Thứ Tư, 2 tháng 8, 2017

MẠNH TỬ 15

IV
使畢戰問井地。孟子曰:「子之君將行仁政,選擇而使子,子必勉之。夫仁政必自經界始。經界不正,井地不均,穀祿不平。是故暴君吏必慢其經界。經界 既正,分田制祿,可坐而定也。
Sử Tất Chiến vấn tỉnh địa, Mạnh tử viết: Tử chi quân tương hành nhân chính, tuyển trạch nhi sử tử, tử tất miễn chi. Phù nhân chính, tất tự kinh giới thuỷ. Kinh giới bất chính, tỉnh địa bất quân, cốc lộc bất bình. Thị cố bạo quân ô lại tất mạn kỳ kinh giới. Kinh giới ký chính, phân điền chế lộc, khả toạ nhi định dã.
Dịch nghĩa: Vua Văn công sai Tất Chiến hỏi phép tỉnh địa. Thầy Mạnh nói: Vua nhà ngươi sắp sửa làm nhân chính, kén chọn mà sai ngươi, ngươi nên cố đi. Này nhân chính, trước nhất phải sửa sang chia định các giới hạn. Sửa sang giới hạn chẳng được chỉnh đốn, thì ruộng đất chẳng đều, thóc lộc chẳng công. Cho nên những người vua ác quan tham tất coi kinh cái phép sửa sang giới hạn mà muốn bỏ đi. Cái phép sửa sang giới hạn đã chỉnh đốn, thì sự chia ruộng ban lộc, có thể ngồi đó mà định được
Chú giải: Tất Chiến = quan nước Đằng. Khi ấy vua chuyên uỷ cho việc tỉnh điền, nên lại sai đi hỏi lại cho kỳ. Tỉnh địa = Tức là phép tỉnh điền, đã kể ở chương trên. Kinh = sửa sang. Giới = bờ cõi. Kinh giới = sửa sang bờ cõi, như là khơi ngòi, mở đường, giồng giọt cây cối, chia vạch ra cho có giới hạn. Cốc = thóc, ngày xưa bổng lộc của các quan, đều ban cấp bằng thóc. Bạo = dữ ác. Bạo quân = Vua dữ ác. Ô = tham ô bẩn thiẻu. Ô lại = quan tham nhũng bẩn thỉu
夫滕壤地褊小,將為君子焉,將為野人焉。無君子莫治野人,無野人莫養君子。
Phù Đằng nhưỡng địa biển tiểu, tương vi quân tử yên, tương vi dã nhân yên; vô quân tử mạc trị dã nhân, vô dã nhân mạc dưỡng quân tử
Dịch nghĩa: Ôi nước Đằng, cõi đất tuy hẹp nhỏ, chắc có người quân tử mà làm quan, chắc có kẻ dã nhân mà đi cày; không người quân tử chẳng ai trị kẻ dã nhân, không kẻ dã nhân chẳng ai nuôi người quân tử.
Chú giải: Quân tử = trỏ người làm quan giữ việc chính giáo. Dã nhân = trỏ kẻ dân quê chăm việc cày cấy để cung tô thuế. Đây là nói rõ ra rằng phàm có nước, không cứ nước lớn nước nhỏ, nước nào cũng có người quân tử giữ việc chính trị, có kẻ dã nhân giữ phận cày ruộng nộp thuế, thế thì cái sự chia ruộng ban lộc, phải làm cho chỉnh đốn, dẫu nhỏ như nước Đằng, cũng không thể bỏ được
請野九一而助,國中什一使自賦。Thỉnh dã cửu nhất nhi Trợ, quốc trung thập nhất sử tự phú.
Dịch nghĩa: Xin ngoài chốn dao dã thì chính phần lấy thuế một mà dùng phép Trợ, trong chốn quốc đô thì mười phần lấy thuế một, khiến cho tư nộp thuế.
Chú giải: dã = chỗ đồng nội đất rộng có thể vạch ra chữ tỉnh, chia làm chín khu, chỉ mượn dân cày giúp khu ruộng công mà nộp thuế, thế là chín phần lấy thuế một, tức là dùng phép Trợ. Quốc trung = chỗ làng xóm gần nơi quốc đô, đất hẹp không thể vạch ra chữ tỉnh được, thì chia ruộng cho mỗi người dân một trăm mẫu, mà chỉ nộp vào mười mẫu thuế, thế là mười phần lấy thuế một phần, tức là dùng phép Cống. Đây là nói về cái phép thường chia ruộng ban lộc, dùng phép Trợ và phép Cống, mà phép Triệt nhà Châu cũng đại loại như thế
卿以下必有圭田。  圭田五十畝,
Khanh dĩ hạ, tất hữu khuê điền, khuê điền ngũ thập mẫu
Dịch nghĩa: Tự quan Khanh trở xuống, tất có ruộng khuê điền, khuê điền năm mươi mẫu
Chú giải: Khuê điền = Khuê nghĩa là thanh khiết, khuê điền là cái ruộng để cung phụng về việc tế tự. Đây là ngoài cái khoản thế lộc của các quan, lại ban thêm ruộng khuê điền, để hậu đãi cho người quân tử
餘夫二十五畝。Dư phu nhị thập ngũ mẫu
Dịch nghĩa: Kẻ dư phu được ruộng riêng hai mươi nhăm mẫu
Chú giải: Dư phu = người vị thành đinh. Cứ mỗi một suất đinh là một phu, thì trên có cha mẹ, dưới có vợ con, chừng năm miệng hoặc tám miệng ăn thì được phần ruộng một trăm mẫu. Còn người em là dư phu chừng mười sáu tuổi, chưa có vợ, còn phải nhờ anh, chưa điến cái tuổi thụ điền trăm mẫu.
Đây là ngoài cái phần ruộng trăm mẫu ra lại có ruộng cấp cho riêng kẻ dư phu để mà hậu đãi kẻ dã dân
死徙無出田同井,出入相友,守望相助,疾病相扶持,則百姓親睦。
Tử tỉ vô xuất hương, hương điền đồng tỉnh, xuất nhập tương hữu, thủ vọng tương trợ, tật bệnh tương phù trì, tắc bách tính thân mục.
Dịch nghĩa: Việc tống táng và việc thiên tỉ, không phải ra khỏi làng, ruộng làng chung nhau một tỉnh, ra vào cùng bạn với nhau, coi giữ giúp lẫn cho nhau, đau ốm phù trì nhau, như thế thì trăm họ tự thân ái hoà mục.
