột Mickey của Mỹ mà người Hoa dịch âm là MỄ KỲ 米奇, và gọi nó là MỄ LÃO THỬ 米老鼠: Chuột Mickey. Và một con chuột không thể thiếu nữa, đó là: Con chuột của computer 電腦鼠標 là ĐIỆN NÃO THỬ TIÊU. Còn rất nhiều danh từ chỉ loài vật có liên quan đến THỬ: NGÂN THỬ銀鼠 : là con chuột bạch, con vật hay xuất hiện trong các phòng thí nghiệm. PHI THỬ 飛鼠 : là con chuột bay, tức loài dơi TÙNG THỬ 松鼠 : là Chuột trên cây thông. Ta gọi là Con Sóc. VỊ THỬ 蝟鼠 : là loại chuột to, trên mình có lông mọc thành những mũi gai nhọn chơm chởm. Ta không gọi là chuột mà gọi là Con Nhím. ĐẠI THỬ 袋鼠 : là con Chuột Túi, Kangaroo, biểu tượng của nước Úc, là một con thú hẵn hoi, không giống... con chuột tí nào cả! 黍 HÁN VIỆT Thử NGHĨA VIỆT Lúa nếp TỪ GHÉP thử hoà 黍禾. Chữ THỬ 黍là một chữ Hội Ý được tạo thành từ ba bộ thủ, bao gồm phía trên cùng là bộ HÒA (lúa) ở giữa là bộ NHÂN (người) và ở dưới cùng là bộ THỦY (nước). Tính chất hội ý của ba bộ thủ này biểu thị ý nghĩa chỉ một loại lúa được con người trồng nơi có nhiều nước. Thử là lúa nếp, một loại lúa được người nông dân trồng ở vùng đồng bằng nơi có nhiều nước. Vị trí đất nơi loại cây trồng này xuất hiện thường gần các con sông, người dân dẫn nước từ các con sông này qua các hệ thống kênh, mương cung cấp nước vào đồng ruộng nuôi sống cây lúa. 恕 HÁN VIỆT Thứ NGHĨA VIỆT Tha thứ, thứ tội,… TỪ GHÉP dung thứ 容恕 • khoan thứ 寬恕 Chữ “Như” (如) và chữ “Tâm” (心) hợp lại thành chữ “Thứ” (恕), nghĩa là tha thứ, bao dung. Chữ “Như” ghép với chữ “Tâm” mang ý nghĩa là để cho trái tim gần với trái tim, để tâm mình gần với tâm người, tâm người cũng như tâm mình. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử đã hai lần nhắc đến chữ Thứ. Một lần là Khổng Tử nói với Tăng Sâm: “Này Sâm, đạo của ta chỉ có một lẽ mà thông suốt hết tất cả”. Tăng Sâm thưa “Vâng”. Khi Khổng Tử ra rồi, các môn sinh khác hỏi Tăng Sâm: “Thầy muốn nói gì vậy?”. Tăng Sâm đáp: “Đạo của thầy chỉ có một lẽ Trung Thứ mà thôi”. Một lần khác là khi Tử Cống hỏi: “Thưa thầy, có một chữ nào có thể dẫn dắt hành xử trọn đời không?”. Khổng Tử đáp: “Có lẽ là chữ Thứ chăng? Cái gì mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Người có lòng nhân, luôn khoan dung, tha thứ cho kẻ khác thì sẽ chẳng bao giờ làm những điều ích kỷ lợi thân mà tổn hại cho người. Con người sống trên cõi đời chật chội, những chuyện va vấp là điều thường tình, ai chẳng có lúc phạm lỗi, mắc sai lầm? Cho nên trong quan hệ giSữa người với người, cần suy xét thận trọng, để lòng mình gần gũi với lòng người, đặt mình vào địa vị đối phương mà suy nghĩ thì tự nhiên sẽ khoan thứ. 次 HÁN VIỆT Thứ, tư NGHĨA VIỆT Sau, thứ bậc, lần lượt TỪ GHÉP phiên thứ 番次 • thứ nam 次男 • thứ nữ 次女 • thứ phi 次妃 • thứ tự 次序 • thứ vị 次位 • thứ yếu 次要• Chữ miêu tả một người đàn ông hắt hơi. Khi ai đó hắt hơi, tình trạng sức khỏe của anh ta kém hơn (thứ hai so với bình thường). Trước đây, 次có nghĩa là hắt hơi, nhưng ý nghĩa như vậy sau đó đã được thay thế bằng嚏, vì vậy nên bây giờ, cả 次 và 嚏đều có cách phát âm gần giống nhau. 食 HÁN VIỆT Thực, tự NGHĨA VIỆT Ăn, đồ ăn DẠNG KHÁC 饣 TỪ GHÉP ẩm thực 飲食,thực đơn 食單 • thực khách 食客 • thực phẩm 食品 • thực quản 食管. Chữ THỰC食là một chữ hội ý kết cấu trên dưới. Chữ THỰC食trong giáp cốt văn miêu tả một cái miệng đang há rộng phía dưới là một đĩa thức ăn. THỰC ngoài nghĩa là ĂN còn chỉ THỨC ĂN. Ngoài ra, ngày xưa người trung quốc luôn cho rằng lương thực là của trời đất, là bổng lộc của thần linh ban cho, nên THỰC食 cũng có nghĩa là LỘC. Như sách Luận ngữ 論語 nói: “quân tử mưu đạo bất mưu thực君子謀道不謀食”(Vệ Linh Công 衛靈公) người quân tử mưu đạo không mưu ăn lộc. THỰC 食 là Thức Ăn, từ kép là THỰC PHẨM 食品, LƯƠNG THỰC 糧食. Ta cũng có các thành ngữ tiêu biểu như: PHONG Y TÚC THỰC 豐衣足食: là Phong phú về y phục, sung túc về thực phẩm. Ta nói là Dư ăn thừa mặc. Tăng Quảng Hiền Văn có câu : Nhân vị tài tử , 人為財死, Điểu vị THỰC vong. 鳥為食亡。 Có nghĩa : Người vì tiền tài mà chết, còn Chim thì vì miếng ăn mà chết. 商 HÁN VIỆT Thương NGHĨA VIỆT Buôn bán TỪ GHÉP công thương 工商, thông thương 通商. Chữ THƯƠNG商là một chữ hội ý kết cấu trong ngoài. Bên ngoài là phần đầu của chữ BÀNG旁 (bên cạnh), với hàm ý: người kinh doanh đã không phải là người sản xuất lại càng không phải người tiêu dùng, mà là người đứng bên ngoài nhìn nhận. Tuy nhiên, người ngoài đánh giá nhìn nhận sự vật sẽ mang tính khách quan hơn, không chịu tác động của yếu tố chủ quan. Phần bên trong của chữ THƯƠNG商có sự kết hợp của chữ BÁT 八 vàKHẨU 口hai chữ này hội ý lại có nghĩa là nói nhiều, nói giỏi. Người kinh doanh phải nói giỏi, nói giỏi là một kỹ xảo của người kinh doanh. Như thế mới thuyết phục được người sản xuất và người tiêu dùng, nhắm đến mục đích cuối cùng là nhập được hàng và bán được hàng. 上 HÁN VIỆT Thượng, thướng NGHĨA VIỆT Phía trên, trên, lên, trời TỪ GHÉP thượng cấp 上級 • thượng đẳng 上等 • thượng đế 上帝 • thượng đức 上徳 • thượng hải 上海 • Chữ THƯỢNG 上 là một chữ dạng chỉ sự (chỉ vào vật để nói lên ý nghĩa), mô tả đường chân trời với một gạch nhỏ được viết ở phía trên ý chỉ là “ở đây, ở trên này” (đối lại với chữ HẠ下). Ngoài nghĩa là phía trên chữ còn biểu thị nghĩa lên, đi lên… Chữ THƯỢNG上khi đứng một mình là chữ đơn tạo nghĩa, ngoài ra nó là một trong 214 bộ thủ, 上xuất hiện rất thường xuyên với vai trò thành phần tạo chữ hán. 比 HÁN VIỆT Tỉ, bì, tỵ NGHĨA VIỆT So sánh TỪ GHÉP tỷ dụ 比喻 • tỷ giá 比价 • tỷ giá 比價 • tỷ lệ 比例 • tỷ như 比如 • tỷ phân 比分 • Chữ TỈ比 (so sánh) về cấu tạo là một chữ hội ý kết cấu trái phải. Hình dạng chữ từ thể giáp cốt cho đến dạng khải thư sau này, về cơ bản không có quá nhiều thay đổi. Ở các dạng chữ này, chữ TỈ được viết giống như hình hai người đang đứng gần nhau, hình dạng, kích thước và tư thế đứng rất giống nhau. Từ điều này có thể suy đoán họ đang ở trong một cuộc thi, xem ai hơn ai. Về nguyên tắc, khi so sánh thì phải có vật để so sánh và vật được so sánh. Như vậy, phải có ít nhất hai đối tượng trở lên mới có thể so sánh được. TỈ là So Sánh, là Ngang Bằng, là Hơn Thua. Từ kép của SO SÁNH là TỈ GIẢO 比較, ngoài ra ta còn gặp các từ bằng chữ TỈ sau đây : TỈ THÍ 比試 : là Thi đua xem ai giỏi hơn ai. TỈ VĂN TỈ VÕ 比文比武 : So tài Văn Võ với nhau xem ai giỏi. TỈ DỤ 比喻 : là Đem cái gần giống để so sánh cho người ta hiểu. TỈ NHƯ 比如 : là Giống như là... TỈ LÂN 比鄰 : là Nhà hàng xóm sát vách. Trong bài 送杜少府之任蜀川 Tống Đỗ Thiếu Phủ chi nhâm Thục Xuyên, người đứng đầu Tứ Kiệt đời Sơ Đường là Vương Bột đã viết : 海內存知己, Hải nội tồn tri kỷ, 天崖若比鄰. Thiên nhai nhược TỈ LÂN. Có nghĩa : Trong bốn bể còn có người tri kỷ với nhau, thì dù cho ... Xa cách tận chân trời, cũng giống như là đang ở sát vách với nhau vậy ! TỈ DỰC 比翼 : là So Cánh với nhau. Ý chỉ Hai cái cánh xòe ngang với nhau để cùng bay như thành ngữ TỈ DỰC SONG PHI 比翼雙飛, ta nói là "Chắp Cánh Cùng Bay!" Trong bài Trường Hận Ca tả lại mối tình của Dương Quý Phi và Đường Minh Hoàng của Bạch Cư Dị đời Đường có 2 câu rất nổi tiếng ở gần cuối bài là: Tại thiên nguyện tác TỈ DỰC điểu, 在天願作比翼鳥, Tại địa nguyện vi liên lý chi. 在地願為連理枝。 Có nghĩa : Nếu ... Ở trên trời thì nguyện được làm đôi chim liền cánh để cùng bay. Ở dưới đất thì nguyện được làn cây liền cành để mãi mãi cùng đứng bên nhau . 鼻 HÁN VIỆT Tị, tì NGHĨA VIỆT Mũi, trước, khởi tủy TỪ GHÉP ba tị 巴鼻 • bả tị 把鼻 • long tị 隆鼻 • tị tổ 鼻祖 • xuyên tị 穿鼻 • yểm tị 掩鼻. TỊ鼻 là một trong số ít bộ thủ chữ Hán được hình thành theo phép Hình Thanh.Cấu tạo chữ TỊ鼻 bao gồm bên trái là TỰ 自chỉ ý kết hợp với TÍ 畀 bên phải chỉ âm. Chữ TỰ自là một chữ tượng hình. Ban đầu, là hình ảnh của Mũi người, tuy nhiên, mọi người có thói quen chỉ vào mũi của họ khi họ tự giới thiệu, vì vậy, dần dần TỰ自có nghĩa là " cái tôi ", sau đó có nghĩa là " sự độc lập ". Để chỉ nghĩa gốc ban đầu là cái mũi người ta thêm vào chữ TÍ 畀 làm âm đọc và hình thành chữ TỊ như ngày hôm nay: 鼻. Mũi cũng là một phần chính của khuôn mặt, nên ta mới có từ MẶT MŨI để chỉ cả khuôn mặt. Ta còn có các từ: 鼻子 TỊ TỬ : là Cái Mũi, 鼻梁 TỊ LƯƠNG: là Xống mũi; 鼻尖 TỊ TIÊM: là phần chóp mũi; 鼻翼 TỊ DỰC: là 2 cánh mũi; 鼻孔 TỊ KHỔNG: là 2 cái lổ mũi; 鼻涕 TỊ THẾ: là nước mũi ... 鼻息如雷 TỊ TỨC NHƯ LÔI: Hơi thở từ lổ mũi vang như sấm, ta nói là Tiếng Ngáy như Sấm vang. 鼻祖 TỊ TỔ: là Thuỷ Tổ, là ông bà ông vãi tự ngày xưa. 開山鼻祖 KHAI SƠN TỊ TỔ: là Ông Tổ lập ra một dòng họ hay một môn phái nào đó. Khi dịch các từ của Phật giáo từ tiếng Phạn, thì TỊ 鼻 được đọc là TÌ, như trong từ A TÌ ĐỊA NGỤC 阿鼻地獄 (Avīci Niraja): Nơi giam giữ các hồn người đã chết để luận công luận tội. 寂 HÁN VIỆT Tịch NGHĨA VIỆT yên tĩnh, hoang vắng TỪ GHÉP cô tịch 孤寂 • liêu tịch 遼寂 • tịch liêu 寂寥 • tịch mịch 寂寞. Chữ “tịch” (寂) gồm chữ “miên” (宀) ở phía trên.Tra cứu chữ Hán thì “miên” giống như hình mái nhà. Chữ “miên” trong giáp cốt văn chúng ta có thể thấy được chữ “miên” ban đầu có ý chỉ nhà ở. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của các chuyên gia hiện đại, căn nhà xuất hiện đầu tiên không phải cho con người ở mà là nơi để bộ lạc cúng tế. Vào thời cổ đại, cúng tế là đại sự hàng đầu của một nước. Vì vậy, “miên” là nơi cúng tế. Bên dưới là chữ “thúc” (叔). Chữ “thúc” trong triện văn hình dạng chữ cho thấy “thúc” là tay nhặt đậu, hoặc là tay đang cầm trượng gỗ. Đậu ở đây không phải là hạt đậu mà là vật đựng đồ cúng thời xưa, có tác dụng rất quan trọng trong lễ cúng tế. Còn trượng gỗ là pháp trượng thường dùng trong lễ cúng tế. Như vây, ban đầu chữ寂Tịch mang ý nghĩa là nơi để cũng tế thần linh. Những nơi này thường là những nơi thanh tịnh, sau này dựa vào nghĩa gốc chữ tịnh phát triển nghĩa thành “vắng vẻ” hay “yên tĩnh”. 尖 HÁN VIỆT Tiêm NGHĨA VIỆT Nhọn TỪ GHÉP bút tiêm 筆尖 • diệp tiêm 葉尖,tiêm nhuệ 尖銳tiêm phong 尖峰 • tiêm tháp 尖塔. Chữ TIÊM尖 (mũi nhọn) về cấu tạo là một chữ hội ý có kết cấu trên dưới, bao gồm bộ TIỂU小 (nhỏ) ở bên trên, chữ ĐẠI大 (to lớn) ở dưới. Tính chất biểu ý của chữ chữ 尖 là chỉ một vật có đầu nhỏ và phần đuôi to. Hình ảnh biểu thị này có thể nhìn thấy ở mũi tên, thanh kiếm, ngọn thương,... Chữ TIÊM 尖 ngoài nghĩa chỉ vật sắc nhọn về hình thể vật lý, còn có nghĩa chỉ những gì tỉ mỉ, khéo léo trong hành động, suy nghĩ của con người. Như trong từ tiêm xảo (ý nghĩa như tinh xảo). 先 HÁN VIỆT Tiên, tiến NGHĨA VIỆT Trước, tổ tiên, việc quan trọng TỪ GHÉP đầu tiên 頭先 • gia tiên 家先 • tiên hậu 先后 • tiên hậu 先後 • tiên mẫu 先母. Chữ TIÊN先là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bao gồm ⺧ và 儿. Trong giáp cốt văn chữ先 miêu tả một người đang đi, phía trước anh ta là hình ảnh một bàn chân. Hình ảnh bàn chân này biểu trưng cho dấu chân của người đi trước để lại, điều này cũng đồng nghĩa với việc anh ta là người đến sau. Nghĩa gốc của TIÊN先 là người đi trước, về sau 先 mở rộng nghĩa là “quá khứ”, “tổ tiên” hay “các bậc tiền bối”. TIÊN 先 là Trước về thời gian (khác với TIỀN 前 là TRƯỚC về Không gian). TRANH TIÊN 爭先 : là Giành Trước. Bất cứ việc gì đó, người nào giành trước thì vẫn hơn, ta đã biết qua câu: "Tiên đáo vi quân, hậu đáo vi thần", ai tới trước thì làm VUA TIÊN NHÂN 先人: là Người đi trước, nếu trong dòng họ, bộ tộc thì gọi là TỔ TIÊN 祖先. TIÊN 先 còn chỉ người đã qúa cố, như: TIÊN PHỤ 先父: là Ông Cha đã mất. TIÊN PHU 先夫: là Ông chồng đã chết... TIÊN THIÊN 先天 : là Trước khi có Trời, là cái gốc của vũ trụ, là bản thể của muôn vật.... nhưng TIÊN THIÊN cũng có nghĩa là "Trước khi thấy Trời", có nghĩa là "Trước khi bào thai được sinh ra", nên Y Lý Đông Phương có câu : Tiên thiên bất túc, 先天不足, Hậu thiên thất điều. 後天失調. Có nghĩa : Khi còn trong bụng mẹ bào thai đã èo ọt (không đủ dinh dưỡng) Lúc đã sinh ra rồi lại thiếu điều dưỡng chăm sóc, nên... đứa bé bất bình thường, lớn lên một cách èo ọt yếu ớt. TIÊN PHONG 先鋒 : PHONG có bộ Kim 金 bên trái, có nghĩa là Bén Nhọn, nên TIÊN PHONG là Muĩ nhọn đi trước, cánh quân Tiên Phong luôn là cánh quân thiện chiến, xông lên trước để phá địch. TIỆP TÚC TIÊN ĐĂNG 捷足先登 : là Nhanh chân thì leo lên trước. Có nghĩa Chậm chân thì đứng dưới nhìn lên mà thôi! THÂN TIÊN SĨ TỐT 身先士卒: là Thân mình luôn luôn đi trước quân lính; đây là tác phong của kẻ chỉ huy, luôn luôn đi đầu làm gương chớ không phải sợ việc mà lấp ló phía sau. Nói tới đây, lại nhớ đến câu nói của Phạm Trọng Yêm một danh sĩ đời Tống viết trong Nhạc Dương Lầu Ký là: TIÊN thiên hạ chi ưu nhi ưu, 先天下之憂而憂, Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc. 后天下之樂而樂. Có nghĩa : Lo trước cái lo của thiên hạ, và Vui sau cái vui của thiên hạ. Chữ TIÊN lại làm ta nhớ đến Trạng Mạc Đĩnh Chi đời Trần với tài văn chương trác tuyêt. Thử thách văn chương đầu tiên là, do trời mưa nên Sứ bộ của ông đến cửa ải Pha Lũy (nay là ải Nam Quan) bị trễ. Quan trấn ải phía Trung Quốc không chịu mở cổng thành, song vì biết danh tiếng ông, nên thử tài bằng câu đối: Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan. 過關遲,關關閉,願過客過關, Có nghĩa là: Qua cửa quan trễ, cửa quan đã đóng, mời khách qua đường qua cửa quan. Ông đã đáp lại là : Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối. 出對易,對對難,請先生先對。 