Chú giải: Tử = chết, trỏ về việc tống táng. Tỷ = dời, trỏ về việc thiên di, thủ vọng = canh giữ trông nom, nói về việc phòng giữ trộm cướp
Đây là nói làm phép tỉnh điền, thì không những giúp dân về đường sinh hoạt, mà lại làm thêm hay phong tục cho dân biết giúp đỡ nhau
方里而井;井九百畝,其中為公田。八家皆私百畝,同養公田。公事畢,然後敢治私事,所以別野人也。
Phương lý nhi tỉnh, tỉnh cửu bách mẫu; kỳ trung vi công điền, bát gia giai tư bách mẫu, đồng dưỡng công điền; công sự tất, nhiên hậu cảm trị tư sự, sở dĩ biệt dã nhân dã.
Dịch nghĩa: Vuông một dặm làm một tỉnh, mỗi một tỉnh chín trăm mẫu; trăm mẫu ở giữa là ruộng công, tám nhà ở ngoài đều được ruộng riêng mỗi nhà trăm mẫu; tám nhà cùng chăm chút ruộng công; việc công xong, rồi sau mới dám làm việc tư, để phân biệt kẻ dã nhân vậy.
Chú giải: Đây là nội rõ ra cái hình thể phép tỉnh điền, ruộng công làm lộc quân tử, ruộng tư về phần dã nhân, làm ruộng công trước, làm ruộng tư sau, để phân biệt dã nhân với quân tử
此其大略也。若夫潤澤之,則在君與子矣。」
Thử kỳ đại lược dã, nhược phù nhuận trạch chi tắc tại quân dữ tử hĩ
Dịch nghĩa: Ấy là những điều đại lược, còn như mọi bề nhuận trạch thì ở nhà vua với ngươi đấy.
Chú giải: Nhuận trạch = nhuần nhã viên hoạt, ý là phải liệu mà làm cho thông hoạt không nên câu nệ, phải liệu châm chước mà thi hành, khiến cho hợp với nhân tình, nghi với thổ tục không nê cái phép của đấng tiên vương, mà cũng không sai cái ý của đấng tiên vương
V
有為神農之言者許行,自楚之滕,踵門而告文公,曰:「遠方之人,聞君行仁政,願受一廛而為氓。」文公與之處。其徒數十人,皆衣褐,捆屨、織席以為食。
Hữu vi Thần Nông chi ngôn giả Hứa Hành, tự Sở chi Đằng, chủng môn nhi cáo Văn công viết: Viễn phương chi nhân, văn quân hành nhân chính, nguyện thụ nhất chiền nhi vi manh. Văn công dữ chi xử, kỳ đồ sổ thập nhân, giai ý kệ khổn lũ chức tịch dĩ vi thực
Dịch nghĩa: Có kẻ đặt ra lời nói vua Thần Nông là ngươi Hứa Hành, tự nước Sở đi sang nước Đằng, bước chân đến cửa mà bảo vua văn công rằng: Kẻ phương xa chúng tôi nghe nhà vua làm chính trị hay, xin nhận lấy một khu đất ở mà làm dân. Vua văn công cho hắn ở, đồ đệ hắn vài mươi người, đều mặc áo vải lông, đóng dép, dệt chiếu để kiếm ăn.
Chú giải: Thần Nông = là ông vua bắt đầu chế ra cày bừa, dạy dân nghề canh nông. Chủng = gót chân. Chủng môn = theo gót đến tận cửa. Chiền = chỗ khu đất dân ở. Manh = kẻ dân quê. Kệ = thứ vải to có lông, thức mặc của kẻ hèn hạ, Khổn = đóng nện cho bền. Chức = dệt
陳良之徒陳相與其弟辛,負耒耜而自宋之滕。曰:「聞君行聖人之政,是亦聖人也,願為聖人氓。」
Trần Lương chi đồ Trần Tương, dữ kỳ đệ Tân, phu lỗi trĩ nhi tự Tống chi Đằng, viết: Văn quân hành thánh nhân chi chính, thị diệc thánh nhân dã, nguyện vi thánh nhân mình
Dịch nghĩa: Kẻ học trò Trần Lương là Trần Tương, cùng với em là Tân, vác đồ cày ruộng mà tự nước Tống đi sang nước Đằng, nói rằng: Nghe nhà vua làm theo chính trị đáng thánh nhân, thế cũng là đấng thánh nhân vậy, xin đến làm dân đấng thánh nhân
Chú giải: Trần Lương = kẻ nho giả nước Sở. Lỗi trĩ = trĩ là cái đồ làm cho bật đất lên, tức là cái lưỡi cày; Lỗi là cái dọc cày
陳相見許行而大悅,盡棄其學而學焉。陳相見孟子,道許行之言曰:「滕君則誠賢君也;雖然,未聞道也。賢者與民並耕而食,饔飧而治。今也滕有倉廩府庫,則是厲民而以自養也,惡得賢?」
Trần Tương kiến Hứa Hành nhi đại duyệt, tận khí kỳ học nhi học yên. Trần Tương kiến Mạnh tử, đạo Hứa Hành chi ngôn viết: Đằng quân tắc thành hiền quân dã. Tuy nhiên, vị văn đạo dã, hiền giả dữ dân tịnh canh nhi thực, ung son nhi trị. Kim dã Đằng hữu xương lẫm phủ khố, tắc thị lê dân nhi dĩ tự dưỡng dã, ô đắc hiền
Dịch nghĩa: Trần Tương yết kiến Hứa Hành mà vui lòng theo ngay, bỏ hết sở học của mình mà học Hứa Hành. Trần Tương yết kiến thầy Mạnh, thuật lại lời nói của hứa Hành rằng: Vua nước Đằng thì thực là vua hiền vậy. Tuy vậy, mà chửa được nghe cái đạo của thánh nhân đời xưa, vua hiền cùng với dân cùng cày ruộng mà ăn, thổi nấu lấy và trị dân. Nay nước Đằng bày ra có kho đụn, đều là của lấy ở dân, thế là làm hại dân để nuôi mình, sao được là hiền
Chú giải: Ung sôn = nấu chín mà ăn, bữa sớm gọi là ung, bữa chiều gọi là sôn. Xương lẫm, phủ khố = là những kho để chứa thóc. Lệ = hại. Lệ dân = làm tàn hại dân. Hứa hành nói ra lời như trên ấy là ý muốn ngầm phá hoại cái phép phân biệt ra quân tử với dã nhân của thầy Mạnh.
孟子曰:「許子必種粟而後食乎?」曰:「然。」「許子必織布而後衣乎?」曰:「否,許子衣褐。」「許子冠乎?」曰:「冠。」曰:「奚冠?」曰:「冠素。」曰:「自織之與?」曰:「否,以粟易之。」曰:「許子奚為不自織?」曰:「害於耕。」曰:「許子以釜甑爨、以鐵耕乎?」曰:「然。」「自為之與?」曰:「否,以粟易之。」
Mạnh tử viết: Hứa tử tất chủng túc nhi hậu thực hồ? Viết: Nhiên. Hứa tử tất chức bố nhi hậu ý hồ? Viết: Phủ. Hứa tử ý kệ, Hứa tử quan hồ? Viết: Quan. Viết: Hề quan? Viết: Quan tố. viết Tự chức chi dư? Viết: Phủ, dĩ túc dịch chi. Viết: Hứa tử hề vi bất tự chức? viết: Hại ư canh. Viết: Hứa tử dĩ phũ tắng thoán, dĩ thiết canh hồ? viết: Nhiên. Tự vi chi dư? Viết: Phủ, dĩ túc dịch chi
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh hỏi rằng: Hứa tử tất trồng thóc lấy để mà ăn ư? Trần tương thưa rằng: Phải. Hứa tử tất dệt vải lấy để mà mặc ư? Thưa rằng Không. Hứa tử mặc áo lông, Hứa tử đội mũ không? Thưa rằng: có đội mũ. Đội mũ gì? Thưa rằng: Đội mũ trắng. Hứa tử tự mình dệt lấy dư? Thưa rằng: Không đem thóc đổi lấy. Hứa tử làm sao chẳng tự mình dệt lấy? Thưa rằng: Sợ thiệt hại cho sự cày. Hứa tử lấy nồi chõ thổi nấu, lấy đồ sắt cày ruộng đấy ư? Thưa rằng phải. Tự mình làm đấy dư? Thưa rằng: Không, đem thóc đổi lấy.
Chú giải: Phũ = đồ để nấu như loài nồi, Tắng = đồ để thối như như loài chõ, Thoán = đun nấu
「以粟易械器者,不為厲陶冶;陶冶亦以械器易粟者,豈為厲農夫哉?且許子何不為陶冶,舍皆取諸其宮中而用之?何為紛紛然與百工交易?何許子之不憚煩?」曰:「百工之事,固不可耕且為也。」
Dĩ túc dịch giới khí giả, bất vi lệ đào dã; đào dã diệc dĩ kỳ giới khí dịch túc giả, khỏi vi lệ nông phu tai. Thả Hứa tử hà bát vi đào dã xá, giai thủ chư kỳ cung trung nhi dụng chi, hà vi phân phân nhiên dữ bách công giao dịch, hà Hứa tử chi bất đạn phiền? Viết: Bách công chi sự, cố bất khả canh thả vi dã.
Dịch nghĩa: Thế thì kẻ nông phu đem thóc đổi lấy đồ đạc, chẳng phải là làm hại cho thợ nặn thợ đúc; thợ nặn thợ đúc cũng đem đồ đạc của mình đổi lấy thóc, há phải là làm hại kẻ nông phu đâu. Vả, Hứa tử sao chẳng làm ra sở nặn sở đúc, đều lấy ở trong nhà mình ra mà dùng, có sao rối bời chùng với trăm thợ đổi chác, sao mà Hứa tử chẳng ngại phiền? Thưa rằng: Những việc trăm thợ, đành không thể vừa cày vừa làm được.
Chú giải: Đào = thợ làm đồ đất. Dã = thợ làm đồ đồng, đồ sắt. Xá = nhà, là cái xưởng, lại có nghĩa là chỉ, thì chữ xá đọc liền xuống câu dưới. Cung cũng như chữ gia nghĩa là nhà. Đây cũng là lời thầy mạnh nói, mà Trần tương đáp. Trần Tương đến đây, đã là lời cùng mà không cãi lại được nữa
「然則治天下獨可耕且為與?有大人之事,有小人之事。且一人之身,而
百工之所為備。如必自為而後用之,是率天下而路也。故曰:或勞心,或勞力。勞心者治人,勞力者治於人。治於人者食人,治人者食於人天下之通義也。
Nhiên tắc trị thiên hạ độc khả canh thả vi dư? Hữu đại nhân chi sự, hữu tiểu nhân chi sự. Thả nhất nhân chi thân, nhi bách công chi sở vi bị; như tất tự vi nhi hậu dụng chi, thị suất thiên hạ nhi lộ dã. Cố viết: Hoặc lao tâm, hoặc lao lực; lao tâm giả trị nhân, lao lực giả trị ư nhân; trị ư nhân giả tự nhân, trị nhân giả tự ư nhân. Thiên hạ chi thông nghĩa dã.
Dịch nghĩa: thế thì ông vua trị thiên hạ một mình có thể vừa cày vừa trị được dư? Có cái việc của kẻ đại nhân, có cái việc của kẻ tiểu nhân. Vả lại trong thân một người, mà trăm nghề đều làm đủ; nếu tất nghề gì cũng tự mình làm lấy rồi sau mới dùng, ấy là đem cả người trong thiên hạ ra mà chạy luôn ở ngoài đường vậy. Nên cổ ngữ có câu rằng: Hoặc kẻ lao tâm, hoặc kẻ lao lực; kẻ lao tâm trị người, kẻ lao lực thì bị trị ở người; kẻ bị trị ở người phải nuôi người, kẻ trị người thì được nuôi ở người. là cái nghĩa thông thường của thiên hạ xưa nay vậy.