Có nghĩa là: Ra câu đối thì dễ, đối câu đối mới khó, xin mời tiên sinh hay đối trước đi. Quan giữ ải phải phục là tài giỏi, lập tức mở cửa ải đón sứ bộ của Ông và tiếp đãi rất long trọng. Chữ QUAN 關 : Danh từ, có nghĩa là Cửa Quan, Cửa Ải. Động từ, có nghĩa là Đóng lại, nên QUAN QUAN BẾ 關關閉 : là Cửa Ải đã đóng lại. Chữ ĐỐI 對 : Danh từ là Câu đối, còn Động từ thì có nghĩa là Đối lại, nên ĐỐI ĐỐI NAN 對對難 : là Đối lại Câu Đối mới khó. QUÁ KHÁCH 過客 là Khách qua đường. QUÁ QUAN 過關 là Qua ải. TIÊN SINH 先生 là Người sanh ra trước, là Tiền bối, là Ông, là Thầy. TIÊN ĐỐI 先對 : là Đối Trước. Đây là câu Mệnh Lệnh Cách, nên có nghĩa là : Hãy đối trước đi ! 仙 HÁN VIỆT Tiên NGHĨA VIỆT Người cõi tiên, người đã tu luyện,… TỪ GHÉP quy tiên 歸仙 • thần tiên 神仙 • tiên đan 仙丹 • tiên đồng 仙童 • tiên giới 仙界. Chữ TIÊN - 仙 nghĩa là người cõi tiên, người đã tu luyện. Về cấu tạo, 仙là một chữ hội ý kết cấu trái phải, bên phải là chữ Nhân 亻bên trái là chữ sơn 山 (núi). Theo quan niệm của người trung quốc xưa những người sống trên núi cao, nơi cách biệt với thế giới con người thì thường là bậc kỳ tài hay là Tiên nhân. Ta có thơ lục bát về chữ TIÊN: "Một người lên núi tu tiên Nhân sơn ghép lại chữ TIÊN tạo thành". Theo Lão Giáo, những người tu hành đắc đạo sẽ được VŨ HÓA ĐĂNG TIÊN 羽化登仙: là Trở nên có cánh như chim và bay lên thành Tiên. 進 HÁN VIỆT Tiến, Tấn NGHĨA VIỆT đi lên, tiến lên, dâng, nỗ lực,… DẠNG KHÁC 进 TỪ GHÉP cải tiến 改進• cấp tiến 急進 • dẫn tiến 引進 • diễn tiến 演進. Chữ Tiến\Tấn進 nghĩa là tiến tới, tiến bộ,… Là một chữ hội ý được hợp bởi bộ Sước辶 (đi, bay, chạy,..) và bộ Chuy隹 (một loài chim đuôi ngắn, xem kim văn và triện văn sẽ thấy rõ hình ảnh một con chim đang bay). Hai bộ trên hợp lại ý chỉ loài chim đang bay, do đặc điểm của loài chim là không bay lùi được chỉ có bay tiến, cho nên chữ 進 mang nghĩa là tiến lên, tiến tới. Một số tài liệu sau này phân tích chữ chuy thực chất là chữ Giai 佳 (đẹp tốt, may mắn,..) được viết khác đi, vì thế chữ Tiến進 mang hàm ý là tiến tới những điều tốt đẹp, hay nói cách khác đi, chỗ nào có những sự tốt lành thì người ta sẽ tìm đến. Trong chữ “Tiến” giản thể 进, bị mất chữ “Giai”佳 – Tốt đẹp, thay bằng chữ Tỉnh, nghĩa là Tiến bất Giai: Bước tiếp sẽ không may mắn, mà là rơi xuống đáy giếng (Chữ Tỉnh 井: cái giếng).Điều này khiến nhiều người liên tưởng đến cuộc cách mạng Đại Nhảy Vọt do Mao Trạch Đông thực hiện làm chết 43 triệu người từ 1958 đến 1960. Những thay đổi không nên có này thực sự làm mất đi nội hàm thâm sâu của chữ hán. 卩 HÁN VIỆT Tiết NGHĨA VIỆT Bộ tiết (214) TỪ GHÉP Đóng vai trò bộ thủ tạo chữ. Chữ TIẾT卩là một chữ tượng hình mô tả một người đàn ông đang quỳ gối, 卩có thể được coi là một biến thể của NHÂN人 (người). Con người đầu hàng quyền lực bằng cách quỳ gối xuống, vì vậy 卩 có nghĩa là một bằng chứng đại diện cho sự cai trị và quyền lực ở Trung Quốc cổ đại, nhưng ý nghĩa như vậy đã được thay thế. Bây giờ chúng ta hiếm khi sử dụng 卩như là chữ đơn, nó chỉ sử dụng là thành phần tạo chữ hán mới (một trong 214 bộ thủ). 節 HÁN VIỆT Tiết NGHĨA VIỆT Đốt, đoạn, khoảng thời gian, tiết trời DẠNG KHÁC 节 TỪ GHÉP thời tiết 时节 • tiết điểm 节点 • tiết mục 节目 • tình tiết 情节 • tự tiết 字节 • xuân tiết 春节. Chữ TIẾT節là một chữ Hình Thanh kết cấu trên dưới. Trong đó, bộ TỨC即bên dưới đóng vai trò chỉ âm đọc, ở phía trên là một dạng khác của bộ TRÚC竹 (tre) có nhiệm vụ chỉ ý nghĩa. Căn cứ vào tính chất, khoảng cách đều đặn giữa các đốt tre người ta đã tạo ra chữ節với ý nghĩa là chuẩn mực, điều độ như trong các thủ tiết, tiết tháo, thời tiết. Một khoảng thời gian từ 45 -50 phút dạy và học ở giảng đường được quy định là tiết học và từ tiết chuyển sang tiếng việt được đọc chệch là tết như trong các từ Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu, Tết Trung Thu. 焦 HÁN VIỆT Tiêu, tiều NGHĨA VIỆT Cháy đen, khét, họ tiêu TỪ GHÉP thiêu tiêu 燒焦 • tiêu đầu lạn ngạch 焦頭爛額 • tiêu điểm 焦点 •tiêu hắc 焦黑. Chữ TIÊU焦 là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bao gồm bộ CHUY 隹 (con chim) và một dạng thể của bộ HỎA 灬 (lửa), 隹 là loài chim có lông ngắn và nhỏ, vì nó không thể bay cao, nó sẽ bị thiêu rụi khi có đám cháy lớn. 笑 HÁN VIỆT Tiếu NGHĨA VIỆT Cười, vui cười TỪ GHÉP đàm tiếu 談笑 • mãi tiếu 買笑 • tiếu đàm 笑談 • tiếu lâm 笑林 • tiếu ngạo 笑傲. Chữ TIẾU笑là một chữ hình thanh kiêm hội ý. Được cấu tạo bởi bộ TRÚC ⺮ (tre) và bên phải là bộ YÊU夭 (vui vẻ, còn âm đọc “yểu” – chết non). Tre là chất liệu phổ biến của nhạc cụ, âm nhạc khiến mọi người hài lòng. Tiếng cười là phản ứng phổ biến của con người về niềm vui, vì vậy笑 có nghĩa là tiếng cười. Mặt khác bản thân chữ YÊU夭,về nguồn gốc là hình ảnh một người đàn ông đang nhảy múa, kết hợp với bộ TRÚC ⺮ biểu tượng của nhạc cụ, âm nhạc. Hội ý của hai bộ thủ này ta được ý nghĩa của chữ TIẾU 笑. 信 HÁN VIỆT Tín, Thân NGHĨA VIỆT Tin tưởng, tin theo, lòng tin, sự thật, thư, tin tức,… DẠNG KHÁC PHIÊN ÂM shēn , xìn ÂM KUN/ON Kun: しん-じる On: シン TỪ GHÉP Tín ngưỡng 信仰, tín nhiệm 信任, uy tín 威信, thư tín 書信, mê tín 迷信. Chữ “Tín” (信, xìn) gồm chữ “Nhân” (亻) là người và chữ “Ngôn” (言) là lời nói. Con người cần phải có trách nhiệm với lời nói của mình, lời đã nói ra mà không thực hiện thì sao có thể giữ được chữ “Tín” đây? Nho giáo cho rằng, Tín là một trong Ngũ Đức: “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Trong Luận Ngữ có câu: “Nhân nhi vô tín, bất tri kì khả dã. Đại xa vô khẩu, tiểu xa vô ngột, kì hà dĩ hành chi tai?“, đại ý là nếu con người không giữ chữ Tín, cũng giống như một cỗ xe lớn không có đoạn gỗ chốt nối giữa càng xe và ách xe, xe sẽ không thể chạy được. Vào thời Xuân Thu, có một người nước Ngô tên Quý Chát lần đầu tiên đi sứ sang nước Tần, đi ngang qua phía bắc của Từ quốc. Vua của nước Từ rất thích bảo kiếm của Quý Chát, nhưng không nói ra. Trong lòng Quý Chát biết điều đó nhưng vì vẫn phải đi sứ sang nước khác nên chưa thể tặng cho vua nước Từ được. Sau đó khi ông đi sứ xong và quay trở lại Từ quốc thì quốc vương nước Từ đã băng hà. Thế là ông liền cởi bỏ bảo kiếm xuống vàtreo trên cái cây trước mộ của đức vua. Tùy tùng của ông hỏi: “Thưa tướng quân, vua Từ quốc đã băng hà rồi, thì thanh bảo kiếm này còn phải tặng ai nữa?”. Quý Chát trả lời: “Không phải như ngươi nghĩ là xong đâu, ban đầu trong lòng ta đã quyết định tặng bảo kiếm cho ông ấy, sao mà có thể vì việc ông ấy đã mất rồi mà đi ngược lại với lời hứa của mình chứ!”. Trong Sử ký – Quý Bố, Loan Bố liệt truyện có câu: “Đắc thiên lượng hoàng kim, bất như đắc quý bố nhất nặc” (Được trăm lạng vàng cũng không bằng một lời hứa của Quý Bố). Thời Hán Sở phân tranh, Quý Bố là tùy tướng của Hạng Võ, là một người rất coi trọng chữ Tín. Mỗi khi ông đã hứa hẹn với ai điều gì thì không bao giờ thất hứa. Cho nên người đời xem lời hứa của Quý Bố rất có giá trị, ví là quý hơn cả trăm nén vàng vậy. Người đời sau nói: “Lời hứa đáng giá ngàn vàng“, đều có ý chỉ lời hứa có giá trị vô cùng to lớn. 晶 HÁN VIỆT Tinh NGHĨA VIỆT Thủy tinh, ánh sáng, trong suốt, lóng lánh TỪ GHÉP kết tinh 結晶 • thuỷ tinh 水晶, băng tinh 冰晶 . Chữ TINH晶là một chữ hội ý gồm ba bộ NHẬT日 (hợp) hợp lại mà thành. Quan sát chữ ở thể giáp cốt, Chữ TINH晶được biểu thị bằng ba vòng tròn trong mỗi vòng tròn lại có một chấm nhỏ. Khi quan sát bầu trời về đêm, người ta nhìn thấy, ngoài ánh sáng lớn là mặt trăng, còn có những ánh sáng nhỏ hơn lấp lánh trên bầu trời. Những ánh sáng này được thể hiện bằng ba hình tròn đơn giản. Số ba là số nhiều, biểu thị cho nhiều vầng sáng nhỏ, dấu chấm nhỏ bên trong biểu trưng cho sự lấp lánh. Sau quá trình phát triển và biến đổi của chữ hán, những vòng tròn với những chấm nhỏ bên trong được thay bằng ba bộ NHẬT日lúc này người ta xem những vầng sáng kia như những mặt trời nhỏ. Tính chất biểu ý vẫn là thể hiện sự lấp lánh của bầu trời đêm. Chữ TINH晶sau này được dùng để chỉ ánh sáng nói chung, cũng được dùng để chỉ những vật có ánh sáng lấp lánh, những vật trong suốt như thủy tinh, tinh thể. 星 HÁN VIỆT Tinh NGHĨA VIỆT ngôi sao, Sao Tinh,… TỪ GHÉP chiêm tinh 占星 • chuẩn tinh 準星 • cứu tinh 救星. Chữ TINH星về mặt cấu tạo là một chữ hình thanh kết cấu trên dưới, bao gồm bộ NHẬT日 (mặt trời) và chữ SINH生 (sinh ra), trong đó bộ NHẬT đóng vai trò là bộ phận tạo nghĩa, chữ sinh có nhiệm vụ biểu thị âm.Câu hỏi là tại sao người ta dùng mặt trời làm biểu ý cho chữ TINH là ngôi sao. Lý do là vì mặt trời , giữa các vì tinh tú khác cũng được xem là một “ngôi sao lớn” trên bầu trời. Quan điểm khác cho rằng, TINH 星 là chữ hội ý, Phân tích chữ ta thấy phía trên là bộ nhật 日 là mặt trời, phía dưới là chữ Sinh 生 động từ có nghĩa là sinh ra, tạo nên. Theo quan niệm xưa mặt trời là nguồn sáng lớn nhất trên bầu trời, các ngôi sao đều được sinh ra 生 từ mặt trời 日 . Theo đó mặt trời của chúng ta giống như một lò luyện sao vậy. 精 HÁN VIỆT Tinh NGHĨA VIỆT Gạo đã giã, bột, tinh túy TỪ GHÉP tinh diệu 精妙 • tinh hoa 精華 • tinh khí 精氣 • tinh khiết 精潔 • tinh lực 精力tinh nhuệ 精鋭 • • tinh tế 精細 • tinh thần 精神 • tinh tuý 精粹 • tinh tường 精詳 TINH 精 thuộc dạng chữ Hội Ý kiêm Hình Thanh, chữ bao gồm bên trái là bộ MỄ 米bên phải là chữ THANH 青. MỄ 米 là lúa gạo đã được bọc sạch vỏ bên ngoài trong khi THANH 米 là màu xanh, là tuổi trẻ tượng trưng cho những gì tươi trẻ và tốt đẹp. Với tính chất hội ý TINH 精nghĩa là Phần Gạo trắng tinh ngon nhất. Dùng rộng ra với ý những gì đã được chắc lọc còn lại phần tốt nhất, gọi là TINH HOA 精華. Tương tự, phần thần hồn minh mẫn nhất, gọi là TINH THẦN 精神. TINH TẾ 细 : là Cẩn mật, tỉ mỉ từng chút một. TINH MINH 精明 : Thông minh thấu đáo xét việc rõ ràng. TINH LỰC 精力 : là sức sống mạnh mẽ của con người được biểu hiện ra ngoài. TINH TRUNG 精忠 : là Trung thành hết mức. TINH TRUNG BÁO QUỐC 精忠報國 là 4 chữ được Nhạc Mẫu xăm lên lưng của danh tướng Nhạc Phi đời Tống. TINH VỆ ĐIỀN HẢI 精衛填海: Là Chim Tinh Vệ lắp biển. Theo thần thoại cổ đại Trung Hoa với tích sau đây... Con gái út của Thần Nông Thị Viêm Đế là Nữ Oa. Một hôm đi chơi ở biển Đông bị sóng gió biển Đông dìm chết. Uất hận trong lòng nên tinh linh của nàng hóa thành chim Tinh Vệ đầu hoa, mỏ trắng móng đỏ, ngày ngày tha đủ các loại đá sỏi, cây lá bỏ xuống biển đông, định lắp bằng biển đông cho hả giận. Nhưng ... "Vá trời lắp biển" đâu phải là chuyện dễ làm đâu Trong quyển SÃI VÃI của Nguyễn Cư Trinh, một trong những cái muốn của Ông Sãi là: Đá Tinh Vệ muốn lắp sao cho cạn biển, Đất nghĩ phù muốn đắp để nên non. Lúc biết Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường tự tử, cả nhà đã "Giải oan lập một đàn tràng bên sông" và khi trông... Ngọn triều non bạc trùng trùng, Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo. Tình thâm bể thảm lạ điều, Nào hồn TINH VỆ biết theo chốn nào? 情 HÁN VIỆT tình NGHĨA VIỆT Tình cảm, tình yêu, tình hình TỪ GHÉP chiêm tinh 占星 • chuẩn tinh 準星 • cứu tinh 救星. TÌNH 情 là chữ hình thanh kết cấu trái phải bao gồm bộ TÂM 忄bên trái chỉ ý bên phải là THANH青 chỉ âm đọc. Với bộ TÂM 心(忄) đứng bên trái chỉ ý nên TÌNH情 là TÌNH CẢM情感là điều thấy được trong lòng, do ngoại cảnh gây nên; TÌNH NHÂN 情人 là Người Tình. TÌNH còn có nghĩa là TÌNH HÌNH 情形, TÌNH HUỐNG 情況, TÌNH CẢNH 情景, TÌNH TRẠNG 情狀... Các Thành ngữ liên quan đến TÌNH tiêu biểu có: XÚC CẢNH SANH TÌNH 觸景生情: là Tiếp xúc với cảnh vật, cảnh trí hoặc sự việc xảy ra trước mắt, làm xúc động nảy sinh ra tình cảm trong lòng. PHẢN MỤC VÔ TÌNH 反目無情 : là Trở mặt nhau rồi không còn tình nghĩa nữa! ĐẦU Ý HỢP 情投意合: Hai người cùng một lòng một dạ yêu thương nhau thì gọi là: TÌNH CẢM TÌNH DỤNG SỰ 感情用事 : là Xử lý công việc bằng tình cảm. Những người Cảm Tình Dụng Sự rất dễ bị người khác lợi dụng sự mềm yếu và dễ dãi của mình. THỈ ĐỘC TÌNH THÂM 舐犢情深: Thâm tình của cha mẹ đối với con cái, mặc dù con cái đã lớn khôn. Nói tới đây làm ta nhớ đến cha con của Dương Bưu đời Tam Quốc: Theo sách Hậu Hán Thư, Dương Bưu có con là Dương Tu làm Chủ Bộ trong dinh Tào Tháo. Tu là người thông minh tài hoa lỗi lạc, nhưng phải tội háo thắng tranh hơn, hay đoán được ý muốn của Tào Tháo. Như có một lần, thợ vừa xây xong hoa viên, Tháo đến xem xong, trước khi bỏ đi viết vào cửa Viên một chữ HOẠT 活 là SỐNG, thợ không hiểu là ý gì. Khi Dương Tu đến thấy vậy, bèn bảo đám thợ rằng: "Thừa Tướng chê cửa rộng qúa, sửa cho nhỏ lại đi, vì chữ HOẠT 活 viết vào giữa chữ MÔN 門 là chữ KHOÁT 闊 có nghĩa là RỘNG". Lại một lần có người tặng cho Tào Tháo một hộp kẹo sốp, Tháo bèn viết 2 chữ lên đó rồi bỏ đi, mọi người xem không hiểu là ý gì, khi Dương Tu đến thấy chữ trên hộp, bèn mở ra chia cho mỗi người một miếng, khi Tháo đến thấy kẹo gần hết mới hỏi tại sao, thì Tu thưa rằng: "Theo lệnh của Thừa Tướng đã viết trên hộp chữ "NHẤT HIỆP 一合 " chiết tự ra có nghĩa là: NHẤT NHÂN NHẤT KHẨU 一人一口 là Mỗi người một miệng, nên thần đã phát cho họ ăn cả rồi!" Tháo không nói gì, nhưng trong bụng không vui. Khi Tào Tháo đem binh đi đánh Hán Trung, nhằm lúc thời tiết khắc nghiệt, tướng sĩ ngã bệnh rất nhiều tiến binh thì không có lợi, còn lui binh thì cũng tiếc công, đang lúc do dự chưa quyết, thì có tướng trực đêm vào xin khẩu lệnh, lúc đó Tào Tháo đang gặm một cái đùi gà bèn vuột miệng nói là "Gân Gà" (Kê Cân 雞筋), Dương Tu nghe thấy bèn bảo với các binh sĩ là hãy chuẩn bị hành trang vì Thừa Tướng sẽ ban sư về quê. "Gân gà" trông như thịt, nhưng nuốt thì không trôi, mà bỏ đi thì uổng, nhưng không ăn được gì cả, thế thì về quách cho rồi! Khi Tào Tháo đi tuần, thấy quân sĩ đều chuẩn bị hành trang để ban sư thì giật mình, hỏi ra mới biết là do Dương Tu nói, bèn nổi giận chém Dương Tu với tội danh: Quấy rối lòng quân. Thật ra thì Tháo cũng đã có ý "ban sư" rồi! Cha của Dương Tu là Dương Bưu ngày đêm thương nhớ con mà đâm ra ốm o gầy mòn. Tào Tháo hỏi, thì ông ta đáp là vì THỈ ĐỘC TÌNH THÂM 舐犢情深. Tháo nghe xong, có vẻ hối hận cho việc mình đã giết Dương Tu một cách qúa vội vả.... 