Chú giải: Lộ = đường, nghĩa là bôn tẩu luôn ở ngoài đường, không lúc nào nghỉ ngơi, nói cáo thế không thể làm như vậy được. Trị nhân = thi hành chính giáo để trị người. Trị ư nhân = bị người ta cai trị. Tự nhân = nuôi người, nghĩa là phải cung cấp tô, thuế để nuôi người trên. Tự ư nhân = được người cấp dưỡng bổng lộc để nuôi. Đây là nói có hạng người quân tử phải lao tâm, có hạng người tiểu nhân phải lao lực. Quân tử mà không có kẻ tiểu nhân giúp đỡ thì đói, tiểu nhân mà không có người quân tử cai trị thì loạn, đó đều là giúp việc cho nhau, chứ không phải làm hại gì nhau, cũng như là kể nông phu với thợ đào đã lấy thóc gạo và khí cụ đổi lẫn cho nhau, là giúp lẫn nhau, chứ không thể vừa cày vừa làm việc khác được, để phá cái thuyết tịnh cạnh của Hứa tử đi
「當堯之時,天下猶未平,洪水橫流,泛濫於天下;草木暢茂,禽獸繁殖;五穀不登,禽獸逼人;獸蹄鳥跡之道,交於中國。堯獨憂之,舉舜而敷
治焉。舜使益掌火;益烈山澤而焚之,禽獸逃匿。禹疏九河,瀹濟、漯而注諸海;決汝、漢,排淮、泗,而注之江,然後中國可得而食也。當是時也,
禹八年於外,三過其門而  不入,雖欲耕,得乎?
Đương Nghiêu chi thời, thiên hạ do vị bình, hồng thuỷ hoành lưu, phiếm lạm ư thiện hạ, thảo mộc xướng mậu, cầm thú phồn thực, ngũ cốc bất đăng, cầm thú bức nhân, thú đề điểu tích chi đạo, giao ư trung quốc. Nghiêu độc ưu chi, cử Thuấn nhi phu trị yên. Thuấn sử ích chưởng hoả, ích liệt sơn trạch nhi phần chi, cầm thú đào nặc. Vũ sơ cửu Hà, thược Tế Loa nhi chú chư hải, quyết Nhữ Hán, bài Hoài Tứ, nhi chú chi Giang, nhiên hậu trung quốc khả đắc nhi thực dã. Đương thị thời dã, Vũ bát niên ư ngoại, tam quá kỳ môn nhi bất nhập, tuy dục canh đắc hồ.
Dịch nghĩa: Đương đời vua Nghiêu, thiên hạ còn chưa bình định, nước lớn chảy ngang, đầy rẫy ở thiên hạ, cỏ cây rậm tốt, chim muông thịnh nhiều, năm thứ thóc chẳng thành thục được, chim muông ở lẫn với người, những đường móng thú dấu chim, bừa bãi khắp cả ở chốn trung quốc. Vua Nghiêu một lấy làm lo, cử ông Thuấn ra trị việc thiên hạ, ông Thuấn sai ông Ích giữ việc lửa, ông Ích đốt núi chằm cho cháy lên, chim muông trốn náu. Ông Vũ đào chín cái sông, khơi sống Tế sông Loa cho chảy về bể, xẻ sông Nhữ sông Hán, khơi sông Hoài sông Tứ chảy về sông Giang, rồi sau  chốn trung quốc mới có thể cày cấy được mà ăn. Đương lúc ấy ông vũ tám năm ở ngoài kinh lý việc nước, ba lần qua cửa nhà mình mà chẳng kịp vào, dẫu muốn cày được chăng.
Chú giải: Trung quốc = giữa trong nước chỗ dân ở. Đăng = được mùa, lúa chín tốt. Bất đăng = lúa không được thành thục chín tốt. Bức = gần bách quá, xâm lấn lẫn lộn cả vào. Giao = bừa bãi khắp cả. Sơ, thược, quyết, bài = đều là nghĩa khơi đào khiến cho thông nước. Đây là chứng giải ra cái thời thế đương lúc vua Nghiêu còn bận về việc trị thuỷ cứu dân, không thể vừa cày vừa trị dân được
后稷教民稼穡,樹藝五穀,五穀熟而民人育。人之有道也,飽食暖衣,逸居而無教,則近於禽獸。聖人有憂之,使契為司徒,教以人倫:父子 有親,
君臣有義,夫婦有別,長幼有序,朋友有信。放勛曰:『勞之來之、匡之直之、輔之翼之,使自得之;又從而振德之。』聖人之憂民如此,而暇耕乎?
Hậu Tắc giáo dân giá sắc, thụ nghệ ngũ cốc, ngũ cốc thục nhi dân nhân dục. Nhân chi hữu đạo dã, bão thực noãn y, dật cư nhi vô giáo, tắc cận ư cầm thú. Thánh nhân hữu ưu chi, sử Tiết vi Tư đồ, giáo dĩ nhân luân, phụ tử hữu thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu hữu tín. Phóng Huân viết: Lạo chi lại chi, không chi trực chi, phụ chi dực chi, sử tự đắc chi, hựu tùng nhi chấn đức chi. Thánh nhân chi ưu dân như thử, nhi hạ canh hồ.
Dịch nghĩa: Lại sai quan Hậu Tắc dạy dân cấy gặt, gieo trồng năm giống thóc, năm giống thóc thành thục, rồi dân mới có thức ăn mà nuôi nhau. Người ta đều có cái tính tốt, nhưng ăn no mặc ấm, nhàn cư mà không giáo dục, thì gần giống như muông cầm thú. Đấng thánh nhân lại lấy làm lo, sai ông Tiết làm quan Tư đồ, dạy dân lấy đạo làm người, cha con phải có tình thân, vua tôi phải có nghĩa lớn, vợ chồng phải có lễ phân biệt, lớn bé phải có cách trật tự, vè bạn phải có đạo tin thực. Ông Phóng Huân lại răn bảo rằng: Kẻ nào cố gắng về đạo làm nười mà khó nhọc thì yên ủi cho nó, kẻ nào hướng theo thì vỗ về cho nó, kẻ nào tà thì chính lại cho, kẻ nào cong thì thẳng lại cho, giúp cho để tự lập, đỡ cho để thực hành, khiến cho tự mình nó giữ được cái tính tốt, lại theo mà cổ vũ làm ơn cho nó nức lòng. Đấng thánh nhân lo co dân như thế, còn lúc nào rồi mà kịp đến việc cày nữa.
Chú giải: Thánh nhân = cũng trỏ về vua Nghiêu. Phóng Huân = công lớn, nguyên là cái lời kẻ sử thần tán vua Nghiêu, thầy Mạnh nhân lấy làm hiệu vua Nghiêu. Lạo = Yên ủi, Lại = vỗ về. Khuông = ngay lại. Trực = Thẳng lại, Phụ = giúp. Dực = đỡ. Đức = ơn huệ. Chấn đức = răn bảo khuyến miễn làm ơn cho nức lòng.
Đây là chứng giải ra cái thời vua Nghiêu đương phải lo về việc giáo dục cho dân, không thể vừa cày vừa trị dân được
堯以不得舜為己憂;舜以不得禹、皋陶為己憂。夫以百畝之不易為己憂者,農夫也。
Nghiêu dĩ bất đắc Thuấn vi kỷ ưu, Thuấn dĩ bất đắc Vũ, Cao Giao vi kỷ ưu. Phù dĩ bách mẫu chi bất dị vi kỷ ưu giả nông phu dã
Dịch nghĩa: Vua Nghiêu chỉ lấy cái sự chẳng cử được vua Thuấn làm sự lo của mình, vua Thuấn chỉ lấy cái sự chẳng cử được ông Vũ, ông Cao Giao làm sự lo của mình, thế là chỉ cần lo việc cấp. Còn như lấy cái sự trăm mẫu bỏ hoang làm sự lo của mình ấy, là sự kẻ nông phu vậy
Chú giải: Dị = Trị, Bất dị = chẳng sửa sang cày bừa để ruộng bỏ hoang.
Đây là nói cái chức trách quân tướng lo dân chỉ cần việc cấp vụ là cử lấy người hiền lo những việc lớn lao, không những không lúc nào hạ cập đi cày, mà cũng bất tất phải cày
分人以財謂之惠,教人以善謂之忠,為天下得人者謂之仁。是故以天下與人易,為天下  得人難。
Phân nhân dĩ tài vị chi huệ; giáo nhân dĩ thiện vị chi trung; vị thiên hạ đắc nhân giả vị chi nhân. Thị cố dĩ thiên hạ dữ nhân dị, vị thiên hạ đắc nhân nan.
Dịch nghĩa: Lấy của cải chia cho người gọi là điều huệ; lấy điều thiện dạy cho người gọi là điều trung. Nhưng không bằng vì thiên hạ cầu được người giỏi gọi là điều nhân. Cho nên lấy thiên hạ đem cho người, sự ấy dễ, vì thiên hạ cầu được người giỏi, sự ấy khó.
Chú giải: Đắc nhân = được người giỏi để trị thiên hạ, tức như Nghiêu được Thuấn, Thuấn được Vũ, Cao Giao. Đã cầu được người giỏi để lo việc dân, thì ơn huệ rộng rãi, giáo hoá vô cùng, thực là một điều nhân đức lớn lao, hơn cả điều huệ điều trung còn là hẹp vậy
孔子曰:『大哉,堯之為君!惟天為大,惟堯則之。蕩蕩乎民無能名焉!君哉舜也!巍巍乎有天下而不與焉!』堯舜之治天下,豈無所用其心哉?亦不用於 耕耳。
Khổng tử viết: Đại tai Nghiêu chi vi quân, duy thiên vi đại, duy Nghiêu tắc chi, đãng đãng hồ dân vô năng danh yên. Quân tai Thuấn dã, nguy nguy hồ hữu thiên hạ nhi bất dự yê. Nghiêu Thuấn chi trị thiên hạ, khởi vô sở dụng kỳ tâm tai, diệc bất dụng ư canh nhĩ.
Dịch nghĩa: Ông Khổng có nói rằng: Lớn thay vua Nghiêu làm vua, đạo trời là lớn mà duy vua Nghiêu hay bằng trời cùng làm phép tắc, cái đức vua Nghiêu rộng lớn thay, dân không thể ngợi khen xiết được. Hết đạo làm vua thay là vua Thuấn vậy, cái đức vua Thuấn cao lớn thay, tuy có thiên hạ mà vẫn hình như không thiết. Vua Nghiêu vua Thuấn trị thiên hạ, hà không dụng tâm về sự gì đâu, chỉ là không để tâm về sự cày mà thôi
Chú giải: Đãng đãng = rộng lớn lồng lộng. Nguy nguy = cao lớn vòi vọi. Đều là chữ hình dung tán tụng cái đức nghiệp to lớn. Bất dự = không thiết gì, nghĩa là không tự lấy ngôi vua làm sướng thích, coi như không vậy. Đây là dẫn lời ông Khổng tán tụng cái đức nghiệp vua Nghiêu vua Thuấn sở dĩ to lớn như thế, có phải là không dụng tâm lo về việc dân đâu, chỉ cốt lo việc cấp vụ cho dân mà thôi, để bác cái thuyết vừa cày vừa trị dân của Hứa tử là không phải
「吾聞用夏變夷者,未聞變於夷者也。陳良,楚也;悅周公、仲尼之道,北學於中國,北方之學者,未能或之先也。彼所謂豪傑之士也。子之兄弟事之數十  年,師死而遂倍之。
Ngô văn dung hạ biến di giả, vị văn biến ư di giả dã. Trần Lương, Sở sản dã, duyệt Châu công Trọng Ni chi đạo, bắc học ư Trung quốc; bắc phương chi học giả, vị năng hoặc chi tiên dã; bỉ sở vị hào kiệt chi sĩ dã. Tử chi huynh đệ, sự chi sổ thập niên, sư tử nhi toại bội chi
Dịch nghĩa: Ta nghe rằng dùng đạo hoa hạ để biến hoá cái tục man di, chửa nghe rằng lại bị hiến hoá về tục man di đó vậy. Ngươi Trần Lương sinh ra ở nước Sở, mến cái đạo ông Châu công, ông Trọng Ni, sang phương bắc học ở chốn trung quốc; kẻ học thức phương bắc, chửa ai đã chắc hơn ông ta được; ông ấy đáng gọi là kẻ hào kiệt vật. Anh em nhà ngươi thờ ông ta vài mươi năm, thầy vừa mới chết mà liền trái cái học của thầy
Chú giải: Hạ = Nơi hoa hạ, có lễ nghĩa giáo hoá, Châu công = tên là Cơ Đán, tướng nhà Châu, chế ra lễ làm ra nhạc. Trọng ni = tên tự ông Khổng tử. Bắc học = Trần Lương người nước Sở, thuộc về phương Nam, cho nên lên phương Bắc học ở chốn trung quốc. Trung quốc = nơi giữa nước, có nhiều văn hoá lễ giáo. Bội = thông dụng với chữ bối, nghĩa là phải trái. Từ đây trở xuống là trách Trần Tương phản bội cái học của thầy Trần Lương, mà đi học ngươi Hứa Hành
昔者孔子沒,三年之外,門人治任將歸,入揖於子貢,相嚮而哭皆失聲然後歸子貢反築室於場獨居三年然後歸他日子夏子張子游以有若似聖人欲以所事孔子事之彊曾子曾子曰不可江漢以濯之秋陽以暴之皜皜乎,不可尙已
Tích giả Khổng tử một, tam niên chi ngoại, môn nhân trị nhâm tương quy, nhập ấp ư Tử Cống, tương hướng nhi khốc, giai thất thanh, nhiên hậu quy. Tử Cống phản trúc thất ư tràng, độc cư tam niên, nhiên hậu quy. Tha nhật, tử hạ, Tử Trương, Tử Du, dĩ Hữu Nhược tự thánh nhân, dục dĩ sở sự Khổng tử sự chi; cưỡng Tăng Tử, Tăng Tử viết: Bất khả! Giang hán dĩ trạc chi, thu dương dĩ bộc chi, Kiểu kiểu hồ, bất khả thượng dĩ
Dịch nghĩa: Ngày xưa, ông Khổng tử mất, ngoài ba năm, học trò sửa soạn gánh hành trang, sắp sửa tan về, vào vái chào với người chủ tang sự là thầy Tử Cống, trông nhau mà khóc, đều lạc cả tiếng, rồi sau mới về. Thầy Tử Cống lại làm nhà ở chỗ mả, một mình ở đó ba năm nữa, rồi sau mới về. Ngày khác, thầy Tử Hạ, Tử Trương, Tử Du  cho rằng thầy Hữu Nhược ngôn hạnh khí tượng giống đấng thánh nhân, toan đem cái lễ thờ ông Khổng tử mà thờ thầy Hữu Nhược; cưỡng ép thầy Tăng Tử. Thầy Tăng Tử nói rằng: “ Không nên, đạo đức đấng Khổng tử ví như nước sông Giang sông Hán sạch sẽ, tha hồ cho người rửa giặt; mặt trời mùa thu sáng sủa, tha hồ cho người phơi póng, trong sạch thay, chẳng ai hơn được vậy.