姓 HÁN VIỆT Tính NGHĨA VIỆT Họ TỪ GHÉP bách tính 百姓• quý tính 貴姓 • tính danh 姓名. Chữ “姓/ tính” là chữ hội ý kiêm hình thanh, nghĩa là “họ”.Chữ này được cấu tạo bởi bộ “女/nữ” và chữ “生/sinh”, thể hiện rõ trong các kiểu chữ Giáp cốt, chữ Tiểu triện, chữ Khải Kết cấu của chữ “姓/ tính” cho thấy vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc phát triển dân số của thị tộc. Chữ “姓/tính” là chữ hội ý, do “女/ nữ” và “生/ sinh” hợp thành, nghĩa là do phụ nữ sinh ra. Về sau, “姓/ tính” được dùng để phân định những người có nguồn cội tổ tiên khác nhau, vì thế mà có cách nói “百姓/bách tính (trăm họ)”. Chữ “姓/tính” (họ) đã ghi lại dấu tích của chế độ mẫu hệ, đồng thời cũng là tiêu chí phân biệt giữa các thị tộc với nhau, vừa là cầu nối duy trì huyết thống, vừa là chuẩn mực hôn nhân thời bấy giờ. Trong xã hội hiện đại ngày nay, chữ “姓/ tính” vẫn còn được dùng làm tiêu chí phân biệt các dòng họ. Trong danh tính/ 姓名 (họ tên), người Trung Quốc vẫn coi trọng “姓/tính” (họ) hơn “名/danh” (tên). Mọi người thường xưng gọi bằng “姓/tính” (họ), ít xưng gọi bằng “名/danh” (tên). Ví dụ 张总 (tổng giám đốc Trương), 王经理 (giám đốc Vương), 李叔叔 (chú Lý)… trong đó “Trương”, “Vương”, “Lý” là họ (姓/tính), không phải là tên (名/ danh). Như vậy, “姓/tính” (họ) vẫn có những giá trị quan trọng như vốn có. 性 HÁN VIỆT Tính NGHĨA VIỆT Tính cách, tính tình TỪ GHÉP bản tính 本性cá tính 個性 • cảm tính 感性 • căn tính 根性 Chữ TÍNH性 (tính cách) là một chữ Hình Thanh kết cấu trái phải, bao gồm bên trái là bộ TÂM忄có tác dụng biểu nghĩa và chữ SINH生có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. Chữ TÂM 忄chủ thể về biểu nghĩa của các chữ hán có liên quan đến thể hiện tư duy, tình cảm, tính cách. Với vai trò biểu ý chính trong cấu tạo chữ TÍNH性 chữ TÂM 忄kết hợp với âm của chữ SINH 生 tạo thành chữ TÍNH 性 với nghĩa là tính cách, tính tình. 醒 HÁN VIỆT Tỉnh, tinh NGHĨA VIỆT Tỉnh lại, thức giấc, hết say TỪ GHÉP hồi tỉnh 回醒 • khiếu tỉnh 叫醒 • tỉnh ngộ 醒悟 • tô tỉnh 甦醒 TỈNH醒 là chữ hình thanh bao gồm bên trái là bộ DẬU酉 chỉ ý và bên phải là chữ TINH星 tạo thành. DẬU 酉là hình tượng của một cái hủ bằng sành dùng để đựng chất lỏng, để ủ rượu, ủ giấm, nên tất cả các chữ được ghép bằng bộ DẬU酉 đều có liên quan tới rượu. Vì vậy nghĩa gốc của TỈNH 醒 là thức dậy sau khi say cũng dùng để chỉ việc là Thức dậy sau khi ngủ, sau khi mê mẫn, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, như THỤY TỈNH 睡醒 là Thức giấc, TỬU TỈNH 酒醒 là Tỉnh rượu sau cơn say, TỈNH NGỘ 醒悟 là Làm sai sau đó chợt hiểu ra cái sai của mình, Tỉnh ra! Khi mơ thấy Đạm Tiên từ biệt, cô Kiều còn định "...cầm lại một hai tự tình", nhưng trong lúc đó thì... Gió đâu xịch bức mành mành, TỈNH RA mới biết rằng mình chiêm bao! 坐 HÁN VIỆT Tọa NGHĨA VIỆT Ngồi TỪ GHÉP an toạ 安坐 • bàng toạ 旁坐 • • thỉnh toạ 請坐 • thượng toạ 上坐 • tĩnh toạ 靜坐 • toạ lạc 坐落 • toạ thiền 坐禪 Chữ TỌA坐là một chữ hội ý, được kết hợp bởi hai bộ NHÂN人 (người) hai bên, ở giữa là chữ THỔ土 (đất). Chữ TỌA mô tả hai người đàn ông cùng ngồi trên một gò đất, hai lưng quay lai với nhau giống như đang ngồi nghỉ ngơi. TỌA 坐 có nghĩa là ngồi như TĨNH TỌA 靜坐 : là ngồi yên lặng; TỌA LAC: là ở tại nơi nào đó; TỌA THIỀN : Ngồi thật im lặng, không nhúc nhích; THƯỢNG TỌA: ngồi ở bậc trên —chỉ ông sư đã có công đức tu hành cao. Ngoài ra ta có các cụm từ và thành ngữ : DIỆN BÍCH TỌA THIỀN 面壁坐禪: Tín đồ Phật giáo mỗi ngày trong một thời gian nhất định tĩnh tọa đối diện nhìn vách, để bài trừ các ý nghĩ tạp nhạp, giữ cho tâm thần điềm tĩnh tự tại. Ta cũng có DIỆN BÍCH TƯ QÚA 面壁思過: là Ngồi xây mặt vào vách để suy nghĩ về những lỗi lầm của mình đã mắc phải, làm ta nhớ đến trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, nhân vật chính là Lệnh Hồ Xung bị sư phụ phạt phải lên Tư Qúa Nhai để Diện Bích Tư Qúa về những sai trái của mình. TỌA TỈNH QUAN THIÊN 坐井觀天 là Ngồi dưới đáy giếng mà nhìn trời. Ta tổng hợp cả 2 câu nói trên lại thành: " Ếch ngồi đáy giếng xem trời bằng vung!" để chỉ những người kiến thức nông cạn hẹp hòi mà cứ ngỡ ta đây giỏi lắm không ai bằng. 算 HÁN VIỆT toán NGHĨA VIỆT Tính toán TỪ GHÉP diệu toán 妙算 • dự toán 豫算 • kế toán 計算 • thanh toán 清算 • thần toán 神算• toán học 算學. Chữ TOÁN算là một chữ hội ý, bao gồm trên cùng là bộ TRÚC⺮ (tre, trúc), bộ MỤC目 (con mắt) và bộ CỦNG廾 (đôi tay). Tính chất hội ý của ba bộ thủ cấu tạo nên chữ này chỉ hành động phối hợp của đôi tay và mắt, khi thực hiện phép tính trên bàn tính làm bằng khung tre trúc ngày xưa. Các loại bàn tính như thế này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Bàn tính được làm bằng khung tre với các hạt trượt trên dây trong khi những bàn tính ban đầu chỉ là hạt đậu hoặc đá di chuyển trong rãnh trên cát hoặc bàn gỗ, đá hay kim loại. Khi thực hiện các phép tính trên những bàn tính dạng này, mắt và tay phải phối hợp nhuần nhuyễn, như thế thì pháp tính mới chính xác, tốc độ tính toán cũng được tăng lên.   从 HÁN VIỆT tòng • tùng • túng • tụng NGHĨA VIỆT Đi theo, theo TỪ GHÉP 力不從心 Lực bất tòng tâm,從軍 Tòng quân,phục tòng 服从. Chữ TÒNG从 là một chữ hội ý kết cấu trái phải, bao gồm hai bộ NHÂN 人(người). Tính chất hội ý của hai bộ NHÂN 人khi kết hợp với nhau biểu thị ý nghĩa một người đi theo sau một người. ngoài chữ TÒNG thì chữ TÒNG從cũng biểu diễn nghĩa là đi theo, tuy nhiên do chữ có cấu khá phức tạp nên người ta vẫn thường sử dụng 从 hơn. Với nghĩa ban đầu đi theo chữ TÒNG mở rộng nghĩa chỉ những hành động bắt chước hoặc làm theo sau đó lại phát triển nghĩa chỉ sự phục tùng, vâng theo. 祖 HÁN VIỆT Tổ NGHĨA VIỆT Ông bà, tổ tiên. TỪ GHÉP bành tổ 彭祖 • cao tổ 高祖 • phật tổ 佛祖 • sơ tổ 初祖 • tằng tổ 曾祖 • thuỷ tổ 始祖. Chữ TỔ祖trong tiếng hán ban đầu là chữ đơn, hình dạng chữ THẢ且ngày nay, là một chữ tượng hình. Tác giả Đường Hán cho rằng, đó là sự phác họa lại bộ phận sinh dục nam trong trạng thái cương kiện. Về sau, có thêm chữ THỊ 示 bên trái thể hiện ý nghĩa thành kính phụng thờ. Sau khi chữ 祖 xuất hiện nó tồn tại song song với chữ 且. Ngoài vai trò là một chữ hán độc lập ra, nó còn là tiền tố cấu tạo từ ghép như tổ phụ, tổ mẫu, đồng thời cũng là thành tố chính cấu tạo nên các từ ghép chính phụ như cao tổ, tằng tổ, thái tổ. Chữ THẢ 且mang ý nghĩa phát sinh từ chữ TỔ 且ban đầu, trong từ cô thả (tạm thời), xuất phát từ nghĩa trạng thái cương kiện của bộ phận sinh dục nam không thể duy trì , kéo dãi mãi được. Chữ 且 lại phát triển thành hư từ với ý nghĩa biểu thị sự tăng tiến có thể dùng như một liên từ đơn âm tiết.Chẳng hạn như Tuân mĩ thả dị (đã đẹp lại hiếm có). Trong tiếng hán hiện đại, 且vừa có thể được dùng đọc lập, vừa có thể kết hợp với nhi tạo thành liên từ song âm tiết nhi thả. Tuy nhiên, cho dù là thực từ hay hư từ且vẫn có liên hệ với ý nghĩa gốc của nó. Chữ 祖 đã chứng tỏ hai ý nghĩa, một là tín ngưỡng phồn thực, hai là sự tôn sùng, phụng thờ tiên tổ khi xã hội thị tộc phụ hệ ra đời thay cho xã hội thị tộc mẫu hệ, gia đình đã hình thành. Trong bối cảnh xã hội mà sản xuất nông nghiệp là chính, thêm vào đó là tư tưởng cha truyền con nối, con một cháu đàn. Việc duy trì và phát triển nòi giống là vô cùng quan trọng. Thứ nhất là tăng cường sản xuất, hai là kế thừa sản nghiệp của tổ tiên. Hơn nữa trong điều kiện y tế lạc hậu, việc sinh nở là chuyện khó khăn. Trong việc sinh nở và bảo tồn nòi giống, nam giới đóng vai trò tiên quyết. Ngày nay, ở một vài nơi trên thế giới vẫn còn tục thờ dương vật và xem đó là công tích của tổ tiên. Theo những di vật được khai quật gần đây, chữ 祖 trong văn tự hán cổ xưa càng chứng tỏ đó là sự mô tả và nhận thức về vai trò, tính chất của nam tính trong việc sinh sôi, bảo tồn nòi giống. 素 HÁN VIỆT Tố NGHĨA VIỆT Trắng, tơ trắng, chất TỪ GHÉP nguyên tố 元素 • nhân tố 因素 • sắc tố 色素 • tố chất 素質 • tố nga 素娥 • tố nữ 素女 • yếu tố 要素. Chữ TỐ素 là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, bao gồm phía trên là một dị thể của bộ PHONG 丯 (cây cỏ), phía dưới là chữ MỊCH 糸 (sợi tơ). Chữ素mô tả một đóa bông trên cây bông. Bông còn trên cây chưa hái xuống, chưa qua xử lý nào cả, tất nhiên là loại bông tinh khiết, nguyên chất và trắng nõn, chữ素vì thế có nghĩa là trắng nõn, đẹp đẽ. Mặt khác bông là một trong những sản phẩm dùng làm nguyên liệu dệt rất phổ biến ở Trung Quốc cổ đại nên bông còn có nghĩa là chất liệu hay chất. 罪 HÁN VIỆT Tội NGHĨA VIỆT Tội lỗi, hình phạt,nỗi khổ,… TỪ GHÉP đắc tội 得罪 • định tội 定罪 • • nhận tội 認罪 • phạm tội 犯罪• tạ tội 謝罪 • thú tội 首罪. Chữ TỘI罪là chữ hội ý kết cấu trên dưới, gồm bộ VÕNG罒 (lưới) ở trên và chữ PHI非 (sai trái) ở dưới, với ý nghĩa là lưới trời lồng lộng, khiến những hành vi sai trái sa lưới và bị kết tội. Người Trung Quốc và người Niệt Nam đều có cách nói là trời có mắt. Ý nghĩa của chữ TỘI 罪có giá trị giáo dục, răn đe con người và góp phần hướng thiện. Người ta phạm lỗi sai có thể người khác không biết nhưng trời biết. Lưới trên cao được coi là lưới trời. Từ trên cao soi xét, nhìn nhận, không hành vi lầm lỗi nào có thể lọt được lưới trời. Lại có thể hiểu rằng, nếu ai đó có hành vi sai trái, một khi sa lưới, sẽ bị kết tội. Bởi lẽ có nhiều kẻ có hành vi sai trái, được bao che hoặc không bị phát hiện, chúng vẫn dửng dưng sống như người không có tội.   孫 HÁN VIỆT Tôn, tốn NGHĨA VIỆT Cháu, nhún nhường (âm tốn) DẠNG KHÁC 孙 TỪ GHÉP đích tôn 嫡孫 • huyền tôn 玄孫 • lệnh tôn 令孫 • tằng tôn 曾孫 • tôn nữ 孫女 • tôn tử 孫子. Chữ TỬ 子 (con) ghép với chữ HỆ 系 (sợi dây, nối tiếp) thành chữ TÔN孫 (cháu) ở dạng phổn thể. Con cháu là thế hệ kế tiếp, kế thừa và phát triển sự nghiệp của cha ông, làm cho gia đình, xã hội được phát triển, ngày càng phồn vinh. Cha mẹ sinh ra con. Con lại sinh ra cháu. Dòng dõi được nối tiếp từ thế hệ này thế hệ khác. Chữ giản thể thay chữ HỆ系bằng chữ TIỂU小 (nhỏ). Đương nhiên cháu phải nhỏ hơn con, vị thế cũng thấp hơn. Điều đó cũng chứng tỏ quan niệm của người trung Quốc về gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội. Trong gia đình, con cháu là thế hệ nối tiếp, trên dưới có trật tự, có lề lối gia phong, làm cho giống nòi được mãi mãi sinh sôi, cũng là sợi day gắn kết, gắn bó tình cảm con cháu, cha mẹ, ông bà ngày càng bền chặt.   宗 HÁN VIỆT Tông, tôn NGHĨA VIỆT tổ tiên, tông đường, tôn giáo TỪ GHÉP chính tông 正宗 • tổ tông 祖宗 • tông chi 宗支 • tông đường 宗堂 • tông môn 宗門 . Chữ TÔNG宗 là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, phần trên là bộ MIÊN宀là biểu tượng mái nhà, bên dưới là chữ THỊ示, liên quan đến việc tế lễ, sự cung kính. Khi làm bộ phận cấu tạo chữ, đại đa số trường hợp chữ THỊ示đều nằm bên trái, với vai trò biểu ý và tồn tại dưới dạng 礻. Người việt nam sử dụng tiếng hán thường quen gọi nó là bộ LỄ礻. Tính chất hội ý của chữ TÔNG 宗 là chỉ việc tế lễ tổ tiên ở trong nhà. Đó là chữ được tạo ra trên cơ sở căn cứ vào cấu chúc tôn miếu, nơi tế lễ quỷ thần và tổ tiên. Quan sát hình dạng chữ giáp cốt, có thể hình dung bên trên chữ TÔNG 宗 là biểu tượng mái nhà, phần dưới là biểu tượng cái bàn dùng khi cúng tế. Vật cúng người xưa thường là đầu của các con vật trâu, dê, lợn,…còn tươi nguyên. Đầu con vật vừa bị giết làm vật cúng tế còn nhỏ máu từng giọt.Những nét chấm nhỏ ở phía trên và hai bên là biểu tượng của miếng thịt và nhưng giọt máu. Chữ TÔNG 宗 trong triện văn và khải thư cũng đều có hình dạng cơ bản như vậy. Đường hán giải thích rằng, chữ TÔNG 宗 phần trên là biểu tượng mái nhà, dưới mái nhà là bài vị của thần chủ, những chấm nhỏ biểu thị đồ dâng cúng. Nghĩa gốc của chữ tông là tổ miếu, tức là nhà lưu trữ bài vị để cúng tế, cung phụng tổ tiên. Chữ TÔNG 宗Nghĩa gốc là miếu thờ tiên tổ, thần linh. Về sau phát triển thành nghĩa chỉ các trường phái do một tổ sư truyền cho, như trong các từ thiền tông, mật tông, tông phái…con người uống nước nhớ nguồn luôn có ý thức hướng về cội nguồn, vấn tổ tầm tông. Tổ tông luôn là ngưỡng vọng của các thế hệ con cháu. Do đó TÔNG 宗 còn có nghĩa là hướng về, sau đó lại phát triển thành nghĩa nguồn cội. 爪 HÁN VIỆT Trảo NGHĨA VIỆT Bộ cân (214), khăn TỪ GHÉP quy trảo 龜爪 • ưng trảo 鷹爪. Chữ TRẢO爪là một chữ tượng hình, mô tả một bàn tay đang muốn nắm lấy một cái gì đó, chữ TRẢO có nghĩa gốc ban đầu là cào, gãi,quơ nắm. Sau nàynó được dùng để chỉ móng vuốt của động vật đặc biệt là móng của loài chim, ý nghĩa ban đầu của nó đã được thay thế bằng TRẢO抓 (gãi, quơ, nắm). TRẢO 爪 là Móng tay mọc dài ra, cứng và nhọn, dùng để chụp, bắt, quào, quấu. Trong phần bộ NHA ta đã biết qua từ : TRẢO NHA 爪牙 : là Nanh Vuốt, mà nghĩa bóng là Những tên tay sai côn đồ chuyên dùng để hành hung người khác. Ta có thành ngữ : TRẢO NHA QUẢNG BỐ 爪牙廣布 : là Tay chân vi cánh khủng bố ở khắp mọi nơi như những tổ chức của Mafia, của ISIS. TRƯƠNG NHA VŨ TRẢO 張牙舞爪 : là Giương Nanh Múa Vuốt. TRẢO OA 爪哇 : là tên dịch Java, hòn đảo lớn thứ Tư của nước Indonesia. Thủ đô Jakarta nằm ở tây bắc của đảo nầy, đây là hòn đảo có mật độ dân số thuộc hàng cao nhất thế giới: 981người/km2. 治 HÁN VIỆT Trị, trì NGHĨA VIỆT Cai trị TỪ GHÉP cai trị 該治 • chẩn trị 診治 • chính trị 政治 • quản trị 管治 • Chữ TRỊ治là một chữ hội ý kết cấu trái phải, gồm bộ thủy và một phần của chữ THAI胎 (phôi thai) hợp thành. Với vai trò biểu nghĩa, chấm THỦY 氵là biểu tượng của nước, thể hiện bản chất của vấn đề trị thủy. Trị thủy phải căn cứ vào tính chất của nước, khi nước lũ về , có khả năng sảy ra lũ lụt, người dân tiến hành phân lũ để tránh tức nước vỡ bờ. Từ việc trị thủy, người ta đến việc trị người phải lấy giáo dục, giáo hóa làm chính, làm cho con người từ chỗ có tri thức đén chỗ hiểu biết, nhận thức và phân biệt đúng sai. Giáo hóa chúng dân cũng là mấu chốt của việc thi hành nhân chính. Chữ THAI 治 có nghĩa là phôi thai, manh nha. Vai trò biểu ý của THAI胎 trong chữ TRỊ 治là biết căn nguyên, trị vì từ gốc. Muốn cho xã hội yên bình, con người sống ôn hòa với nhau thì mọi nguy cơ tội ác cần phải được ngăn chặn từ gốc. phòng bao giờ cũng hơn chữa, mà khi chữa thì phải chữa từ gốc. 哲 HÁN VIỆT Triết NGHĨA VIỆT Thông minh, sáng suốt, có trí tuệ,… TỪ GHÉP hiền triết 賢哲 • minh triết 明哲 • triết gia 哲家 • triết học 哲学 • triết lí 哲理. Chữ Triết gồm chữ Chiết 折 ở trên, chữ Khẩu 口 ở dưới. Chữ Chiết là Phân tích, chữ Khẩu là cái miệng nói ra những lời giúp Phân tích bẻ gãy Lý luận của người khác, đó là ý nghĩa của chữ Triết. Chữ Triết 哲 gồm bộ Thủ 扌 hợp với chữ Cân 斤 và bên dưới có chữ Khẩu 口.Thủ là nắm giữ, Cân là cân đo , xem xét , phân tích, Khẩu là cái miệng để nói (phát biểu, đúc kết). Hội ý 3 phần lại thì chữ Triết có ý nói về sự xem xét phân tích để tìm hiểu, tức là cách vật trí tri, nghĩa là phân tích sự vật để tìm hiểu đến cái lẽ tận cùng của nó. 潮 HÁN VIỆT Triều, Trào NGHĨA VIỆT Con nước, thủy triều, Trào lưu, phong trào,… TỪ GHÉP hải triều 海潮 • thuỷ triều 水潮 • triều lưu 潮流. TRIỀU潮 là thủy triều hay con nước...Chữ TRIỀU潮 bao gồm bên trái là bộ THỦY氵là nước, chữ TRÁC卓 (cách viết khác là 𠦝) nghĩa là cao , lên cao . bên phải là chữ 月 là mặt trăng.Thủy triều là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian phụ thuộc biến chuyển thiên văn. Trong đó sự thay đổi lực hấp dẫn từ Mặt Trăng là phần quyết định chủ yếu. 兆 HÁN VIỆT Triệu NGHĨA VIỆT Điềm báo, một triệu TỪ GHÉP cát triệu 吉兆 • hung triệu 凶兆 • mộng triệu 夢兆 • triệu phú 兆富. Chữ TRIỆU兆mô tả hai người đàn ông chạy trốn khỏi dòng sông. Lũ lụt là thảm họa lớn ở Trung Quốc cổ đại, vì vậy khi dòng sông chảy mạnh hơn bình thường, mọi người sẽ biết đó là dấu hiệu của lũ lụt, vì vậy họ tìm cách thoát khỏi dòng sông. Nghĩa gốc ban đầu của 兆 là chạy trốn nhưng ý nghĩa như vậy đã được thay thế bằng đào逃,nên 兆 chỉ còn có nghĩa là dấu hiệu cho thấy một cái gì đó sắp xảy ra (điềm, đời xưa dùng mai rùa bói, đốt mai rùa, rồi coi những đường nứt mà đoán tốt xấu gọi là triệu. Phàm dùng cái gì để xem tốt xấu đều gọi là triệu. Như cát triệu吉兆 điềm tốt). Mặt khác, 兆được mượn theo dạng Giả Tá để đại diện cho một con số lớn, một triệu. 貞 HÁN VIỆT trinh NGHĨA VIỆT Trong trắng, tiết hạnh, sự trung thành DẠNG KHÁC 贞 TỪ GHÉP kiên trinh 堅貞 • khiết 貞潔 • trinh liệt 貞烈 • trinh nữ 貞女 • trinh tiết 貞節. Chữ TRINH貞là một chữ hội ý, gồm chữ卜 (bói toán) và chữ貝, nhưng thực sự đây là một biến thể của 鼎 (vạc ba chân), vì vậy nên 貞 bao gồm 卜 và鼎. Ở Trung Quốc cổ đại, 鼎không chỉ là vật chứa thực phẩm, 鼎còn gắn liền với quyền lực và quyền thống trị trên một vùng đất, vì vậy thường được sử dụng như một biểu tượng ngầm chỉ cho quyền lực. Ngoài ra, trước khi các hoàng đế tự đưa ra quyết định, họ sẽ hỏi ý thần linh bằng cách bói toán, do đó, chữ鼎có ý nghĩa điều tra và nghiên cứu, nhưng ý nghĩa đó đã được thay thế bằng chữ偵, bây giờ 貞có nghĩa là bói toán. Mặt khác, người Trung Quốc cổ đại nghĩ rằng, bói toán cần sự tin tưởng tuyệt đối vào thần linh, vì vậy 貞cũng có nghĩa là sự trong sạch và sự trung thành.   偵 HÁN VIỆT trinh NGHĨA VIỆT Dò xét, dò thám kín đáo DẠNG KHÁC 侦 TỪ GHÉP trinh sát 偵察• trinh thám 偵探. Chữ TRINH偵là một chữ hình thanh kết cấu trái phải. Trong đó, bộ NHÂN亻(người) ở bên trái có tác dụng biểu thị ý nghĩa chữ, chữ TRINH 貞 (trong sạch) ở bên phải có nhiệm vụ biểu âm. Chữ NHÂN 亻 chủ thể về các nghĩa liên quan đến các hành vi, hoạt động của con người. Trong cấu tạo của chữ 偵, chữ亻với vai trò là thành phần biểu nghĩa chính kết hợp với âm đọc của貞tạo thành chữ TRINH 偵 với nghĩa là do thám, trinh sát. 重 HÁN VIỆT Trọng, trùng NGHĨA VIỆT Sức nặng, lặp lại, quan trọng TỪ GHÉP cửu trùng 九重 • trùng dương 重洋 • trùng điệp 重疊 • trọng khinh 重氫 • trọng lực 重力, tỷ trọng 比重 Chữ TRỌNG về cấu tạo vốn là chữ hình thanh, theo Giáp Cốt Văn chữ do NHÂN人 bên trên chỉ ý và ĐÔNG東 (hướng đông) bên dưới chỉ âm hợp lại mà thành. TRỌNG重 là Nặng, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, như TRỌNG LỰC 重力, TRỌNG LƯỢNG 重量 : là Sức Nặng. TRỌNG BỆNH 重病: là Bệnh Nặng, TRỌNG THƯƠNG 重傷 : là Bị Thương Nặng... Bắt đầu từ kim văn hình thể chữ có sự thay đổi lớn, cho đến dạng lệ thư thì Chữ TRỌNG 重 do chữ THIÊN 千 là Ngàn chồng lên trên chữ LÍ 里là dặm mà thành theo như câu đối chiết tự sau đây : Bát đao phân mễ phấn, 八刀分米粉, Thiên lí trọng kim chung. 千里重金鍾. Có nghĩa : Phân hột gạo bằng 8 dao, hột gạo sẽ nhuyễn ra thành bột. Mang nặng cái chuông vàng vượt qua ngàn dặm. Câu đối trên hay ở chỗ Chiết Tự, vì chữ BÁT 八 chồng lên trên chữ ĐAO 刀 thành chữ PHÂN 分, và chữ PHÂN 分 ghép với chữ MỄ 米 thành chữ PHẤN 粉. Vậy là trong chữ PHẤN 粉 có chữ BÁT, chữ ĐAO, chữ PHÂN, chữ MỄ 八刀分米. Tương tự, trong vế sau, chữ THIÊN 千 chồng lên trên chữ LÍ 里 thành chữ TRỌNG 重, chữ TRỌNG 重 ghép với chữ KIM 金 thành chữ CHUNG 鍾, nên trong chữ CHUNG 鍾 có chữ THIÊN, chữ LÍ, chữ TRỌNG, chữ KIM 千里重金. Cụ Nguyễn Du đã mượn ý nầy để cho cô Kiều ngầm tỏ ý tiếc rẻ đã không trao thân cho Kim Trọng trong đêm Kim Kiều gặp gỡ lúc "Nhà lan thanh vắng một mình", cô đã than: Biết thân đến bước lạc loài, Nhụy đào thà bẻ cho người tình chung! "Người Tình Chung!" Tại sao phải là "Người Tình Chung", mà không phải là "Người Tình Nhân" hay "Người Tình Lang" ?! À, thì ra cụ Tiên Điền đang chơi chữ đây, Vì chữ CHUNG 鍾 là do 2 chữ KIM TRỌNG 金重 ghép lại mà thành. "NGƯỜI TÌNH CHUNG" là "Người tình tên KIM TRỌNG 金重" đó vậy! Ta có nhiều thành ngữ liên quan đến chữ TRỌNG : TRỌNG NGHĨA KHINH TÀI 重義輕財: là Coi trọng việc nghĩa và coi nhẹ tiền tài như lời của cô Kiều đã nhắn nhủ với Kim Trọng: Chiếc thoa là của mấy mươi, Mà lòng TRỌNG NGHĨA KHINH TÀI xiết bao! TRỌNG 重 khi đọc là TRÙNG thì có nghĩa là Lặp Lại, Trùng lắp, như Tiết TRÙNG CỬU 重九 là Lễ tiết nhằm ngày Mùng chín Tháng chín. TRÙNG PHỤC 重復 là Lặp lại. TRÙNG PHÙNG 重逢 là Gặp lại... TRÙNG TRÙNG ĐIỆP ĐIỆP 重重疊疊: là Hết lớp nầy tới lớp khác nối tiếp nhau mãi không dứt. Ta nói là Hàng hàng Lớp lớp. TRÙNG TÂN 重新: KHÔNG có nghĩa là LÀM MỚI, mà là LÀM LẠI TỪ ĐẦU, làm lại một lần nữa! TRÙNG XƯỚNG 重唱 : KHÔNG phải hát lại một lần nữa, mà là HÁT BÈ : Hai người hát cùng một lúc với hai "Tông" khác nhau. TRÙNG ÔN CỰU MỘNG 重溫舊夢 : là Hâm nóng lại giấc mộng xưa; thường dùng để chỉ người yêu cũ gặp lại, hoặc vợ chồng xa cách lâu ngày giờ được đoàn viên. Viết đến đây làm ta nhớ lại lời ca trong bài "Mong Người Chiến Sĩ" của Nhạc sĩ THÚC ĐĂNG khoảng thập niên 50 của Thế kỷ trước: ...Em mong cho ngày tháng thanh bình, anh về làng cũ, TÌM PHÚT VUI XƯA, quên ngày dãi nắng dầm mưa! "Tìm Phút Vui Xưa" tức là "Trùng Ôn Cựu Mộng" đó! TRÙNG TU 重修 : là Sửa sang lại, xây dựng lại. TRÙNG SINH 重生 : Không phải Sanh lại một lần nữa, mà là chỉ những người lẽ ra đã chết được ai đó cứu sống lại như cô Kiều được Sãi Giác Duyên cứu sống vậy, nên khi cả nhà đến rước về đoàn tụ, thì cô Kiều không nở bỏ Giác Duyên mới nói rằng: TRÙNG SINH ơn tựa bể trời, Lòng nào nở dứt nghĩa người ra đi?! 竹 HÁN VIỆT Trúc NGHĨA VIỆT cây trúc, cây tre, cây tiêu, cây sáo… DẠNG KHÁC 𥫗 TỪ GHÉP ti trúc 絲竹 • trúc bạch 竹帛 • trúc côn 竹棍 Chữ 竹TRÚC là chữ tượng hình, tái hiện lại hai nhánh trúc vươn cao, hai là số nhiều, biểu trưng cho ý nghĩa trúc mọc thành khóm. Về mặt ý nghĩa, trong hầu hết các bộ từ điển tiếng Hán đều chỉ đưa ra nhiều nhất là ba nghĩa của竹 trúc, gồm tre trúc; một loại nhạc cụ; họ Trúc. Trúc mọc thẳng, thân chia thành từng đốt đều đặn, đung đưa theo gió, đẹp một vẻ đẹp uyển chuyển. Vì vậy, chữ 笑 tiếu là một chữ hội ý gồm bộ trúc đầu và 夭 yêu (non tơ) hợp thành, biểu thị vẻ đẹp của nụ cười duyên dáng. Trung Quốc có nhiều loại 竹 trúc, tương đương với các loại thuộc họ trúc và tre ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể chia loài thực vật này thành hai loại, loại sinh trưởng trong tự nhiên, cung cấp nguyên vật liệu cho đời sống của con người và một loại thuộc cây cảnh, tiếng Trung Quốc gọi là 君子竹 quân tử trúc. Dù thuộc loại nào, chúng đều cóchung đặc điểm là mọc thẳng, giữa các đốt có phân khoảng khá đều và kể cả khi đốt thành tro thì vẫn giữ nguyên dáng thẳng, không bị sức nóng của lửa làm cong như những loại thực vật làm nguyên nhiên liệu khác, trừ trường hợp có sự gia công của con người uốn cong thân cây theo ý tưởng của mình. Chính vì đặc điểm đó, trúc được dùng để ví với phẩm chất cương trực, tiết (đốt tre) được dùng để chỉ một trong những chuẩn mực đạo đức của con người, như tiết khí, tiết tháo, tiết hạnh... 忠 HÁN VIỆT Trung NGHĨA VIỆT Trung thành TỪ GHÉP bất trung 不忠 • trung kiên 忠坚 • trung kiên 忠堅• trung thành 忠誠 •忠实 • trung thực 忠實 • trung tín 忠信 . Chữ TRUNG忠có thể hiểu theo hai phương diện. Thứ nhất, đây là chữ hình thanh kết cấu trên dưới, trog đó TRUNG中là phần biểu âm, TÂM心là phần biểu nghĩa, thể hiện thái độ cư xử và làm việc của bậc quân tử trong cộng đồng. TÂM 心 trong quan niệm của người Hán là bộ phận cơ thể chủ đạo về tư duy, suy nghĩ và tình cảm. có thể dựa vào các tầng nghĩa của chữ TÂM 心 và vai trò của Tâm trong cấu tạo của chữ hán cũng như tạo từ ghép để chứng tỏ điều đó. Với các nghĩa bóng thể hiện tư tưởng, tình cảm,suy nghĩ này, TÂM 心 trong tiếng hán lại tương đương với lòng, bụng trong tiếng việt. Quan điểm thứ hai cho rằng TRUNG 忠 là chữ hội ý kết cấu trên dưới. Trong đó chữ TÂM心như đã phân tích kết với chữ TRUNG 中 (ở giữa) hội lạithành nghĩa “trung tại tâm thượng”. TRUNG là tâm điểm hài hòa các vị trí trên dưới, trước sau, phải trái, không thiên lệch. Lẽ công bằng đó được đo bằng chính cái TÂM của mình. Theo cách lý giải của Đường Hán, chữ TRUNG忠vốn là biểu tượng của ngọn cờ đặt giữa khu đất ở của thị tộc (xem giáp cốt văn). Hội hai bộ thủ cùng thể hiện ý nghĩa là trong lòng luôn nhớ đén nơi sở tại của thị tộc. Từ đó phát triển thành nghĩa là lòng trung thành. Trong Thuyết văn, chữ TRUNG忠có nghĩa là kính cẩn, hết lòng phụng sự. Chữ TRUNG忠đã thể hiện rõ nét chuẩn mực luân lý, đạo đức truyền thống. trong xã hội thị tộc, trung nghĩa là tận tâm trung thành với thị tộc. Trong xã hội phong kiến, để duy trì địa vị thống trị xã hội và phát huy vai trò của cá nhân, Trung quân ái quốc được coi là chuẩn mực cao cả mà mọi người đều mong muốn vươn tới. Đặc biệt chữ忠đã được tuyệt đối hóa trong quan hệ vua tôi. Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung (vua bắt bề tôi phải chết mà bề tôi không chịu chết ấy là bất trung). 虫 HÁN VIỆT Trùng, hủy NGHĨA VIỆT Bộ trùng, sâu bọ, côn trùng DẠNG KHÁC 蟲 TỪ GHÉP ấu trùng 幼虫 • côn trùng 昆虫 • thao trùng 绦虫 TRÙNG 虫chữ Tượng Hình,theo diễn tiến của chữ viết ta thấy: Giáp Cốt Văn, Kim Văn như hình con rắn, đến Đại Triện Tiểu Triện thì như hình của những con trùng. Nên TRÙNG 虫 là chỉ chung các loại sâu bọ, rắn rết... Bộ TRÙNG 虫 vừa là BỘ, vừa là CHỮ giản thể của chữ TRÙNG, chữ phồn thể đủ nét phải như thế nầy: 蟲. Ngoài nghĩa là CÔN TRÙNG 昆蟲 là Sâu Bọ ra, TRÙNG còn chỉ các loại động vật khác như: ĐẠI TRÙNG 大蟲: là Lão Hổ 老虎, ta gọi là Ông Cọp. TRƯỜNG TRÙNG 長蟲 là Trường Xà 長蛇, là Con Rắn. BÁCH TÚC TRÙNG 百足蟲 : là Con bọ trăm chân, là tên riêng của con RẾT, miền Nam gọi là Con RÍT. Tên chữ là NGÔ CÔNG 蜈蚣. LÃN ĐỌA TRÙNG 懶惰蟲 : Con sâu làm biếng, từ dùng để mắng những người trây lười: "Thứ cái đồ lười biếng! 懶惰蟲!"  直 HÁN VIỆT Trực, trị NGHĨA VIỆT Thẳng, chính trực TỪ GHÉP chính trực 正直 • cương trực 刚直 • trực giác 直覺 • trực hệ 直系 • trực thăng cơ 直升機 • trực tiếp 直接. Chữ TRỰC直 là một chữ Hội Ý có kết cấu trên dưới, trong giáp cốt văn chữ 直 miêu tả một con mắt (目) đang nhìn, phía trên là một đường thẳng đứng (hai nét ngang đậm ở trên và dưới sau này được thêm vào thật chất là hai khóe mắt trên dưới), người ta dùng hình ảnh nét thẳng đứng này để biểu thị cho ý nghĩa là con mắt đang nhìn thẳng vào một vật hay một người nào đó. Trái lại với chữ THẦN臣 (bề tôi) miêu tả con mắt của một người đang quỳ gối nhìn lên, chữ 直 mô tả con mắt nhìn thẳng, tức là cái nhìn trực diện khi đối mặt với một ai đó. Vì vậy, chữ 直 ngoài nghĩa là thẳng, liền mạch cũng được dùng để chỉ ai đó tính tình thẳng thắn, cương trực. 長 HÁN VIỆT tràng • trướng • trường • trưởng • trượng NGHĨA VIỆT Dài, lâu, lớn, xa, hay, giỏi TỪ GHÉP sở trường 所長 • trường ca 長歌 • trường chinh 長征 • trường cửu 長久 • trường sinh 長生trường thọ 長壽 TRƯỜNG là chữ Tượng Hình, từ Giáp Cốt Văn đến Đại Triện là hình tượng một người đứng đưa tay về phía trước, trên đầu là hai sợi tóc dài bay về phía sau; đến chữ Tiểu Triện thì thành 3 sợi tóc và bên dưới là hình chữ TẨU 走 là Đi và lại thêm một nét cong như là vạt áo bay về phía sau. Nên, TRƯỜNG là DÀI, là mượn hình tượng cụ thể để diễn tả một ý trừu tượng. Vì chẳng những có Ý là DÀI, khi TRƯỜNG 長 được Giả Tá mượn đọc là TRƯỞNG thì lại có nghĩa là LỚN nữa! TRƯỜNG 長 là DÀI, cả về không gian và thời gian nữa, như : TRƯỜNG ĐOẢN 長短 : là Dài Ngắn, TRƯỜNG SAM 長衫: là Áo Dài... TRƯỜNG CỬU 長久: là Lâu Dài, TRƯỜNG KỲ 長期: là Cái Kỳ hạn lâu dài, TRƯỜNG DẠ 長夜: là Đêm Dài... TRƯỜNG THIÊN TIỂU THUYẾT 長篇小說: Ta nói là Truyện Dài; Ngược lại ĐOẢN THIÊN TIỂU THUYẾT là Truyện Ngắn. VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH 萬里長城: là bức tường thành nổi tiếng của Trung Quốc liên tục được xây dựng bằng đất và đá từ Thế kỷ thứ 5 TCN cho tới Thế kỷ thứ 16, để bảo vệ Đế quốc Trung Quốc khỏi những cuộc tấn công của người Hung Nô, Mông Cổ, người Turk, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ và Mãn Châu. TRƯỜNG 長 còn có nghĩa là SỞ TRƯỜNG 所長: Tức là Giỏi về một bộ môn nào đó, như TRƯỜNG VU ÂM NHẠC 長于音樂: là Giỏi về Âm Nhạc; TRƯỜNG VU TẢ TÁC 長于寫作 : là Giỏi về viết lách, sáng tác... Ta có thành ngữ CÁC HỮU SỞ TRƯỜNG各有所長: là Mỗi người đều có Sở Trường riêng của mình. Khi TRƯỜNG được Giả Tá đọc là TRƯỞNG thì có nghĩa là LỚN, như TRƯỞNG THÀNH 長成: là Lớn Lên, Ý chỉ Đã Khôn Lớn. SINH TRƯỞNG 生長: Được sinh ra và lớn lên; như SINH TRƯỞNG ở MỸ: là Được sinh ra và lớn lên ở nước Mỹ. TRƯỞNG còn có nghĩa là Nuôi Cho Lớn, như trong Kinh Thi, chương Tiểu Nhã, bài LẠO NGA: ... 父兮生我,母兮鞠我。拊我畜我,長我育我,顧我復我,出入腹我。欲報之德,昊天罔極! Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, phủ ngã súc ngã, TRƯỞNG ngã dục ngã, cố ngã phục ngã, xuất nhập phúc ngã. Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực! Có nghĩa : ...Cha thì Sanh ta, mẹ thì mang nặng ta, ẳm bồng đút mớm, nuôi nấng dạy dỗ ta, chăm nom ta lúc bệnh hoạn, Ra vào lo lắng cho ta. Muốn báo ơn sâu nầy, ví như trời cao thăm thẳm! Ta thường hay nghe nói CỬU TỰ CÙ LAO 九字劬勞 hay "Chín Chữ Cù Lao" cũng thế, là do 9 chữ: SANH, CÚC, PHỦ, SÚC, TRƯỞNG, DỤC, CỐ, PHỤC, PHÚC. Khi Kiều ở lầu xanh, cô cũng tủi thân mà nhớ đến công ơn của cha mẹ: Nhớ ơn CHÍN CHỮ cao sâu, Một ngày một ngã bóng dâu tà tà! Dặm ngàn nước thẳm non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế nầy. TRƯỞNG còn chỉ người Đứng Đầu, như: TRƯỞNG NAM 長男; TRƯỞNG NỮ 長女; TRƯỞNG BỐI 長輩... GIA TRƯỞNG 家長; THỦ TRƯỞNG 首長; THUYỀN TRƯỞNG船長 ... 須 HÁN VIỆT Tu NGHĨA VIỆT Râu, nên làm, cần thiết TỪ GHÉP ta tu 些須 • tất tu 必須 • tu du 須臾. Trong tiếng hán, ngoài chữ NHI而ra còn có chữ TU 須 cũng dùng chỉ bộ râu. Quan sát chữ TU須 ở dạng giáp cốt và dạng chữ kim đều dễ dàng nhận thấy đây là một chữ tượng hình, khắc họa lại hình ảnh chòm râu mọc dưới cằm. đến dạng chữ tiểu triện thì chữ TU được tách ra hai bộ rõ rệt bộ SAM彡 (lông dài) bên trái và bộ HIỆT頁(đầu) bên phải. Râu mọc đánh dấu sự trưởng thành của nam giới. Râu cũng là thể hiện sự nam tính. Râu càng dày, càng rậm, nam tính càng mạnh mẽ. Những cụ già thường để chòm râu bạc thể hiện mức độ đức cao vọng trọng và tuổi thọ vượt trội. ngược lại nữ giới trên ria mép có râu là một điều không tốt. Do đó, chữ TU 須phát triển thành nghĩa nhất thiết, phải làm trong các từ tất tu, vụ tu… 秀 HÁN VIỆT Tú NGHĨA VIỆT Đẹp, giỏi,… TỪ GHÉP thanh tú 清秀 • tú tài 秀才 • tuấn tú 俊秀 • tuệ tú 慧秀 • ưu tú 優秀. Chữ TÚ秀 là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, gồm hai bộ thủ HÒA禾 (cây lúa) và NÃI乃 (trong cổ văn nghĩa là sữa) tạo thành. Xuất phát từ một nước nông nghiệp, cuộc sống của người dân Trung Quốc gắn liền với ruộng đồng cây lúa. Trong hệ thống chữ hán không chỉ có bộ MỄ米và ĐIỀN田 xuất hiện với tần số lớn, bộ HÒA 禾 (cây lúa) cũng rất thường gặp. Đúng riêng lẻ, HÒA 禾 là một chữ đơn, là cách viết thu gọn của chữ THỬ 黍 (cây lúa). Chữ NÃI 乃 trong cổ văn vốn là chỉ bầu sữa, chữ NÃI 奶ban đầu có thêm bộ nữ chỉ về sữa. về sau có từ nãi nãi奶奶chỉ bà nội, dùng trong khẩu ngữ, tồn tại song song với tổ mẫu dùng trong văn viết. Kết hợp ý nghĩa của hai bộ thủ HÒA 禾 và NÃI 乃, chữ TÚ 秀 ban đầu chỉ ý cây lúa đang thời kỳ làm đòng, trổ bông, bông hoa lúa lúa khi bắt đầu hìnhthành được bao bọc bởi một chiếc lá dài, nhụy hoa dần dần trở thành những hạt lúa non ngậm đầy sữa. Sau khi lúa trổ bông một thời gian, chín và trở thành những bông lúa hạt tròn, mẩy, chắc. Chữ TÚ秀 với nghĩa ban đầu là sự kết tinh những gì tinh túy nhất của cây lúa hút nhựa đất mà thành, phát triển thành các nghĩa khác như tốt đẹp, ưu việt , xuất chúng,… như trong các từ ưu tú, thanh tú, cẩm tú, tú tài,… Ruộng lúa đến kỳ trổ bông, vô số những bông lúa đồng thời bật lên, bông hoa lúc ban đầu thẳng như búp măng mọc đếu tăm tắp. Do đó TÚ秀 còn có nghĩa là nhiều. Ví dụ như câu nhân tài tú phát (nhân tài xuất hiện nhiều vô kể). 足 HÁN VIỆT Túc, tú NGHĨA VIỆT Chân, đầy đủ, sung túc TỪ GHÉP bổ túc 補足 • sung túc 充足 • túc cầu 足球 • túc hạ 足下 • tự túc 自足 • TÚC 足 là chữ dùng Tượng Hình để Hội Ý , theo diễn tiến của chữ viết ta thấy Kim Văn, Đại Triện và Tiểu Triện đều là hình tượng của một vòng tròn ở trên tượng trưng cho cái đầu gối, phần dưới là chữ CHỈ 止 là hình cái bàn chân. Gộp ý của 2 phần lại, ta có nguyên cái Chân. Nên TÚC 足 là CHÂN, như TÚC CẦU 足球: là Banh được đá bằng Chân, nên ta còn gọi là Bóng Đá. THỦ TÚC 手足 : là Tay Chân. Ông bà ta dạy: Huynh đệ như THỦ TÚC, 兄弟如手足, Phu phụ như y phục. 夫婦如衣服。 Có nghĩa : Anh em như thể tay chân, còn Vợ chồng thì như quần áo. Quần áo rách, dơ thì có thể thay cái khác được, còn tay chân bị gãy bị đứt đi rồi, thì không thể thay cái mới được. HỌA XÀ THIÊM TÚC 畫蛇添足: là Vẽ rắn thêm chân, chỉ làm những việc tào lao, vô bổ. TÚC HẠ 足下 : là Từ dùng để tôn xưng người khác, hàm ý khiêm nhượng là mình chỉ xứng đáng ở dưới chân của người ta mà thôi, nên TÚC HẠ được dùng như từ Ông, là Ngôi thứ 2 số ít. Gọi người ta là TÚC HẠ, còn mình tự xưng là TẠI HẠ 在下: là Kẻ dưới nầy, kẻ hèn này... để thế cho chữ TÔI. CAO TÚC 高足 : Không phải là Cao Chân, Cao Cẳng gì cả, mà là từ lịch sự dùng để tôn xưng đệ tử của người khác. Gọi học trò của người ta bằng: LỆNH CAO TÚC 令高足. Còn tự xưng học trò của mình là TIỂU ĐỒ 小徒 : là Thằng trò nhỏ của tôi! TÚC 足 còn có nghĩa là Đủ, như TÚC SỐ 足數 là Đủ số rồi. TÚC TRÍ ĐA MƯU 足智多謀 : Ta nói là "Lắm mưu nhiều kế." NHÂN TÂM BẤT TÚC 人心不足 : là Lòng người không đủ, Ý nói Lòng tham của con người không bao giờ biết đủ cả; có một thì muốn hai, có hai rồi thì muốn tới... 100 lận! Câu nầy còn được nói như sau: Nhân Tâm Bất Túc Xà Thôn Tượng 人心不足蛇吞象: là "Lòng tham của con người không bao giờ biết đủ, như rắn mà muốn nuốt voi vậy!" Trong bài Hát Nói "Chữ Nhàn" của Nguyễn Công Trứ có một đôi câu chữ: Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc? 知足便足,待足,何時足? Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn? 知閒便閒,待閒,何時閒? Có nghĩa : Biết đủ, thì là đủ; đợi cho đủ, biết đến bao giờ mới đủ? Biết nhàn thì hãy nhàn đi; đợi cho nhàn, biết đến bao giờ mới được nhàn?!  慧 HÁN VIỆT Tuệ, huệ NGHĨA VIỆT Trí tuệ, thông hiểu TỪ GHÉP huệ căn 慧根 • huệ giác 慧覺 • huệ nhãn 慧眼 • huệ tâm 慧心 • mẫn huệ 敏慧 • tảo huệ 早慧 • thông huệ 聰慧 • tiểu huệ 小慧 Chữ TUỆ (慧 ) trong “Trí tuệ” hay “thông tuệ” chiếu theo lục thư là chữ hình thanh kết cấu trên dưới. Chữ này gồm chữ TUỆ 彗 (cái chổi, quét) bên trên và bộ TÂM 心 (trái tim, tấm lòng) bên dưới hội hợp lại mà thành. Người Trung Quốc cổ đại quan niệm thậm chí ngộ nhận rằng trái tim thay vì bộ não là trung tâm của cơ thể con người, trong tiếng Hán bộ TÂM chủ đạo về suy nghĩ , tình cảm và tư duy nên dễ hiểu khi 心 là thành tố biểu nghĩa chính của chữ 慧 . Trong cấu tạo chữ TUỆ (慧) ngoài bộ 心 sự xuất xuất hiện của chữ 彗 không chỉ đóng vai trò chỉ âm đơn thuần mà còn chứa đựng một dụng ý cao thâm của các vị cao nhân học giả ngày xưa, nếu tâm không tốt, còn nhiều bụi bặm dơ bẩn, không dùng cái chổi để quét dọn sạch sẽ, thì làm sao có tuệ? TUỆ (慧) gồm chữ tâm 心 và chữ 彗 thể hiện ý nghĩa quét dọn bụi bẩn, nghĩa là tâm trong sạch thì trí sẽ minh mẫn. Một khi tâm niệm không trong sạch thì trí tuệ sẽ gặp trở ngại. Đó là điều mà người trí thức cần phải lưu ý. Sách Luận ngữ cũng bàn về người trí thức rằng: "Hành kỉ hữu sỉ, sứ vu tứ phương, bất nhục quân mệnh". Câu này có nghĩa là một người trí thức phải biết chú ý tới hành vi của bản thân, có ý thức trách nhiệm, biết hổ thẹn khi làm điều sai trái và luôn lo sợ nhân cách, phẩm chất của bản thân mình bị vấy bẩn. Trong ngôn ngữ hàng ngày, ta thường nói đến từ “trí tuệ” và thường hiểu đơn giản trí tuệ là hiểu biết và kiến thức. Trong Phật giáo cũng dùng từ Trí Tuệ (cũng dùng "trí huệ"). Nhưng Trí hay Tuệ trong Đạo Phật có nghĩa sâu hơn, bao hàm sự thấu hiểu có tính chân lý và tính trực tiếp. Tiếng Việt không có từ nào khác hơn và thích hợp hơn để dịch chữ Tuệ trong kinh điển đạo Phật, mặc dù nó có nghĩa khác hơn. Tóm lại, ta có thể định nghĩa từ “Trí Tuệ” của Đạo Phật qua một số thuộc tính của nó, ví dụ: sự thấu hiểu, trực tiếp, đúng và hợp chân lý, có thể phát triển theo thời gian và sự tu tập v.v…. Trí Tuệ có nguồn cội giống như kiến thức, nhưng khác với kiến thức, nó là một năng lực hiểu biết trực tiếp không thông qua ngôn ngữ, khái niệm hay lý luận. Trong khi Tuệ của đời thường (sự hiểu biết) nhằm mục đích phục vụ cuộc sống thế gian, thì Tuệ hay “trí huệ” (âm khác của Đạo Phật nhằm mục đích giúp cho con người vượt thoát khỏi thế gian và những cái hữu hạn của nó. Tuệ, trong Đạo Phật, nhằm giúp người tu vượt lên cõi nhân gian, vươn tới những cõi giới cao hơn, hoặc thậm chí vượt qua tất cả các cõi giới để đạt được tự do tuyệt đối! 松 HÁN VIỆT Tùng, Tông, Tung NGHĨA VIỆT Cây tùng, cây thông,…. TỪ GHÉP bạch tùng 白松 • tùng hạ 松下. Chữ松xét về mặt văn tự, tuy phần lớn các từ điển tiếng Hán đều cho rằng, chữ 松là một chữ hình thanh, gồm 木 mộc biểu nghĩa, 公 công biểu âm.Tuy nhiên, đây thực ra là chữ hội ý kiêm hình thanh. Trong đó, 木 mộc là cây thân gỗ, đóng vai trò biểu thị ý nghĩa; 公 công chỉ giống đực, vừa có giá trị biểu âm công→ tùng, vừa biểu thị ý nghĩa nam tính, mạnh mẽ, cứng cỏi. Hai bộ thủ đã hội hợp lại thể hiện ý nghĩa cây tùng đúng với tính chất của nó: sức sống dẻo dai, vượt lên giá rét. Dù ở nơi sa mạc hay vách đá cheo leo, bốn mùa cây tùng đều tươi xanh cành lá. 泉 HÁN VIỆT Tuyền, toàn NGHĨA VIỆT Suối, nguồn TỪ GHÉP cửu tuyền 九泉 • hoàng tuyền 黃泉 • khoáng tuyền 鑛泉 • nham tuyền 巖泉 • ôn tuyền 溫泉. Chữ TUYỀN泉trong Giáp Cốt Văn miêu tả một dòng nước chảy ra từ bụng đá. Nghĩa gốc của泉là “nguồn nước”, cũng chỉ luôn nghĩa “mạch nước ngầm”. Hình thể chữ泉từ Lệ Thư trở về sau thay đổi khá nhiều, hình ảnh dòng nước được thể hiện bằng bộ THỦY水 và hình ảnh núi đá được thể hiện giống như chữ BẠCH 白. Chữ泉bắt đầu từ lệ thư là chữ Hội Ý, được ghép bởi chữ BẠCH là Trắng ở trên, bộ THUỶ là Nước ở dưới, hàm ý là Nước chảy trắng xóa. Nên TUYỀN có nghĩa là Con SUỐI, với lối nói chiết tự chơi chữ là: BẠCH THUỶ thành TUYỀN, tịch tịch ĐA. 白水成泉夕夕多。 Có nghĩa : Nước chảy trắng xóa thành con suối, mỗi đêm một nhiều ra. (Hai chữ TỊCH 夕 chồng lên nhau thành chữ ĐA 多 ).   醉 HÁN VIỆT Túy NGHĨA VIỆT Say rượu, mê, say đắm TỪ GHÉP cuồng tuý 狂醉 • ma tuý 魔醉 • mãi tuý 買醉 • tuý tâm 醉心 • tuý tửu 醉酒. TÚY醉 là chữ Hình Thanh là sự kết hợp của DẬU酉bên trái chỉ ý nghĩa và bên phải chữ TỐT卒 (đầy tớ, lính) chỉ âm. DẬU 酉 là chữ tượng hình mô tả một bình sứ đựng rượu nên TÚY醉 có nghĩa là Say là TÚY TỬU 醉酒: Say rượu, ta thường nghe câu : TỬU BẤT TÚY NHÂN, NHÂN TỰ TÚY, 酒不醉人人自醉, Sắc bất mê nhân nhân tự mê! 色不迷人人自迷! Có nghĩa : Rượu tự nó không làm say người, chỉ do người tự say mà thôi. Sắc đẹp tự nó cũng không làm cho con người mê mẫn, chỉ là con người tự mê mẫn với sắc đẹp mà thôi! Tăng Quảng Hiền Văn có câu: 渴時一滴如甘露, Khát thời nhất trích như CAM LỘ, 醉後添杯不如無。 Túy hậu thiêm bôi bất như vô ! Có nghĩa: Khi khát thì chỉ một giọt nước thôi, cũng qúy như là nước CAM LỘ của bà Quan Âm vậy, còn... Sau khi say rồi (Uống cho đã thèm rồi!), có mời thêm một ly nữa thì cũng như không mà thôi! Cũng trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu : Mạc ẩm mão thời tửu, hôn hôn túy đáo dậu, 莫飲卯時酒,昏昏醉到酉, Mạc MẠ dậu thời thê, nhất dạ thụ cô thê. 莫罵酉時妻,一夜受孤悽。 Có nghĩa : Đừng uống rượu vào giờ Mão (5-7 giờ sáng), vì sẽ bị gật gà gật gưỡng say cho đến giờ Dậu (5-7 giờ chiều). Như vậy thì suốt ngày sẽ không làm ăn gì được cả! Đừng MẮNG vợ vào giờ Dậu, vì mắng vợ vào giờ nầy thì vợ chồng giận nhau, nên suốt đêm sẽ chịu cô đơn lạnh lẽo, cũng "không làm ăn gì được cả!" TÚY là MA TÚY 麻醉 là Gây tê, gây mê. MA TÚY DƯỢC 麻醉藥 là Thuốc gây mê. MA TÚY còn là chất làm cho thần kinh của con người rơi vào trạng thái lơ lơ lửng lửng. 私 HÁN VIỆT tư NGHĨA VIỆT riêng TỪ GHÉP gia tư 家私 • tư gia 私家tư nhân 私人 • tư sản 私产 • tư thông 私通 • tư thù 私讐 • tư thục 私塾. Chữ TƯ私là một chữ Hình Thanh kiêm Hội Ý. Nếu phân tích chữ ở dạng hình thanh thì chữ TƯ 私bao gồm bộ HÒA禾 (cây lúa) bên trái là thành phần biểu nghĩa, bộ KHƯ 厶 (riêng tư) làm nhiệm vụ biểu âm. Cây lúa là một trong những tài sản chủ yếu của người nông dân xưa, nó đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân. Với vai trò là thành phần biểu nghĩa 禾 kết hợp với âm đọc của 厶 tạo thành chữ TƯ 私 với nghĩa là của riêng. Nếu hiểu theo dạng chữ hội ý thì chữ TƯ 私được tạo nên từ hình tượng cây lúa và một vòng dây (chữ厶có nguồn gốc là một cái vòng dây để đánh dấu sự sở hữu, xem lại chữ厶). Tính chất hội ý của hai bộ thủ này là cây lúa đã được đánh dấu bằng một sợi dây. Điều này cũng có nghĩa nó là vật, là tài sản có chủ sở hữu rồi. 子 HÁN VIỆT Tử NGHĨA VIỆT Con, con trai TỪ GHÉP bao tử 包子 • bào tử 孢子 ,phụ tử 父子, tôn tử 孙子. Chữ TỬ子là một chữ tượng hình, vẽ lại một cách đơn giản nhất đữa trẻ vừa lột lòng mẹ. Quan sát hình hài những đứa trẻ sơ sinh, ta thấy, chúng đều đầu to, mình nhỏ. Hai cánh tay giơ lên như đang cử động. Hai chân sở dĩ không tích ra là vì trẻ sơ sinh thường được quấn trong một mảnh vải để giữ ấm cho phần bụng và chân. Sự phát họa đó rất phù hợp với hình dạng ban đầu của trẻ sơ sinh. Với hình thể ban đầu như vậy, trẻ con không thể không có sự che chở nuôi nấng của cha mẹ mà trưởng thành được. Chúng phải có cái ăn để tồn tai, đồng thời phải được giáo dục để phát triển trí tuệ. Chính vì thế chữ TỬ子thêm bộ MIÊN宀 (mái nhà) thành chữ TỰ 字 (chữ). Cách đọc TỬ子và TỰ字gần giống nhau. Những bậc làm cha mẹ luôn lo lắng cho con cái mình được ăn, được học, ngược lại, đạo làm con phải nhớ công ơn dưỡng dục của cha mẹ. 死 HÁN VIỆT Tử NGHĨA VIỆT Chết TỪ GHÉP bức tử 逼死 • cảm tử 敢死 • chí tử 至死 • chiến tử 戰死 • cửu tử nhất sinh 九死. Chữ TỬ死là một chữ hội ý. Trong các dạng cổ văn, 死mô tả hình ảnh một người đàn ông quỳ gối trước một nấm mộ. Ngoài ra, chữ死ở khải thư là hội hợp của hai bộ 歹 và 匕. 歹 là biểu thị của hộp sọ có vết nứt (xem lại bài chữ歹), bộ 匕 ngoàinghĩa chỉ cái thìa trong cấu tạo chữ còn rất hay được dùng để chỉ người như trong cấu tạo chữ TỶ比 (so sánh). Như vậy, hội ý của hai bộ phận tạo chữ này là chỉ một người đã chết, nên死 có nghĩa là chết hay sự chết. TỬ là CHẾT, TỬ là trái với SINH, là Không còn sinh khí nữa, kể cả Sinh Thực Vật cũng thế! Ngoài nghĩa TỬ VONG 死亡 là Chết Chóc ra, ta còn có ... TỬ CẢNH 死景 : là Cảnh chết, cảnh giả không sinh động. TỬ GIÁC 死角 : là Góc chết, là Cái thế không có lối ra. TỬ còn có nghĩa là Cố Chấp, Kiên Trì, như ... TỬ THỦ 死守, TỬ CHIẾN 死戰, TỬ TÂM 死心 :Cố chấp giữ vững lòng mình, quyết không thay đổi! TỬ HÔI PHỤC NHIÊN 死灰復燃 : TỬ HÔI là Tro đã chết, lửa đã tắt nên Tử Hôi Phục Nhiên là "tro tàn lại cháy." Chuyện gì đó trong qúa khứ tưởng chừng như đã lãng quên mất rồi, bỗng có cơ duyên nào đó đưa đến làm cho nhớ lại, ta nói là "Khơi dậy đống tro tàn của dĩ vãng!" 四 HÁN VIỆT Tứ NGHĨA VIỆT Số 4 TỪ GHÉP tứ chi 四肢 • tứ cố vô thân 四顧無親• tứ dân 四民 • tứ phương 四方 • tứ quý 四季 • tứ sắc 四色 • tứ thư 四書. TỨ四là một chữ Hội Ý. Trong qua khứ, chữ được thể hiện bằng bốn nét ngang, nhưng sau đó đổi thành囗, với八 (có nghĩa là số tám, nhưng đó thực ra là hình ảnh của một cây gậy bị gãy đôi, có ý nghĩa là sự phân chia) bên trong. Như vậy chữ TỨ四sau này là một hình chữ nhật 囗 có bốn mặt với các cạnh khác nhau, đại diện cho bốn phương của la bàn. Ngoài ra, bốn cũng là bội số đầu tiên ngoài số hai và nó chia hết cho hai. 自 HÁN VIỆT Tự NGHĨA VIỆT Tự mình, riêng tư TỪ GHÉP • tự chế 自制 • tự chủ 自主 • tự do 自由 • tự giác 自覺 • tự giác 自觉 • tự hào 自豪• tự kỉ 自己. Chữ TỰ自là một chữ tượng hình. Ban đầu, là hình ảnh của mũi người, tuy nhiên, mọi người có thói quen chỉ vào mũi của họ khi họ tự giới thiệu, vì vậy, dần dần 自có nghĩa là " cái tôi ", sau đó có nghĩa là " sự độc lập ". Nghĩa gốc của chỉ cái mũi đã được thay thế bằng鼻. 即 HÁN VIỆT Tức NGHĨA VIỆT Tới gần, ngay, tức thì TỪ GHÉP lập tức 立即 • tức cảnh 即景 • tức khắc 即刻 • tức thì 即時 • tức thời 即時 • tức tốc 即速. Chữ TỨC即là một chữ hội ý điển hình, bao gồm biến thể của 皀 và 卩, 皀 mô tả một dụng cụ chứa đầy các loại ngũ cốc nấu chín, trong khi 卩 là hình ảnh của một người đàn ông quỳ gối (xem lại chữ tiết卩). Chữ即mô tả một người đàn ông quỳ gối hướng mặt vào thức ăn nghĩa gốc của即 là “vào bàn ăn” nghĩa mở rộng là tiếp cận, kề sát. 爿 HÁN VIỆT Bản, tường NGHĨA VIỆT Tấm ván (gỗ xẻ ra, nửa bên trái gọi là tường) TỪ GHÉP Bộ tường, một trong 214 bộ thủ, chủ yếu làm thành phần tạo chữ hán. Chữ TƯỜNG爿là một chữ Tượng Hình, mô tả một thân cây bị cắt làm đôi, đối xứng với PHIẾN片 (gỗ xẻ ra, nửa bên trái gọi là tường). Sau khi cắt, thân cây bị cắt có bề mặt phẳng, vì vậy ý nghĩa ban đầu của 爿 là một tấm ván gỗ, nhưng ý nghĩa đó đã được thay thế bằng BẢN版. Mặt khác, vì tấm ván có bề mặt phẳng, có thể cho phép ai đó nằm lên hoặc để đặt đò vật. Vì vậy,爿cũng có nghĩa là giường hoặc bàn, nhưng ý nghĩa như vậy cũng đã được thay thế bằng 牀. Ngày nay, 爿 được dùng chủ yếu với vai trò là bộ thủ tạo chữ hán. 相 HÁN VIỆT Tướng, tương NGHĨA VIỆT Tướng mạo TỪ GHÉP chân tướng 真相 • chiếu tướng 照相 • cốt tướng 骨相 • cung tướng 宮相. Chữ TƯỚNG相là một chữ hội ý kết cấu trái phải. Trong đó MỘC木là cây, MỤC目là mắt. Tính chất hội ý của hai bộ này là sự tái hiện sinh động tập quán sinh hoạt của người trung quốc xưa. Cách hiểu thứ nhất cho rằng, khi con người sinh sống dựa vào rừng cây, cây là lá chắn của họ. Người ta ẩn sau gốc cây to, dùng mắt quan sát, nếu có thức ăn và cảm giác an toàn thì tiếp tục tiến lên để giành lấy, nếu thấy kẻ thù thì ẩn mình để bảo toàn tính mạng. Lại có cách lý giải thứ hai cho rằng TƯỚNG相 là sự thể hiện ngắn gọn nhất của con người khi đã biết dựa vào rừng, khai thác tài nguyên phục vụ đời sống. MUC目và MỘC木 hợp lại với ý nghĩa con người với thị giác đo lường, đánh giá lựa chọn gỗ, khai thác gỗ để sử dụng cho mục đích của mình. Dù lý giải bằng cách nào chữ TƯỚNG 相cũng phản ánh rõ nét mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, và đặc biệt thể hiện khả năng nhận thức thế giới, biết tranh thủ môi trướng sống phục vụ đời sống của mình. Chữ TƯỚNG 相từ nghĩa là quan sát, phát triển thành nghĩa hình hài, tướng mạo, phụ tá. Từ đó có thêm âm đọc thứ hai là TƯƠNG biểu thị ý nghĩa quan hệ qua lại như trong các từ tương tác, tương phản, tương đồng,… 象 HÁN VIỆT Tượng, tương NGHĨA VIỆT Con voi, hình dáng, giống như TỪ GHÉP ấn tượng 印象 • cảnh tượng 景象 • đối tượng 对象 • hình tượng 形象 • tượng hình 象形 • • xà thôn tượng 蛇吞象 TƯỢNG là chữ Tượng Hình, cổ văn miêu tả rõ ràng là hình con Voi với một cái vòi dài và cái mình thì như "mình heo" nhưng to lớn hơn nhiều, theo diễn tiến của chữ viết nên phần mình và đuôi cũng giống như bộ THỈ 豕 vậy. Vì thế mà chữ TƯỢNG 象 được xếp vào bộ THỈ là như vậy. TƯỢNG 象 là Voi là Động vật trên cạn to lớn nhất hiện nay của Địa cầu. Hai cái răng nanh hai bên mọc dài ra, gọi là TƯỢNG NHA 象牙, ta gọi là NGÀ VOI. Ngà Voi cứng, đẹp qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân trở thành những mỹ nghệ phẩm qúy gía, Ta có thành ngữ: TƯỢNG NHA BẢO THÁP 象牙寶塔: là Tháp qúy làm bằng ngà voi, dùng để chỉ những văn nhân, thi nhân, nghệ sĩ, tài tử lập dị chìm đắm riêng trong thế giới nghệ thuật của mình mà không màng đến cuộc sống thực tế của nhân sinh. Ta gọi những văn nhân nghệ sĩ đó là "Những người chỉ biết sống riêng trong THÁP NGÀ của mình!" TƯỢNG 象 còn chỉ trạng thái, hình dáng, như CẢNH TƯỢNG 景象, KHÍ TƯỢNG 氣象, HIỆN TƯỢNG 現象, HÌNH TƯỢNG 形象... Ta có thành ngữ cho ngày đầu của một năm, của mùa xuân mới bắt đầu là: VẠN TƯỢNG CANH TÂN 萬象更新: là muôn ngàn hiện tượng đều đổi mới. Một số thành ngữ tiêu biểu khác liên quan đến chữ TƯỢNG 象: HẠT TỬ MẠC TƯỢNG 瞎子摸象: là Thằng đui sờ voi, còn nói là MANH NHÂN MẠC TƯỢNG 盲人摸象 là Người mù sờ voi, dùng để chỉ chuyện gì đó chỉ mò mẫm một khía cạnh hoặc chỉ hiểu lỏm bỏm chưa được rõ ràng. XÀ DỤC THÔN TƯỢNG 蛇欲吞象 : là Rắn mà muốn nuốt voi, dùng để chỉ lòng tham qúa đáng của con người. Đây là vế nói tắt của câu: Nhân tâm bất túc Xà Thôn Tượng 人心不足蛇吞象 là Lòng người không bao giờ biết đủ, rắn mà lại muốn nuốt voi! 酒 HÁN VIỆT Tửu, giậu, rượu NGHĨA VIỆT Rượu TỪ GHÉP tửu lượng 酒量 • tửu quán 酒館 • tửu quỷ 酒鬼 • tửu sắc 酒色. Chữ TỬU酒là chữ hội ý kết cấu trái phải, Bao gồm bộ THỦY氵 (nước) bên trái và Chữ DẬU酉bên phải hợp thành. Thực ra chỉ riêng chữ DẬU酉đã mang nghĩa là rượu (chữ dậu sau này được dùng là một trong thập nhị chi), khi kết hợp với bộ THỦY 氵 càng làm rõ tính chất vật lý của rượu là một loại chất lỏng. Chữ DẬU 酉 vốn là chữ tượng hình vẽ lại bình rượu bên trong chữa lưng chừng rượu. Với tư cách là bộ thủ biểu nghĩa tạo chữ hán, bộ DẬU có nghĩa là rượu hoặc những gì liên quan đến rượu. Nó xuất hiện trong chữ TỈNH醒 (tỉnh táo), đồng thời cũng xuất hiện trong chữ TÚY 醉 (say). Điều đó đã phản ánh tính chất hai mặt của rượu. Rượu có thể làm cho người ta say, cũng có thể làm người ta tỉnh. Chính vì vậy rượu trong đời sống xã hội cũng có tính hai mặt. Đối với tín ngưỡng, tế lễ , thờ cúng thì phi tửu bất thành lễ (tếlễ nhất thiết phải có rượu). Bạn bè giao lưu lấy rượu làm chất xúc tác để thổ lộ nỗi niềm tri âm. Tửu phùng tri kỉ thiên bôi thiểu (bạn bè tri âm lâu ngày gặp nhau, uống ngàn chén e còn chưa đủ). Rượu xuất hiện trong những buổi tiệc chia li, khắc sâu niềm thương nhớ, thể hiện lòng nhiệt thành của người ở lại với người ra đi. Rượu là người bạn giải sầu khi thất bại, mặc dù càng uống càng tỉnh càng thấm thía, lại càng buồn thêm. Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu. Rượu cũng làm cho niềm vui nhân đôi mỗi khi thành công, được bạn bè, người thân nâng cốc chúc mừng. Ngoài ra còn hàng loạt chữ khác như chữ TÙ 酋 (bình đựng rượu lâu năm, sau chuyển thành nghĩa người đứng đầu bộ lạc – Tù Trưởng). Chữ THÙ 酬 (nâng chén đáp lại người), TẠC 酢 (nâng chén mời người)… đều liên quan đến rượu. Điều đó chứng tỏ ở Trung Quốc đã có một nên văn hóa rượu từ lâu đời. 文 HÁN VIỆT Văn, vấn NGHĨA VIỆT Chữ viết, văn vẻ, dấu TỪ GHÉP án văn 案文 • bất thành văn 不成文 • chánh văn 正文 • cổ văn 古文 • công văn 公文 • diễn văn 演文. Chữ VĂN文là một chữ tượng hình, mô tả một người đàn ông có hình xăm trên cơ thể (cũng có thể hiểu là họa tiết, hoa văn được thêu trên trang phục), ý nghĩa ban đầu của nó là hoa văn và thiết kế, nhưng ý nghĩa như vậy đã được thay thế bằng紋. Mặt khác, vì hán tự (ký tự Trung Quốc) được phát triển từ hình ảnh, nên文được sử dụng để thể hiện biểu tượng chữ viết trong giao tiếp của con người. VĂN bây giờ có nghĩa là: Chữ nghĩa được ghép lại thành nhóm thành câu có nghĩa riêng biệt, có tính nghệ thuật để diễn tả và ghi nhận sự việc. Các từ thường gặp của VĂN là : Văn Học 文學, Văn Nghệ 文藝, Văn Chương 文章, Văn Thể 文體, Văn Phong 文風 .... Chỉ thành qủa lao động và tiến hóa của con người, thì có các từ: Văn Hóa 文化, Văn Hiến 文献, Văn Vật 文物 .... Chỉ những hiện tượng thiên nhiên thì có : Thiên Văn 天文, Thuỷ Văn 水文, Địa Văn 地文 .... Chỉ thái độ, tác phong của con người thì có : Văn Nhã 文雅, Văn Tịnh 文静, Văn Hòa 文和 .... Chỉ chính trị, học thuật thì có : Văn Trị 文治, Văn Chức 文職, Văn Khoa 文科, Văn Tuyển 文選 .... Các thành ngữ thì có : VĂN DĨ TẢI ĐẠO 文以載道 : Có nghĩa : Văn là dùng để chuyển tải đạo lý, đạo nghĩa cua Thánh Hiền, Tôn Giáo ... Ý là : Văn phải có tác dụng tích cực để xây dựng cuộc sống, chớ không phải làm văn một cách vu vơ, không có mục đích. VĂN VÕ SONG TOÀN 文武雙全 : Cả hai thứ VĂN VÕ đều giỏi cả ! VĂN DỐT VŨ DÁT 文椊武笪 : là Văn Võ chẳng ra gì cả! DỐT DÁT 椊笪 là chữ NÔM được phát âm theo giọng miền Bắc, người Miền Nam gọi là DỐT NÁT 椊捏. Người Hoa không biết 2 chữ nầy. VĂN ÔN VÕ LUYỆN 文溫武練 : Văn thì phải luôn ôn tập, Võ thì phải luôn rèn luyện. Nếu không sẽ dễ bị quên lãng, lụt nghề ! VĂN PHÒNG TỨ BỬU 文房四寶 : là 4 món đồ quý gía trong văn phòng ngày xưa, đó là : Giấy, Mực, Bút và Nghiên. Còn Văn Phòng Tứ Bảo Hiện nay là : Computer, Máy in, Máy Fax và Giấy để in. 云 HÁN VIỆT Vân NGHĨA VIỆT Mây, vân vân, còn nhiều TỪ GHÉP tằng vân 层云 • tinh vân 星云 • vân nam 云南 • vân vân 云云. Chữ VÂN云là một chữ tượng hình, mô tả một đám mây. Ngoài ra, khi ai đó nói, hơi nước được thoát ra khỏi miệng, tạo ra 'đám mây' nhân tạo (ở phía bắc trung quốc trời rất lạnh, khi người ta nói chuyện, có thể nhìn thấy rõ những đám hơi nước thoát ra), vì vậy cũng có nghĩa là nói 云. Mặt khác các đám mây này thường tuôn ra từng đợt phân biệt nên người ta hay sử dụng hai từ vân vân với ý nghĩa là lời kể các sự còn dài, chỉ kể một hai cái làm mẫu. Tuy nhiên, sau khi xuất hiện 雲,云 hiếm khi được sử dụng để chỉ đám mây. Trong tiếng Trung giản thể, không có雲,nên云được sử dụng để thể hiện cả ba nghĩa trên. 問 HÁN VIỆT Vấn NGHĨA VIỆT Hỏi, tra xét , thăm hỏi,… TỪ GHÉP chất vấn 質問 • cố vấn 顧問 • nghi vấn 疑問. Chữ vấn問nghĩa là hỏi. Được kết hợp bởi bộ Môn門 và bộ Khẩu口 nghĩa là miệng. Hai bộ này cùng kết hợp lại thể hiện ý nghĩa của chữ vấn問là ghé sát miệng vào cửa để hỏi. Hình ảnh này lúc xưa hay bắt gặp, dễ thấy nhất là khi muốn vào thành hay nhà quan thì lính canh sẽ đối thoại với người vào bằng một ô cửa nhở, có lẽ chữ vấn cũng hình thành từ việc người ta liên hệ với hình ảnh này. 勿 HÁN VIỆT Vật NGHĨA VIỆT Cấm, dừng lại, đừng , chớ TỪ GHÉP cùng khấu vật truy 窮寇勿追 • tang vật 赃勿 • vật dược 勿藥. Chữ VẬT勿là một chữ Tượng Hình, mô tả một con dao đang cắt ngang thứ gì đó, nghĩa gốc của nó là cắt, nhưng ý nghĩa đó đã được thay thế bằng VẪN刎. Mặt khác, một vật bị cắt biểu trưng cho sự cự tuyệt nên勿có nghĩa là từ chối hay cấm. Ngoài vai trò chữ đơn tạo từ ghép勿còn xuất hiên thường xuyên với vai trò bộ phận tạo chữ. 物 HÁN VIỆT Vật NGHĨA VIỆT Sinh vật, vật,.. TỪ GHÉP bảo vật 寶物 • cảnh vật 景物 • cổ vật 古物 • cống vật 貢物 • dị vật 異物 • duy vật 唯物. Chữ VẬT物là một chữ Hình Thanh kết cấu trái phải. Trong đó, bộ NGƯU牜đứng bên trái là thành phần biểu thị ý nghĩa, chữ VẬT勿bên phải có nhiệm vụ biểu thị âm đọc. NGƯU 牜 là con trâu, sở dĩ bộ NGƯU thường xuất hiện làm thành phần cấu tạo chữ là vì đối với người trung quốc xưa, con trâu là đầu cơ nghiệp. Trâu là con vật hiền lành, trâu cung cấp sức kéo, cung cấp thịt và là vật để cúng tế. Có thể nói, con trâu rất gần gũi với con người, các chữ hán có xuất hiện bộ NGƯU thường có nghĩa liên quan đến thú vât , các hoạt động nông nghiêp, cúng bái. Trong cấu tạo chữ VẬT, chữ NGƯU牜với tác dụng biểu nghĩa kết hợp với âm của VẬT 勿 tạo thành chữ với nghĩa ban đầu là chỉ các loài sinh vật. Sau này chữ VẬT 物 phát triển nghĩa chỉ chung cho các sinh vật và đồ vật. 囗 HÁN VIỆT vi NGHĨA VIỆT Vây quanh TỪ GHÉP Bộ thủ tạo chữ. Chữ VI囗là một chữ Tượng Hình, mô tả một hàng rào được sử dụng để ngăn chặn gia súc trốn thoát. 囗có nghĩa gốc là bao vây, bao quanh. Ngày nay người ta sử dụng囗chủ yếu với vai trò bộ thủ tạo chữ Hán. 未 HÁN VIỆT Vị NGHĨA VIỆT Chưa tới TỪ GHÉP vị lai 未来 • vị ngộ 未遇, vị thành niên 未成年. Chữ VỊ未là một chữ dạng chỉ sự. Trong các dạng chữ cổ chữ VỊ未được viết giống như chữ MỘ木và có thêm một nét ngang phía trên, nét ngang này có đặc điểm ngắn hơn nét ngang còn lại. Trong chữ MỘC 木nét ngang biểu thị là bộ phận nhánh của cây, nét ngang ngắn hơn ở chữ VỊ biểu thị ý nghĩa là nhánh mọc sau, chưa phát triển bằng nhánh trước. Và vì là mọc sau nên thường là xuất hiện ở phía trên. Lấy đặc điểm này ở các loài cây, người xưa đã tạo ra chữ VỊ 未với ý nghĩa gốc là chưa đến như trong từ vị thành niên (người chưa đến tuổi trưởng thành). 位 HÁN VIỆT Vị NGHĨA VIỆT Vị trí, chức tước TỪ GHÉP an vị 安位 • chức vị 職位 • cương vị 冈位 • cương vị 崗位• địa vị 地位 • định vị 定位. Chữ VỊ位về mặt cấu tạo là một chữ hội ý kết cấu trái phải, được hợp bởi bộ NHÂN亻(người) bên trái và bộ LẬP立 (đứng) bên phải. Tính chất hội ý của hai bộ thủ này khi kết hợp lại với nhau là chỉ một người đang trong trạng thái đứng yên. Trong cấu tạo chữ VỊ 位 thì chữ LẬP 立đóng vai trò biểu thị tư thế đứng của NHÂN 亻 (người), có thể nói người này đang đứng yên, không di chuyển và vị trí của người đó có thể xác định được. Vị trí của một người hay một vật chỉ được xác định chính xác khi người hoặc sự vật đó đứng yên. Chữ VỊ 位 từ nghĩa chỉ vị trí của sự vật phát triển thêm các nghĩa chỉ vị trí của một người trong một bộ máy nào đó như chức vị , tước vị. Ngoài ra cũng được dùng với nghĩa tôn kính như chư vị. 味 HÁN VIỆT Vị NGHĨA VIỆT Vị giác, mùi vị TỪ GHÉP gia vị 加味 • hương vị 香味 • khẩu vị 口味 • lục vị 六味 • mĩ vị 美味. Chữ VỊ味về mặt cấu tạo là một chữ hình Thanh, kết cấu trái phải. Trong đó, bộ KHẨU口 (miệng) bên trái có tác dụng biểu nghĩa cho chư, chữ VỊ未(chưa) có nhiệm vụ biểu thị âm đọc (xem lại bài phân tích chữ “vị”). KHẨU 口 là miệng, ngoài việc là cơ quan đảm nhận vai trò giao tiếp nói năng, miệng còn là bộ phận trong hệ tiêu hóa, có tác dụng phân biệt, cảm nhận hương vị và nghiền nhỏ thức ăn đưa vào hệ tiêu hóa trong. Bộ KHẨU 口 chủ thể về các nghĩa liên quan đến ngôn ngữ và ăn uống kết hợp với âm đọc của chữ 未 tạo thành 味với nghĩa là vị giác, mùi vị. 炎 HÁN VIỆT Viêm, diễm, đàm NGHĨA VIỆT Ánh lửa, đốt, nóng TỪ GHÉP phế viêm 肺炎 • viêm thử 炎暑 • viêm tinh 炎星 • viêm viêm 炎炎. Chữ VIÊM炎 là một chữ hội ý, hợp thành bởi hai ngọn lửa (火), Nghĩa ban đầu của炎là đám cháy lớn sau này chỉ các nguồn nhiệt mạnh và dữ dội. Vì người Trung Quốc cổ đại nghĩ rằng bệnh của con người là do ngọn lửa độc ác bên trong cơ thể con người gây ra, nên炎cũng có nghĩa là bệnh viêm, chỉ tình trạng do mắc bệnh mà phát nóng, sưng, đau. Như: “phát viêm” 發炎 bệnh phát nóng, “phế viêm” 肺炎 bệnh sưng phổi. 援 HÁN VIỆT Viên, viện NGHĨA VIỆT Giúp, cứu trợ DẠNG KHÁC 爰 TỪ GHÉP chi viện 支援 • cứu viện 救援 • tăng viện 增援 • ứng viện 應援 • viện binh 援兵viện trợ 援助. Chữ VIỆN援có nguồn gốc là chữ VIÊN爰, trong giáp cốt爰miêu tả một bàn tay cầm một cái gậy đưa vào tay một người khác ở dưới, biểu thị ý nghĩa “cứu viện”. Sau khi chữ爰được sử dụng làm hư từ, người ta đã sang tạo ra chữ 援 để biểu thị nghĩa gốc ban đầu. 曰 HÁN VIỆT Viết NGHĨA VIỆT Nói rằng, nói, gọi là TỪ GHÉP Bộ thủ tạo chữ. Chữ VIẾT曰là một dạng chữ chỉ sựu, miêu tả một cái miệng (口) với một nét trên ngang ở trên nó, biểu thị lời nói đang được nói ra từ miệng. Tuy nhiên, ngày nay曰hầu như không được sử dụng để thể hiện ý nghĩa của việc nói, chúng ta chỉ có thể thấy 曰 trong văn bản thời xa xưa như孔子曰 Khổng Tử nói... Vai trò chủ yếu của chữ viết là bộ thủ tạo chữ. 永 HÁN VIỆT Vĩnh, vịnh NGHĨA VIỆT Lâu dài, mãi mãi TỪ GHÉP vĩnh biệt 永別 • vĩnh cửu 永久• vĩnh hằng 永恒 • vĩnh viễn 永遠 Chữ VĨNH永là một chữ chỉ sự, trong cổ văn永miêu tả một nhánh sông nhỏ đucợ tách ra từ một dòng sông lớn. Nghĩa gốc ban đầu của永 là “nhánh sông” nhưng ý nghĩa như vậy sau đó đã được thay thế bởi chữ PHÁI派. Mặt khác những nhánh sông nhỏ này sẽ được tách thành các nhánh nhỏ hơn cho nên người ta mượn hình ảnh này để thể hiện ý nghĩa là lâu dài, mãi mãi. 網 HÁN VIỆT Võng NGHĨA VIỆT Lưới DẠNG KHÁC 网 TỪ GHÉP điện não võng 電腦網 • la võng 羅網 • võng cầu 網球. Chữ VÕNG phổn thể網 (lưới) là một chữ hội ý. Trong giáp cốt văn, chữ VÕNG được viết giống như một chiếc lưới được đan bằng các sợi dây trên một cái giá bằng gỗ. Bộ MỊCH糹biểu thị ý nghĩa lưới được đan bằng các sơi tơ. Lưới là công cụ chủ yếu nhất để săn bắt cá của con người trong xã hội nguyên thủy. Trong chữ VÕNG网 giản thể,chữ bị bỏ mất đi bộ MỊCH糹, tuy vẫn thể hiện rõ hình ảnh một chiếc lưới, nhưng lại không nói được chất liệu tự nhiên tạo ra chúng. 武 HÁN VIỆT Võ, vũ NGHĨA VIỆT Võ thuật, quân sự, họ vũ, họ võ,… TỪ GHÉP thượng võ 尚武 • võ thuật 武術 • võ trang 武装 • võ trang 武裝. Tinh thần cao thượng, tôn vinh cái đẹp, bảo vệ cái thiện, lấy uy sức mà phục người, gọi là VÕ武. Về mặt cấu tạo, VÕ 武 là một chữ hội ý có kết cấu trái phải, chữ này gồm chữ CHỈ止là dừng lại và chữ QUA 戈 là ngọn giáo. Tính chất biểu ý của chữ 武 là dùng võ thuật để ngăn cấm điều bạo ngược, chỉnh đốn sự rối loạn, thôi việc can qua.VÕ 武 cùng với VĂN 文 là hai lĩnh vực mà các đấng mày râu thời xưa luôn phải chuyên tâm trau dồi,người ta vẫn hay nói “văn võ song toàn文武雙全”chỉ những người tài giỏi trên nhiều lĩnh vực.Ngoài nghĩa chỉ môn võ thuật ra, 武 còn có nghĩa liên quan đến quân sự , thường được dùng với âm VŨ như trong các từ vũ trang, vũ khí. 妄 HÁN VIỆT vong , vô , vọng NGHĨA VIỆT viển vông, xa vời, ngông, lung tung, ẩu, sằng bậy,… TỪ GHÉP cuồng vọng 狂妄• vọng tưởng 妄想. Chữ Vọng妄 cũng có nhiều điểm tương đồng giống chữ Manh 氓, chữ Vọng妄cũng là một chữ hội ý gồm bộ亡nghĩa là mất và bộ Nữ女 (đàn bà, con gái), tính chất biểu ý của nó là chỉ người không có quê hương bản quán, không chịu sự quản chế ràng buộc của gia đình, của xã hội hành động bừa bãi theo bản năng. Từ đó Vọng妄 phát triển thành nghĩa tùy tiện,bừa bãi, viển vông, hay cuồng loạn. 雨 HÁN VIỆT Vũ NGHĨA VIỆT mưa TỪ GHÉP âu phong mĩ vũ 歐風美雨 • bạo vũ 暴雨. Chữ VŨ雨 (mưa) là một chữ tượng hình. Dạng ban đầu gồm nét ngang trên cùng là biểu trưng của mây trên trời. Bên dưới là hình ảnh những giọt nước mưa, chia làm ba hàng, khoảng cách đều đặn. Với tính ước lệ, ba là số nhiều, ba hàng nước mưa rơi xuống từ trên tầng không là biểu tượng của vô số những giọt nước. Đến dạng chữ triện văn, khoảng không gian giữa trời và mây đã được thể hiện riêng biệt. Dưới bầu trời là mây, dưới mây là những giọt nước nối nhau thành dòng rơi xuống. Theo tác giả Đường Hán, trong số hơn một vạn hiện vật bằng mai rùa và xương thú có ghi nhũng lời hào (lời của quẻ bói trong chu dịch) thì có đến hàng ngàn lời nói liên quan đến mưa. Điều đó chứng tỏ từ thời nhà Thương, người ta đã rất chú ý đến việc quan sát thiên văn. Các hiện tượng mưa gió, sấm chớp được quan tâm khám phá. Việc nghiên cứu về mưa gắn liền với nông nghiệp canh tác và đời sống. Ngoài vai trò là chữ đơn ra chữ VŨ còn là bộ thủ đóng vai trò tạo chữ, đa số là dùng để biểu nghĩa. Những chữ hán có bộ VŨ cấu thành thường liên quan đến các hiện tượng tự nhiên như mây, mưa, sương,…như các chữ SƯƠNG霜VÂN雲. Ta có các từ thường gặp như VŨ THỦY 雨水 là Nước mưa; VŨ QÚI 雨季 là Mùa mưa; VŨ TẢN 雨傘 là Dù che mưa; VŨ Y 雨衣 là Áo đi mưa, khác với từ VŨ Y 舞衣 là Áo mặc để múa hát cho vua quan xem. CẬP THỜI VŨ 及時雨: là Mưa Kịp Thời, Mưa đúng lúc người dân đang cần mưa cho mùa màng trồng trọt. Đây cũng là ngoại hiệu của Tống Giang, một đầu lãnh của 108 anh hùng Lương Sơn Bạc. Khi còn làm Áp Ti trong huyện, Tống Giang luôn là người cứu khổn phò nguy, đáp ứng kịp thời những anh hùng hảo hán, giang hồ hiệp khách gặp cơn nguy nan hoặc lở bước sa chân cần được giúp đở, cho nên mọi người mới tặng cho ngoại hiệu là Cập Thời Vũ. PHONG PHONG VŨ VŨ 風風雨雨 : là Gió gió mưa mưa, dùng chỉ chuyện đời dồn dập, hết chuyện nọ lại xọ đến chuyện kia, như 2 câu thơ mở đầu bài "Sự Đời" của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu: Gió gió mưa mưa đã chán phèo, Sự đời nghĩ đến lại buồn teo! LỆ HẠ NHƯ VŨ 淚下如雨 : là Nước mắt rơi xuống như mưa, dùng để chỉ chuyện gì đó rất thương tâm, rất thảm thiết, rất đau lòng; làm ta nhớ đến cô Kiều khi nghe Vương Quan kể về Đạm Tiên: Lòng đâu sẵn mối thương tâm, Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa! Người việt nam ta hay nói là: "Khóc như mưa bấc!" VŨ VÔ KIỀM TỎA 雨無鈐鎖: là Mưa thì không cần phải cầm cọng gì cả (cũng có thể giữ được khách). Đây là câu nói thuần túy của người Việt Nam (Người Hoa không biết câu nói nầy), theo xuất xứ lý thú trong Giai Thoại Văn Chương Việt Nam như sau: Nguyễn Giản Thanh, người làng Ông Mặc (làng Me), huyện Ðông Ngàn (nay là Từ Sơn), Bắc Ninh. Ông sống vào khoảng đầu thế kỷ XVI, sinh năm 1482 (cuối thế kỷ 15), mất năm nào không rõ, lúc nhỏ rất thông minh, mới 16 tuổi đã làu thông kinh sử, sau thi đỗ Trạng Nguyên, nên tục gọi là Trạng Me. Một hôm đang đi học ở trường, thầy học là Thượng thư Ðàm Thận Huy vừa giảng bài xong thì trời đổ mưa, học trò đều phải ngồi lại. Thầy Huy thấy vậy, bèn ra một câu đối để học trò cùng đối cho vui, vế ra như thế nầy: Vũ vô kiềm toả năng lưu khách. 雨無鈐鎖能留客, Có nghĩa : Mưa không cần phải kèm kẹp khoá giữ mà vẫn lưu được khách. Nguyễn Giản Thanh đối ngay rằng: Sắc bất ba đào dị nịch nhân. 色不波濤易溺人. Có nghĩa : Sắc đẹp chẳng có sóng gió gì cả mà dễ làm cho con người ta chìm đắm. Thầy Huy xem xong khen rằng: “Câu đối này rất hay, có cái khẩu khí giọng điệu của một Trạng Nguyên, nhưng sau này tất mê đắm vào vòng sắc dục mà làm hại đến sự nghiệp!” Tiếp đó, một người học trò tên là Nguyễn Chiêu Huấn lại đối là: Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân. 月有彎弓不射人. Có nghĩa : Mặt trăng có vòng cong giống như cây cung mà chẳng bắn ai cả. Thầy Huy phê: “Câu này kém sắc sảo, không hay bằng câu kia, nhưng tỏ ra khí chất hiền hoà, có hậu. Sau này sẽ làm nên, cuộc sống sẽ an khang thịnh vượng!” Sau đó, lại có một người học trò khác đối rằng: Phân bất uy quyền khả sử nhân. 糞不威權可使人. Có nghĩa : Phân (cứt) chẳng có uy quyền gì cả, mà có thể sai khiến con người (mắc " ỉ " là phải "đi cầu" ngay, không ai có thể cưởng lại được cả!) Thầy Huy cười mà phê rằng: “Sau này sẽ giàu sang nhưng là hạng thô bỉ hũ lậu!” Quả nhiên, mấy năm sau, Nguyễn Giản Thanh thi đỗ Thủ khoa, rồi đỗ Trạng Nguyên đời Vua Lê Uy Mục (1508), làm quan tới chức Lễ Bộ Thượng Thư, nhưng vì say đắm một cô gái đẹp ở kinh thành mà đến ô danh bại tiết. Còn Chiêu Huấn chỉ đỗ Bảng Nhãn nhưng làm quan và sống yên ổn trong vinh hoa phú qúy, không xảy ra chuyện gì cả. Riêng người học trò kia sau cũng đỗ đạt và cũng vào bậc hào phú trong vùng, nhưng ai cũng chê là hạng thô lỗ, bỉ lậu. 王 HÁN VIỆT Vương, vượng NGHĨA VIỆT Vua, to lớn,… TỪ GHÉP an dương vương 安陽王 • bá vương 霸王. Truyện xưa kể rằng, Một hôm vua Càn Long chán cảnh cung cấm đi ra ngoài thành dạo chơi, cũng đi lang thang thế nào mà gặp đám người đang túm tụm bàn bạc hỏi ra mới biết họ đang xem Chiết Tự. Càn Long ta vốn không thích bói toán, thấy trong kinh thành lại có người đang ngồi xem Chiết Tự bụng bảo dạ phen này phải cho lão thầy bói này 1 trận để rồi ra cáo thị dẹp những trò mê tín dị đoan. Nghĩ rồi Càn Long ta rẽ đám đông bước đến trước mặt thầy Chiết Tự. Không nói gì Ngài chỉ cầm que vạch xuống đất 1 vạch rồi bảo thầy Chiết tự xem. Thầy Chiết tự vừa nhìn xuống đất đã mình mẩy run lập cập người toát mồ hôi quỳ ngay xuống đất miệng hô vạn tuế. Càn Long giật mình nâng thầy Chiết tự lên hỏi sao lại nói thế. Thầy Chiết tự lúc đó mới đưa vạt áo lên nói đường mà ngài vạch xuống đất kia chẳng phải là chữ NHẤT đó sao? Càn Long còn đang gật gù thì thầy Chiết tự đã tiếp luôn chữ NHẤT là VƯƠNG bỏ THỔ (一为王除土)。 Ngài đích thị là đương kim hoàng thượng đi vi hành. Càn Long không nói được câu gì thêm mà bỏ đi luôn. . . . Câu chuyện trên chỉ đơn thuần giúp chúng ta dễ nhớ mặt chữ còn ý nghĩa thực sự ẩn sau chữ Vương là gì ? Chữ VƯƠNG 王là một chữ hội ý, nét sổ ở giũa kết nối ba nét ngang, thứ tự từ trên xuống dưới mỗi nét ngang là biểu trưng lần lượt là thiên, nhân và địa, cũng có nghĩa là kết nối tam tài, gồm thiên tài, địa tài, và nhân tài. Nói cách khác đó là hình ảnh biểu trưng về một con người, trên thông thiên văn , dưới tường địa lý, giữa hiểu việc đời. 