Chú giải: Nhâm = là gánh, trỏ về gánh hành trang. Tam niên = ngày xưa lễ trở thầy, để trở ở trong tâm ba năm, nghĩa là như trở bố mà không có khăn áo trở. Tràng = cái đàn tràng lập ra ở chỗ mả. Hữu Nhược = cũng là một người có phẩm giá cao trọng cửa Khổng. Kiểu kiểu (hạo) = sạch và trắng. Thượng = đặt để lên trên, nghĩa là bậc hơn. Đây là kể ra mấy thầy học trỏ trong cửa Khổng, tuy thầy đã mất mà vẫn tôn tín thầy, để rõ ra tội anh em Trần Tương phản bội thầy.
今也南蠻鴃舌之人,非先王之道,子倍子之師而 學之,亦異於曾子矣。
Kim dã Nam man quích thiệt chi nhân, phi tiên vương chi đạo, tử bội tử chi sư nhi học chi, diệc dị ư Tăng Tử hĩ.
Dịch nghĩa: Nay cái người kia là người xứ Nam man nói chíu lưỡi như chim quích, không phải là học cái đạo đấng tiên vương, thế mà ngươi trái đạo thầy ngươi, đi học theo người ấy, thực cũng khác với thầy Tăng vậy.
Chú giải: Quích = thứ chim tiếng hót líu lo, tiếng người Nam Man giống tiếng chim ấy, ý trỏ về Hứa Hành
吾聞出於幽穀、遷於喬木者,未聞下喬木而入於幽穀者。
Ngô văn xuất ư u cốc, thiên vu kiều mộc giả, văn hạ kiều mộc, nhi nhập ư u cốc giả
Dịch nghĩa: Ta nghe rằng con chim kia bay ra tự chốn hang tối, dời lên ở chỗ cây cao, chửa nghe rằng băy xuống tự chỗ cây cao, mà chui vào ở chỗ hang tối bao giờ.
Chú giải: Đây là dẫn cái ý thơ Phạt một thiên Tiểu Nhã trong kinh Thi mà nói, để chứng giải ra rằng người ta kén chọn cái đạo mà học, cũng như con chim kén chọn cái tổ mà ở
魯頌曰:『戎狄是膺,荊舒是懲。』周公方且膺之,子是之學,亦為不善
變矣。」
Lỗ Tụng viết: Nhung Địch thị ưng, Kinh Thư thị trừng. Châu Công phương thả ưng chi, tử thị chi học, diệc vi bất thiện biến hĩ
Dịch nghĩa: Thiên Lỗ tụng có nói rằng: Rợ Nhung Địch phải đánh mà đuổi đi, nước Kinh Thư phải dẹp mà răn đi. Ông Châu công nếu ở ngày nay, còn muốn đánh những kẻ mọi rợ ấy đi, ngươi lại đi học lấy cái đạo mọi rợ ấy, cũng là chẳng khéo biến vậy
Chú giải: Lỗ tụng = tên thiên tụng trong kinh Thi, lời dẫn đó thuộc về thơ Bí cung. Nhung = Tây nhung. Địch = bắc địch, đều là tên rợ. Kinh = hiệu cũ nước Sở. Thư = một nước ở gần nước Sở, đều biến theo thói rợ
從許子之道,則市賈不貳,國中無偽;雖使五尺之童適市,莫之或欺。布帛長短同,則賈相若;麻縷絲絮輕重同,則賈相若;五穀多寡同,則賈相若;屨大小同,  則賈相若。
Tùng Hứa tử chi đạo, tắc thị giá bất nhị, quốc trung vô nguy, tuy sử ngũ xích chi đồng thích thị, mạc chi hoặc khi; bố bạch tràng đoản đồng, tắc giá tương nhược; ma lũ ti nhứ khinh trọng đồng, tắc giá tương nhược; ngũ cốc đa quả đồng, tắc giá tương nhược; lũ đại tiểu đồng, tắc giá tương nhược
Dịch nghĩa: Ngươi Trần Tương lại nói rằng: Theo cái đạo ngươi Hứa tử, thì giá mua bán ở chợ có nhất định, trong nước không gian dối, dẫu sai đứa trẻ con mươi mười hai tuổi đi chợ cũng chẳng ai nói dối nó; vải lụa bề dài bề ngắn như nhau thì giá như nhau; gai sợi tơ bông phần nhẹ phần nặng như nhau, thì giá như nhau; năm thứ thóc phần nhiều phần ít như nhau, thì giá như nhau; dép bề lớn bề nhỏ như nhau thì giá cũng như nhau
Chú giải: Ngũ xích = năm thước, ngày xưa tính mỗi thước hai tuổi rưỡi, năm thước thì mười hai tuổi rưỡi. Đây là Trần Tương kể ra cái dạo Hứa tử khiến được chợ búa buôn bán không gian dối, để rõ ra rằng cái đạo Hứa tử nên theo. Đạo của Hứa tử muốn khiến cho mọi đồ vật đem bán ở chợ, đều theo một giá mà không kể gì tinh hay thô, tốt hay xấu, chỉ kể về phần dài hay ngắn, nhẹ hay nặng, nhiều hay ít, lớn hay nhỏ mà định giá đều nhau
曰:「夫物之不齊,物之情也。或相倍蓰,或相什百,或相千萬;子比而同之,是亂天下也。巨屨小屨同賈,人豈為之哉?從許子之道,相率而為偽者也,惡能治國家?」
Viết: Phù vật chi bất tề, vật chi tình dã; hoặc tương bột tỉ, hoặc tương thập bách, hoặc tương thiên vạn, tử tị nhi đồng chi, thị loạn thiên hạ dã. Cự lũ tiểu lũ đồng giá, nhân khởi vi chi tai, Tùng Hứa tử chi đạo, tương suất nhi vi nguy giả dã, ô năng trị quốc gia.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ôi, các vật tốt xấu chẳng đều nhau, là cái lẽ tự nhiên của các vật; hoặc hơn nhau gấp một gấp năm, gấp mười gấp trăm, gấp nghìn gấp vạn, khác nhau như thế, mà ngươi so đều lại cùng theo một giá, thế là làm rối loạn cả thiên hạ. Hãy nói như dép lớn dép nhỏ mà giá như nhau, thì ai chịu làm dép lớn dép nhỏ mà giá như nhau, thì ai chịu làm dép lớn nữa, thế thì dép tốt dép xấu mà giá như nhau, ai chịu làm dép tốt nữa. Nếu theo cái đạo Hứa tử thì theo nhau mà làm đồ xấu để lừa dối đó mà thôi, sao hay trị được quốc gia.
Chú giải: Bội = gấp một, Tỷ = gấp năm. Đây là thầy Mạnh kể ra cái lẽ tự nhiên của các vật hạng vẫn có thứ tốt xấu, không thể đồng một giá được, nếu không kể xấu tốt mà đều đồng một giá, thì ai chịu làm thứ tốt, chỉ làm thứ xấu để lừa dối thiên hạ. Thế thì cái thuyết bất nhị giá của Hứa tử, vốn muốn trừ cách gian dối, yên sự cạnh tranh, mà lại thành ra xui cách gian dối, gây sự cạnh tranh, đạo Hứa tử thật không nên theo
VI
墨者夷之,因徐辟而求見孟子。孟子曰:「吾固願見,今吾尚病,病癒,我且往見。」夷子不來。
Mạnh giả Di Chi, nhân Từ Tịch nhi câu kiến Mạnh tử, Mạnh tử viết: Ngô cố nguyện kiến, kim ngô thượng bệnh, bệnh dũ, ngã thả vãng kiến, Di tử bất lai.
Dịch nghĩa: Kẻ học theo đạo Mặc là ngươi Di Chi, nhờ ngươi Từ Tịch mà cầu vào tiếp kiến thầy Mạnh. Thầy mạnh nói rằng: Ta vốn sẵn lòng tiếp kiến, nay ta còn có bệnh, bệnh khỏi, ta sẽ đi tiếp kiến Di tử, Di tử bất tất phải lại.
Chú giải: Mặc = tức là ngươi Mặc Địch. Đạo họ Mặc chủ nghĩa kiêm ái, yêu người với yêu bố, không phân biệt gì nhau. Từ Tịch = học trò thầy mạnh. Đây là thầy Mạnh giả thác ra có bệnh, để xem cái ý Di Chi thành thực hay không thành thực thế nào.
他日又求見孟子。孟子曰:「吾今則可以見矣。不直則道不見,我且直之。吾聞夷子墨者,墨之治喪也,以薄為其道也。夷子思以易天下,豈以為非是而不貴也?然而夷子葬其親厚,則是以所賤事親也。」
Tha nhật hựu cầu kiến Mạnh tử, Mạnh tử viết: Ngô kim tắc khả dĩ kiến hĩ, bất trực tắc đạo bất hiện, ngã thả trực chi. Ngô văn di tử Mặc giả; Mặc chi trị tang dã, dĩ bạc vi kỳ đạo dã. Di tử tư dĩ dịch thiên hạ, khởi dĩ vi phi thị nhi bất quý dã. Nhiên nhi Di tử táng kỳ thân hậu, tắc thị dĩ sở tiện sự thân dã.
Dịch nghĩa: Ngày khác, ngươi Di tử lại cầu tiếp kiến thầy Mạnh. Thầy mạnh bảo với Từ tử rằng: Ta ngày nay thì có thể tiếp kiến được, chẳng nói hết thì đao ta không rõ, ta sẽ nói hết để cho mà kiểu chính lại. Ta nghe rằng Di tử lf người học đạo Mặc; họ Mặc trị việc tang, lấy sự đon bạc làm hợp đạo. Di tử muốn đem đạo Mặc biến dịch phong tục cho thiên hạ, há lại cho cái sự bạc táng ấy làm không phải mà chẳng quý. Thế mà Di tử táng cho bố mẹ mình lại theo về đường hậu, chẳng hoá ra lấy cái điều đạo Mặc coi khinh mà đem để thờ cha mẹ.
Chú giải: Đây là thầy Mạnh cật trách Di tử học theo đạo họ Mặc mà chẳng theo lễ giáo họ Mặc, chắc là trong tâm có điều bất an, để rõ ra rằng đạo họ Mặc trái với lương tâm người.