車 HÁN VIỆT Xa NGHĨA VIỆT xe DẠNG KHÁC 车 TỪ GHÉP chiến xa 戰車 • chuy xa 輜車 • công cộng khí xa 公共氣車 • cước đạp xa 腳踏車 • điện xa 電車 • đình xa 停車 • hoả xa 火車. XA車 là chữ Tượng Hình, trong Giáp Cốt Văn車 là hình cái xe với 2 cái bánh xe ở phía sau, đến Kim Văn thì thùng xe được quay ngang, phía trước có hình 2 con ngựa kéo ở 2 bên, cho đến Kim Văn Đại Triện thì được đơn giản hóa với hình tượng từ trên nhìn xuống: Giữa là thùng xe, 2 nét ngang trên dưới là 2 bánh xe, bỏ đi hình 2 con ngựa kéo cho đơn giản. XA là phương tiện giao thông có bánh xe tròn để di chuyển trên bộ. Xưa do ngựa kéo nên gọi là XE NGỰA : Mà XA 馬車, sau phát minh ra máy chạy bằng hơi nước, nên gọi là XE HƠI: KHÍ XA 汽車. Xe chạy mà ống khói phun ra khói lửa thì gọi là XE LỬA: HỎA XA 火車. Xe chạy bằng điện thì gọi là XE ĐIỆN : ĐIỆN XA 電車. Chiếc xe đơn giản đạp bằng 2 chân thì gọi là ĐƠN XA 單車 là Xe Đạp. Gắn máy vào thì gọi là XE GẮN MÁY: CƠ ĐỘNG XA 機動車, XE dùng để chở khách thì gọi là KHÁCH XA 客車, xe dùng để chở hàng hóa thì gọi là HÓA XA 貨車, xe dùng để chiến đấu thì gọi là CHIẾN XA 戰車 ... Thành ngữ về XA thì có : XA LUÂN CHIẾN 車輪戰: là Một chiến thuật. Phía tấn công dùng hết đợt nầy đến đợt khác tấn công tới tấp như bánh xe đang xoay chuyển không ngừng, làm cho phía phòng thủ trở tay không kịp, mỏi mệt mà chịu thua, đầu hàng. XA Mà PHÍ 車馬費 : là Tiền xe tiền ngựa, ý chỉ Phí Giao Thông, chi phí về vận chuyển. XA THỦY Mà LONG 車水馬龍 : là viết gọn lại của câu "Xa như lưu thủy, mã tự du long 車如流水,馬如游龍 ", có nghĩa: Xe qua lại như nước chảy, ngựa tới lui như rồng quẩy nước. Cụ Nguyễn Du đã mượn ý trên để diễn thành: "Ngựa xe như nước áo quần như nen". 社 HÁN VIỆT Xã NGHĨA VIỆT Xã hội, thần đất TỪ GHÉP công xã 公社 • xã giao 社交 • xã hội 社会 • xã hội • xã tắc 社稷 • xã tế 社祭. Chữ XÃ社là một chữ hội ý gồm chữ THỊ 示và THỔ土 tạo thành. THỔ土 ở đây được hiểu là khoảnh đất nơi người ta hành lễ. Khoảnh đất đó được đôn cao lên trên một mặt bằng. Tín ngưỡng dân gian coi đó là nơi hiển linh của thần đất. Hội hợp hại bộ 示 và 土 hợp lại thể hiện ý nghĩa cầu nguyện, tạ ơn thần đất giáng phúc cho mùa màng tươi tốt, có không gian sinh sống kế nghiệp tổ tiên. Như vậy,社 có nghĩa ban đầu chỉ thần đất hay đền thờ thần đất, sau này 社 cũng được dùng để chỉ đơn vị hành chính cơ sở. Ngày xưa cứ mỗi khu 25 nhà là một xã, để cùng mưu tính các việc công ích gọi là xã hội 社會. Kết hợp nhiều người là một đoàn thể mà cùng có quan hệ chung như nhau cũng gọi là xã hội. 齒 HÁN VIỆT Xỉ NGHĨA VIỆT răng TỪ GHÉP nhũ xỉ 乳齒 răng sữa, vĩnh cửu xỉ 永乆齒, cứ xỉ 鋸齒. Chữ XỈ齒 (răng) là một trong 214 bộ thủ cấu thành chữ hán. Quá trình phát triển của chữ XỈ có nhiều thay đổi về hình thể. Nếu căn cứ vào giáp cốt có thể nói chữ XỈ齒 là một chữ tượng hình vẽ lại môt cái miệng đang há rộng để lộ những chiếc răng. Về cấu tạo chữ XỈ 齒 ngày nay chữ Hình thanh, chữ được tạo bởi 2 bộ KHẢM 凵 (hàm), và chữ CHỈ 止 (dừng, cố định) cùng đó là bốn chấm nhỏ trông giống như chữ nhân. Hai chữ KHẢM凵đóng vai trò chỉ hai hàm đang mở ra, những chấm nhỏ biểu trưng cho những chiếc răng, chữ CHỈ止 có tác dụng biểu thị âm đọc. 赤 HÁN VIỆT Xích NGHĨA VIỆT Màu đỏ TỪ GHÉP xích bích 赤壁 • xích đạo 赤道 Chữ XÍCH赤là một chữ hội ý, bao gồm chữ ĐẠI 大(to lớn) và bộ HỎA火(ngọn lửa) hợp lại mà thành. Ban đầu con người dùng màu sắc của sự vật để biểu thị màu. Như trong cấu tạo chữ XÍCH, chữ ĐẠI 大 và chữ HỎA火hợp lại với tính chất hội ý là biểu thị một ngọn lửa rất lớn đang cháy, ngọn lửa cháy thì có màu đỏ do vậy chữ XÍCH 赤 mang ý nghĩa chỉ màu đỏ. Ta hay nghe từ XÍCH TỬ 赤子 là Con Đỏ, là con nít mới sanh còn đỏ hỏn. Ông quan tốt là ông quan biết thương dân như thương con đỏ. Dân thường ngày xưa gọi là Con Đỏ, còn bây giờ, phó thường dân ta gọi là Dân Đen (Dân Ngu Khu Đen). XÍCH THỐ Mà 赤兔馬 : Xích Thố là con THỎ ĐỎ, nhưng Ngựa XÍCH THỐ là tên con ngựa của Quan Vân Trường cỡi ở đời Tam Quốc, có màu đỏ thẫm. XÍCH ĐẠO 赤道 : là Đường tròn tưởng tượng bao quanh Địa Cầu có chiều dài khoảng 40.075,0 km, hay 24.901,5 dặm, nằm ở Vĩ độ 0°, chia Trái Đất ra làm 2 phần Bắc Bán Cầu và Nam Bán Cầu. Thời tiết nóng nực quanh năm vì nhận ánh sáng trực tiếp thẳng góc của Mặt Trời. Dân cư thường là da đen hoặc da đỏ. Vì thế mà được gọi tên là XÍCH ĐẠO. XÍCH 赤 còn có nghĩa là : Không Mang Mặc gì cả, như XÍCH THÂN 赤身 là Ở trần ở truồng. XÍCH THÂN LOà THỂ 赤身裸體 : là Trần Truồng như nhộng. XÍCH CƯỚC 赤腳 là Đi chân không. XÍCH CƯỚC ĐẠI TIÊN 赤腳大仙 là Ông Tiên đi chân không, XÍCH THỦ KHÔNG QUYỀN 赤手空拳 là Tay Không không có cầm binh khí gì cả! HỒNG DIỆP XÍCH THẰNG 紅葉赤繩: là Lá Đỏ mà Dây cũng Đỏ luôn. Ta nói là LÁ THẮM CHỈ HỒNG: LÁ THẮM là HỒNG DIỆP ĐỀ THI 紅葉題詩: Đề thơ trên lá đỏ. Có 3 tích, ở đây ta chỉ nhắc tích thứ 3 được nhiều người biết đến nhất. Theo Thanh Tỏa Cao Nghị và Thái Bình Quảng Ký, đời Đường Hi Tông thư sinh Vu Hựu nhặt được một chiếc lá dưới dòng Ngự câu từ trong cung trôi ra, trên có bài thơ ngũ ngôn : Lưu thuỷ hà thái cấp ? 流水何太急 ? Thâm cung tận nhật nhàn. 深宮盡日閒。 Ân cần tạ hồng diệp, 殷勤謝紅葉, Hảo khứ đáo nhân gian! 好去到人間! Có nghĩa : Nước chảy sao vội thế ? Trong cung suốt buổi nhàn. Ân cần nhờ là đỏ, Đưa đến chốn nhơn gian! Vu Hựu cảm thương cho người cung nữ tài hoa, nàng đã gọi thế giới bên ngoài là "Nhơn Gian", thế thì ở trong cung cấm là gì? "Địa Ngục" sao? Chàng bèn lên phía thượng lưu của ngự câu, thả trở vào cung bài thơ thất ngôn như sau: Hoa lạc thâm cung oanh diệc bi, 花落深宮鶯亦悲, Thượng Dương cung nữ đoạn trường thì. 上陽宮女斷腸時。 Quân ân bất bế đông lưu thủy, 君恩不閉東流水, Diệp thượng đề thi ký dữ thuỳ? 葉上題詩寄與誰? Có nghĩa : Hoa rụng cung sâu oanh cũng sầu, Thượng Dương cung nữ quặn lòng đau. Ơn vua chẳng bế dòng câu chảy, Trên lá đề thơ gởi đến ai?! Sau vua cho thải ba ngàn cung nữ về quê lấy chồng, Vu Hựu lấy được Hàn Thị từ trong cung mới thải ra. Đêm tân hôn, Hựu thấy trong trap của cô dâu có một phiến lá đỏ, trên lá là bài thơ của mình khi trước, chàng cũng lục rương của mình lấy bài thơ của Hàn Thị từ trong cung gởi ra. Hai vợ chồng nhìn nhau xúc động, ôm chầm lấy nhau nức nở, cho là duyên trời run rủi, mượn lá thắm để se duyên. 春 HÁN VIỆT Xuân NGHĨA VIỆT Mùa xuân TỪ GHÉP du xuân 遊春 • hồi xuân 回春• khai xuân 開春. Chữ XUÂN 春 từ chữ giáp cốt đến kim văn và phát triển về sau này vẫn bao gồm biểu tượng của cây cỏ (gồm 2 chữ phong丯, nghĩa là tươi tốt) và mặt trời (日). Sau 3 tháng mùa đông, Mặt trời hầu như vắng bóng, cái giá rét của mùa đông khiến cây cối trút hết lá vàng, khẳng khiu trơ lại những cành khô. Khi mùa xuân về ánh nắng ấm áp chiếu soi trái đất, làm cho vạn vật hồi sinh, cây cối đâm chồi nẩy lộc. Chữ XUÂN 春 vì vậy đã có ý nghĩa sự khởi đầu của một năm “nhất niên chi kế tại ư xuân, nhất nhật chi kế tại ư thần” (một năm mở đầu bằng mùa xuân, một ngày mở đầu vào sáng sớm). Từ đó春có nghĩa là thanh xuân tuổi trẻ. Đối với người dân của một nước nông nghiệp cận nhiệt đới như Trung Quốc và Việt Nam, mùa xuân còn có ý nghĩa sâu sắc đến cuộc sống của họ. Mùa xuân là mùa gieo trồng. Người ta đặt niềm tin một năm vào mùa xuân, mùa gieo trồng hẹn ngày bội thu. 出 HÁN VIỆT Xuất NGHĨA VIỆT Ra ngoài TỪ GHÉP dẫn xuất 引出• xuất bản 出版 • xuất binh 出兵• xuất cảng 出港 • xuất chinh 出征 Nếu căn cứ theo các dạng chữ cổ thì chữ XUẤT出là hình ảnh bàn chân hướng ra phía ngoài cái cổng hang, biểu thị ý nghĩa đôi chân bước ra. Ý nghĩa ban đầu của 出 là “từ trong ra ngoài”. Cần phân biệt giữaxuất và xúy (một âm đọc khác của出),phàm vật gì tự nó ló ra thì đọc là xuất, vật gì tự nó không ra mà cứ bắt ra thì đọc là xuý . 觸 HÁN VIỆT xúc NGHĨA VIỆT húc, đâm, chạm vào, sờ vào cảm động, xúc phạm DẠNG KHÁC 触 TỪ GHÉP tiếp xúc 接觸 • xúc động 觸動 • xúc giác 觸覺 • xúc nộ 觸怒 • xúc phạm 觸犯. XÚC觸 là chữ Hình Thanh kết cấu trái phải, bên trái là bộ GIÁC角biểu nghĩa kết hợp với bên phải là chữ THỤC蜀 biểu âm. GIÁC角 là chữ tượng hình miêu tả một cái sừng của thú vật nên XÚC觸 nghĩa gốc là dùng SỪNG để húc để cụng vào nhau. Nghĩa bóng của XÚC觸 là Va Chạm, là TIẾP XÚC 接觸 như XÚC ĐIỆN 觸電: là Bị điện giật, XÚC PHẠM 觸犯: là Va Chạm, là Đụng Chạm, XÚC ĐỘNG 觸動: là Tình cảm bị kích thích va chạm, XÚC GIÁC 觸覺: là Cảm giác có được do tiếp xúc va chạm mà ra. Xúc Giác là một trong Ngũ Giác Quan của con người. Các Thành ngữ tiêu biểu liên quân đến XÚC 觸Ta có: XÚC CẢNH SANH TÌNH 觸景生情: là Tiếp xúc với cảnh vật, cảnh trí hoặc sự việc xảy ra trước mắt, làm xúc động nảy sinh ra tình cảm trong lòng. XÚC MỤC KINH TÂM 觸目驚心: là Mắt vừa tiếp xúc thì lòng đã hoảng sợ. Ý muốn nói: Vừa trông thấy đã giật mình, chỉ sự việc vô cùng nghiêm trọng. 吹 HÁN VIỆT Xúy, xuy NGHĨA VIỆT Thổi TỪ GHÉP cổ xuý 鼓吹, xuy tiêu吹簫. Chữ XÚY吹là một chữ hội ý kết cấu trái phải, bao gồm bộ KHẨU口 (miệng) bên trái và bộ KHIẾM 欠 (thiếu) bên phải. Chữ 欠miêu tả một người đàn ông đang thổi hơi ra (xem bài phân tích chữ 欠 ), bộ 口 được thêm vào nhấn mạnh việc thổi được thực hiện bằng miệng. Chữ 吹 có nghĩa là thổi như trong từ cổ xúy, “Cổ” có nghĩa là trống, gióng trống, đánh trống để cổ vũ, cổ động; “Xúy” còn đọc là “xuy” có nghĩa là thổi, thổi kèn, thổi sáo để thúc giục. “Cổ xúy” còn là tên một điệu nhạc cổ. Như vậy, “cổ xúy” có nghĩa là cổ vũ, cổ động, thúc giục. Tuy nhiên, do cách sử dụng lâu dài nên “cổ xúy” thường bị hiểu theo ý nghĩa xấu là cổ vũ, cổ động cho một hành động, việc làm xấu. 串 HÁN VIỆT Xuyến, quán NGHĨA VIỆT suốt, xâu, chuỗi TỪ GHÉP tự xuyến 字串 • xuyến thông 串通. Câu chuyện hai người cùng viết chữ “串” (Xuyến) nhưng có tương lai trái ngược nhau : Ngày xưa có một thư sinh, trước khi đi thi đã đến nhà một vị tiên sinh đoán chữ nổi tiếng để hỏi về đường công danh của mình sau này sẽ ra sao. Khi đến nhà vị tiên sinh đoán chữ này, thư sinh ấy đã gặp một thư sinh khác cũng đến hỏi. Vị tiên sinh đoán chữ ấy bảo thư sinh này viết một chữ bất kỳ. Thư sinh liền đặt bút viết lên chữ “串” (Hán việt: Xuyến, có nghĩa là xuyên suốt). Vị tiên sinh đoán chữ chúc mừng anh ta và nói: “Thư sinh thậm chí đỗ của hai kỳ thi liền! Bởi vì trong chữ Xuyến “串” có hai chữ Trúng “中””. (Chữ “中”, Hán Việt ngoài âm “Trung” còn có âm “Trúng”, có nghĩa là đỗ, khảo trúng). Thư sinh kia cũng đặt bút viết lên chữ Xuyến “串”, giống hệt như vị thư sinh ban nãy và thỉnh mời tiên sinh đoán chữ. Tiên sinh đoán chữ nói rằng: “Không hay rồi! Thư sinh chẳng những không có hy vọng gì trong kỳ thi này, mà e rằng trong người còn có bệnh nặng rồi!”. Thư sinh này khó hiểu, không phục nói: “Tại sao cùng viết một chữ mà kết quả lại khác nhau quá như vậy?” Tiên sinh đoán chữ nói: “Thư sinh vừa nãy hạ bút viết chữ là trong lòng không có toan tính gì, vô tâm mà viết nên có thể thi đỗ cả hai kỳ thi liền. Còn thư sinh là cố tình, cố tâm mà viết, nên chữ Xuyến “串” có thêm chữ Tâm “心” sẽ thành chữ Hoạn “患” (Hán Việt: Hoạn, có nghĩa là hoạn nạn, bệnh tật), cho nên thư sinh là đang có bệnh rồi!”. Về sau, những lời tiên đoán của vị tiên sinh này quả nhiên hoàn toàn linh nghiệm! 醫 HÁN VIỆT Y NGHĨA VIỆT Thầy thuốc, chữa bệnh DẠNG KHÁC 医 TỪ GHÉP lương y 良醫 • ngự y 御醫 • quân y 軍醫 • thái y 太醫 • thú y 獸醫y học 醫學 • Chữ Y醫ở dạng phổn thể醫 theo định nghĩa của các từ điển chữ hán hiện đại là một chữ hình thanh kiêm hội ý. Vì 醫 có cấu tạo rất phức tạp, và để tiện cho việc ghi nhớ chữ, ở đây xin phân tích theo dạng hội ý. Chữ Y bao gồm bộ PHƯƠNG匚 (hộp đựng đồ) một dụng cụ luôn theo bên mình các thầy thuốc mỗi khi đi chữa bệnh, bộ THỈ矢 (mũi tên, cũng có hiểu là kim khâu), bộ THÙ 殳 ( một loại vũ khí), ở dưới là chữ DẬU酉 (bình rượu) một dụng cụ để ủ thuốc, ngâm thuốc. Tính chất hội ý của các bộ thủ thể hiện ý nghĩa dùng kim để khâu vá vết thương được gây ra trong lúc giao chiến (bộ殳). Ngoài ra, sau đó bệnh nhân phải dùng thuốc thì mới khỏi hoàn toàn được. Hiện nay, vẫn có một số cách giải nghĩa chữ 醫 hơi khác một chút, Tuy nhiên về cơ bản thì vẫn xoay quanh ý nghĩa dùng thuốc để chữa lành vết thương do giao chiến.  夭 HÁN VIỆT Yểu, yêu NGHĨA VIỆT Chết non, chết yểu TỪ GHÉP yểu chiết 夭折 • yểu hôn 夭昏 • yểu tà 夭邪. Thuyết âm dương ngũ hành là một học thuyết của người Trung Quốc về sự tương tác giữa các dạng vật chất để tạo ra sự sống. Nếu mất đi sự cân bằng âm dương, sự sống không thể tồn tại lâu dài. Chữ YỂU夭trong từ yểu chiết (chết yểu) đã chứng tỏ quan niệm đó. Chữ Yểu là một chữ tượng hình, vẽ lại dáng đi nghiêng ngả, không vững chãi của con người. Dáng đi siêu vẹo ấy thể hiện sự nhu nhược yếu đuối, mất cân bằng của con người. Từ những kinh nghiệm tích lũy được trong cuộc sống, kết hợp với học thuyết cân bằng âm dương, người ta đã thể hiện ý nghĩa đoản mệnh của con người qua cách tạo chữ yểu. Điều này thể hiện ý nghĩa sâu sắc về nhận thức của con người về chính sự sống của mình. 妖 HÁN VIỆT Yêu NGHĨA VIỆT Đẹp, quái lạ, yêu quái TỪ GHÉP yêu đạo 妖道 • yêu kiều 妖嬌 • yêu ma 妖魔 • yêu nghiệt 妖孼• yêu quái 妖怪. Chữ YÊU妖là một chữ ở dạng Hình Thanh kiêm Hội Ý, gồm 女 (phụ nữ) và 夭 . Một người phụ nữ nhảy múa đầy mê hoặc, một cái gì đó quá quyến rũ, nó sẽ khiến chúng ta choáng váng và điên rồ, vì vậy bên cạnh ý nghĩa chỉ vẻ đẹp mê hồn, 妖 còn có nghĩa là yêu quái.