徐子以告夷子。夷子曰:「儒者之道,古之人『若保赤子』,此言何謂也?之則以為愛無差等,施由親始。」徐子以告孟子。孟子曰:「夫夷子信以為人之親其兄之子為若親其鄰之赤子乎?彼有取爾也。赤子匍匐將入井,非赤子之罪也。且天之生物也使之一本,而夷子二本故也。
Từ tử dĩ cáo Di tử, Di tử viết: Nho giả chi đạo, cổ chi nhân, nhược bảo xích tử, thử ngôn hà vị dã? Chi tắc dĩ vi ái vô si đẳng, thi do thân thuỷ, Từ tử dĩ cáo Mạnh tử, Mạnh tử viết: Phù Di tử tín dĩ vi nhân chi thân kỳ huynh chi tử, vi nhược thân kỳ lân chi xích tử hồ? bỉ hữu thủ nhĩ dã, xích tử bồ bặc tương nhập tỉnh, phi xích tử chi tội dã. Thả thiên chi sinh vật dã, sử chi nhất bản, nhi Di tử nhị bản, cố dã
Dịch nghĩa: Từ tử đem lời thầy Mạnh bảo Di tử. Di tử nói rằng: Bên đạo Nho có nói rằng: Người xưa thương yêu dân như thương yêu con đỏ. Lời ấy chẳng phải là nghĩa kiêm ái hay sao? Chi này thì cho là yêu cha mẹ với yêu người ngoài, vốn không phân biệt thứ bậc khác nhau, nhưng chỉ thi sự yêu là phải từ cha mẹ trước nhất. Từ tử lại đem lời Di tử bảo thầy Mạnh. Thầy Mạnh nói rằng: Ôi con đỏ, mà cho rằng người ta yêu con nhà anh, cũng như yêu con nhà láng giềng đấy hay sao? Lời kinh Thư nói ví như thế nghĩa là thương đứa dân ngu mà phạm phép, không phải là tội đứa dân ngu, cũng như thương đứa con đỏ dại mà khúm núm sắp lăn xuống giếng, không phải là cái tội đứa con đỏ, nên mới ví thương dân như thương con đỏ là thế. Vả, trời sinh ra người, nguyên theo một gốc ở cha mẹ, không yêu ai bằng yêu cha mẹ, lòng yêu bản tự đấy mà suy ra. Chứ như Di tử đã coi cha mẹ như người ngoài, mà thi sự yêu lại tự cha mẹ trước, thế là chia ra hai gốc, cớ thề vậy.
Chú giải: Nhược bảo xích tử = Lời thiên Khang cáo trong kinh Thư. Đây là Di tử viện dẫn sách Nho, lấy cái lời nói ví thương dân như thương con đỏ, mà bảo đạo Nho cũng có thuyết kiêm ái như đạo Mặc, để cự lại thầy Mạnh chê trách mình theo đạo Mặc. Và lại nói đạo Mặc tuy rằng kiêm ái, không có phân thứ bậc, song thì sự yêu vẫn trước tự cha mẹ, thế là suy đạo Mặc mà phụ với đạo Nho, để biện bác rằng mình hậu táng cha mẹ là phải, đều là lời cãi quẩn. Thầy Mạnh nói giải lại nghĩa Kinh Thư không phải nói về thuyết kiêm ái, mà bảo rằng người ta suy lòng yêu ra vốn có thứ bậc, bao giờ thân yêu con nhà anh với con láng giềng vẫn phân biệt khác nhau, nguyên là chỉ có một gốc là yêu cha mẹ hơn cả, rồi suy lòng yêu mến đến mọi người đều có thứ bậc, chứ không như lời Di tử lại chia ra hai gốc
蓋上世嘗有不葬其親者,其親死則舉而委之於壑。他日過之,狐貍食之,蠅蚋姑嘬之。其顙有泚,睨而不視。夫泚也,非為人泚,中心達於面目。蓋歸反虆梩而掩之,掩之誠是也。則孝子仁人之掩其親,亦必有道矣。」
Cái thượng thế thường hữu bất táng kỳ thân giả. Kỳ thân tử, tắc cử nhi uỷ chi ư hác. Tha nhật quá chi, hồ ly thực chi, dăng nhuế cô soái chi. Kỳ tảng hữu tỉ, nghễ nhi bất thị, Phù tỉ dã, phi vị nhân tỉ, trung tâm đạt ư diện mục. Cái qui phản luy ly nhi yểm chi, yểm chi thành thị dã. Tắc hiếu tử nhân nhân chi yểm kỳ thân, diệc tất hữu đạo hĩ.
Dịch nghĩa: Thử nghiệm về đời thượng cổ, khi chửa chế ra táng lễ, từng có kẻ chẳng chôn bố mẹ; bố mẹ chết thì đem bỏ ra ở nơi hang hố. Ngày khác người con đi qua chỗ ấy, thấy loài cáo loài cầy nó đến ăn, loài ruồi loài nhặng nó bậu hút. Người con khi ấy trán có mồ hôi, trông nghiêng mà chẳng dám trông ngay. Ôi, mồ hôi đó, chẳng phải vì người mà có mồ hôi, là thương xót trong tâm đạt ra ngoài nét mặt. Rồi vội về đem đổ sọt đất xe đất, mà chôn lấp cho cha mẹ. Sự chôn lấp cho cha mẹ, thực là sự đương nhiên. Thế thì kẻ hiếu tử, kẻ nhân nhân chôn lấp cho cha mẹ mình, cũng có cái đạo trung hậu đối với cha mẹ vậy.
Chú giải: Cô = tiếng trợ từ. Tỷ = mồ hôi đổ ra nhấp nhấp. Nghễ = trông nghiêng. Phản = đổ lật, như là đem sọt đất mà đổ lật xuống. Luy = sọt xúc đất. Ly = xe chở đất. Yểm = che lấp chôn cho kín. Đây là kể ra cái lễ mai táng cha mẹ, khởi thuỷ từ đời thượng cổ, là bởi một gốc ở lòng thương yêu cha mẹ, phải nên xử cho hậu, chứ không lấy bạc làm quý. Thế thì Di tử mà hậu táng cha mẹ cũng là bởi cái chân tính nhất bản ấy mà phát ra, chứ không nên chấp cái thuyết Ái vô si đẳng, thi do thân thuỷ mà cãi quẩn nữa
徐子以告夷 子。夷子憮然為間曰:「命之矣。」
 Từ tử dĩ cáo Di tử. Di tử vũ nhiên vi nhàn viết: Mệnh Chi hĩ
Dịch nghĩa: Từ tử đem lời thầy Mạnh bảo Di tử, Di tử ngẩn ra một lúc rồi nói rằng: Thật là thầy dạy bảo Chi này vậy
Chú giải: Vũ nhiên = cái bộ ngơ ngẩn biết mình trái. Vi nhàn = khoảng chừng một lúc. Đây là Di Chi nghe lời thầy Mạnh, mà biết thầy có ý dạy bảo mình, mới hoảng nhiên biết rằng mình nhầm lỗi


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét