Thứ Tư, 2 tháng 8, 2017

MẠNH TỬ 17

離婁上 LY LÂU THƯỢNG
孟子曰:「離婁之明,公輸子之巧,不以規矩,不能成方員。師曠之聰,不以六律,不能正五音。堯舜之道,不以仁政,不能賓士天下。
Mạnh tử viết: Ly Lâu chi minh, Công Thâu tử chi xảo, bất dĩ quy củ, bất năng thành phương viên. Sư Khoáng chi thông, bất dĩ lục luật, bất năng chính ngũ âm; Nghiêu Thuấn chi đạo, bất dĩ nhân chính, bất năng bình trị thiên hạ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ngươi Ly Lâu là người mình, gã công Thâu là người xảo, chẳng dùng khuôn tròn thước vuông, chẳng thành được đồ vuông đồ tròn. Quan nhạc sư Khoáng là người thông, chẳng dùng sáu ống luật, chẳng định được năm thứ tiếng. Đạo vua Nghiêu vua Thuấn cốt tại nuôi dân, dạy dân, không thi hành nhân chính thì không bình trị được thiên hạ.
Chú giải: Ly Lâu = Kẻ có tiếng là mắt sáng đời xưa. Công Thâu = người khéo ở nước Lỗ. Qui = cái khuôn làm mẫu để chế đồ tròn. Củ = cái thước làm mẫu để chế đồ vuông, Sư Khoáng = quan nhạc sư nước Tấn tên là Khoáng, là kẻ thẩm âm. Lục luật = cắt dóng trúc ra làm sáu ống âm sáu ống dương, cả thẩy là mười hai ống, để tiết định tiếng cao tiếng hạ trong ngũ âm, là lối âm nhạc ngày xưa. Ngũ âm = Tiếng Cung, thương, giốc, chuỷ, vũ. Đây là mượn hai câu thí dụ để nói cái lẽ trị thiên hạ phải có pháp độ, mà nhân chính tức là cái pháp độ để trị thiên hạ đó.
今有仁心仁聞而民不  被其澤,不可法於後世者,不行先王之道也。
Kim hữu nhân tâm nhân vặn, nhi dân bất bị kỳ trạch, bất khả pháp ư hậu thế giả; bất hành tiên vương chi đạo dã.
Dịch nghĩa: Vua đời nay cũng có người có lòng nhân, tiếng khen là nhân, mà dân chẳng được nhờ ơn, và chẳng có điều gì khá làm phép cho đời sau; là vì chẳng thực hành cái nhân chính của đấng tiên vương vậy.
Chú giải: Nhân tâm = lòng tốt yêu dân. Nhân vặn = tiếng khen là người nhân từ
故曰:徒善不足以為政,徒法不能以自行。
Cố viết: Đồ thiện bất túc dĩ vi chính; đồ pháp bất năng dĩ tự hành.
Dịch nghĩa: Cho nên bảo rằng chỉ có lòng tốt suông thì không đủ làm được chính trị; chỉ có phép hay suông cũng chẳng hay suy làm ra được.
《詩》云:『不愆不忘,率由舊章。』遵先王之法而過者,未之有也。
Thi vân: Bất khiên bất vương, suất do cựu chương. Tuân tiên vương chi pháp nhi quá giả, vị chi hữu dã.
Dịch nghĩa: Kinh Thi nói rằng: chẳng lỗi chẳng quên, theo noi phép cũ. Noi cái phép đấng tiên vương, mà có cái lỗi quên lầm chẳng bình trị được thiên hạ ấy, chửa có lẽ thế bao giờ.
Chú giải: Thi = Thơ Gia Lạc trong thiên Đại nhã.
Đây là nói phải nên noi theo pháp độ của đấng tiên vương
聖人既竭目力焉,繼之以規矩準繩,以為方員平直,不可勝用也。既竭耳力焉,繼之以六律正五音,不可勝用也。既竭心思焉,繼之以不忍人之政而仁覆天下矣。
Thánh nhân ký kiệt mục lực yên, kế chi dĩ quy củ chuẩn thằng, dĩ vi phương viên bình trực, bất khả thắng dụng dã. Ký kiệt nhĩ lực yên, kế chi dĩ lục luật chính ngũ âm, bất khả thắng dụng dã. Ký kiệt tâm tư yên, kế chi dĩ bất nhẫn nhân chi chính, nhi nhân phú thiên hạ hĩ.
Dịch nghĩa: Đấng thánh nhân xưa đã dùng kết sức mắt để chế khí dụng, kế lại chế ra cái quy cái củ cái chuẩn cái thằng, để làm mẫu chế đồ vuông đồ tròn, đồ phẳng đồ thẳng, vì thế cái phép chế tác dùng mãi không cùng. Đã dùng hết sức tai để xét âm nhạc, kế lại đem sáu ống luật định năm thứ tiếng, vì thế cái phép làm nhạc dùng mãi không xiết. Đã hết lòng suy nghĩ yêu dân, kế lại đem cái chính thương người thực hành ra, nên nhân đức của thánh nhân mới che trùm khắp cả thiên hạ vậy.
Chú giải: Chuẩn = cái thước làm mẫu để chế đồ phẳng. Thằng = cái dây làm mẫu để chế đồ thẳng. Phú = che chùm khắp mọi nơi. Đây là nói thánh nhân lập ra chế độ rất là hoàn thiện, sở dĩ đời sau phải nên theo.
故曰:  為高必因丘陵,為下必因川澤。為政不因先王之道,可謂智乎?
Cố viết: Vì cao tất nhân khâu lăng, vi hạ tất nhân xuyên trạch; vi chính bất nhân tiên vương chi đạo, khả vị tri hồ?
Dịch nghĩa: Cho nên nói rằng: Làm nên cao tất nhân gò đống, làm trũng thấp tất nhân sông chằm; làm chính mà chẳng nhân theo cái đạo đấng tiên vương, khá gọi là khôn đấy ư!
Chú giải: Đây là nói thí dụ làm việc gì nên có sở nhân thì dùng sức ít mà nên công nhiều, không thế thì là ngu dại
是以惟仁者宜在高位。不仁而在高位,是播其惡於眾也。
Thị dĩ duy nhân giả nghi tại cao vị, bất nhân nhi tại cao vị, thị bá kỳ ác ư chúng dã.
Dịch nghĩa: Cho nên chỉ ông vua biết đem lòng nhân thực hành nhân chính nên ở ngôi cao, thì dân mới được nhờ; nếu ông vua bất nhân mà ở ngôi cao, thì là gieo rắc cái ácc hại cho dân chúng vậy
上無道揆也,下無法守也;朝不通道,工不信度;君子犯義,小人犯刑,
國之所存者幸也。
Thượng vô đạo quỹ dã, hạ vô pháp thủ dã, triều bất tín đạo, công bất tín độ, quân tử phạm nghĩa, tiểu nhân phạm hình, quốc chi sở tồn giả hạnh dã.
Dịch nghĩa; Người trên không có đạo lý để mà đo đắn, người dưới không có phép tắc để mà giữ gìn, như thế thì trong triều chẳng tin giữ đạo lý, các quan chẳng theo phép tắc, kẻ trên phạm danh nghĩa, kẻ dưới phạm hình pháp, nước mà còn được là may.
Chú giải: Quĩ = đo lường sửa sang mọi sự mọi vật. Công = các quan. Quân tử = trỏ người ở ngôi trên. Tiểu nhân = kẻ dưới. Đây là kể rõ ra cái tai vạ ông vua bất nhân mà ở ngôi cao, thì thần dân đều hoá ra gian tà làm phạm phép mà đến mất nước.
故曰:城郭不完,兵甲不多,非國之災也。田野不辟,貨財不聚,非國之害也。上無禮,下無學,賊民興,喪無日矣。
Cố viết: Thành quách bất hoàn, binh giáp bất đa, phi quốc chi tai dã, điền bã bất tịch, hoá tài bất tụ, phi quốc chi hại dã. Thượng vô lễ, hạ vô học, tặc dân hưng, tang vô nhật hĩ.
Dịch nghĩa: Cho nên nói rằng: Thành quách chẳng hoàn bị, đồ binh giáp chẳng có nhiều, chẳng phải là tai nạn trong nước vậy; ruộng nương chẳng mở mang, của cải chẳng tích tụ, chẳng phải là sự nguy hại trong nước vậy; người trên không có lễ giáo, người dưới không có học thức, kẻ dân tàn tặc dây lên, nước mất đến nơi.
Chú giải: Đây là kể rõ ra ái cớ nước đến tai hại là tại ông vua bất nhân gieo rắc cái ác cho dân. Tự đây trở lên là thiết trách về kẻ làm vua. Tự đoạn dưới trở xuống là thiết trách về kẻ làm tôi. Vì vua tôi có đồng đức đồng tâm, mới thành ra được cái công hiệu bình trị thiên hạ quốc gia.
《詩》曰:『天之方蹶,無然泄泄。』
Thi viết: Thiên chi phương quê, vô nhiên duệ duệ
Dịch nghĩa: Kinh Thi nói rằng: Trời đương làm nghiêng đổ, chớ biếng trễ như thế
Chú giải: Thi = thơ bản trong thiên đại nhã. Duệ duệ = dáng bộ lười biếng trễ nải, chỉ a dua với đời
泄泄猶沓沓也。
Duệ duệ do đạp đạp dã
Dịch nghĩa: Kinh Thi nói duệ duệ cũng như tục ngữ nói đạp đạp vậy.
Chú giải: Đạp đạp = nghĩa cũng như duệ duệ, chừng tục ngữ đời thầy Mạnh có cái tiếng như vậy
事君無義,進退無禮,言則非先王之道者,猶沓沓也。
Sự quân vô nghĩa, tiến thoái vô lễ, ngôn tắc phi tiên vương chi đạo giả, do đạp đạp dã
Dịch nghĩa: Kẻ thờ vua không có nghĩa, khi tiến khi thoái không có lễ, nói ra thì phỉ báng cái đạo đấng tiên vương, thế là đạp đạp vậy.
Chú giải: Đây là kể ra sự thực kẻ làm tôi không biết giúp vua
故曰:責難於君謂之恭,陳善閉邪謂之敬,吾君不  能謂之賊。」
Cố viết: Trách nan ư quân vị chi cung, trần thiện bế tà vị chi kính. Ngô quân bất năng vị chi tặc.
Dịch nghĩa: Cho nên bảo rằng trách mong vua lấy những sự viễn đại khó làm, gọi là cung là tôn vua đó; bày điều thiện át điều ta, gọi là kính là trung với vua đó. Nếu bảo rằng vua ta không thể làm được cái đạo tiên vương, mà chẳng trách điều khó bày điều thiện, gọi là tặc là kẻ làm hại vua.
Chú giải: Đây là thiết trách kẻ làm tôi phải nên hết lòng giúp vua để thực hành lấy vương chính
II
孟子曰:「規矩,方員之至也。聖人,人倫之至也。
Mạnh tử viết: Qui củ, phương viên chi chí dã, thánh nhân, nhân luân chi chí dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Cái quy cái củ, là khuôn chí đóng để làm vuông tròn; đấng thánh nhân là bậc chí đáng về đạo làm người
欲為君,盡君道;欲為臣,盡臣道,二者皆法堯舜而已矣。不以舜之所以事堯事君,不敬其君者也;不以堯之所以治民治民,賊其民者也。
Dục vi quân, tận quân đạo, dục vi thần tận thần đạo, nhị giả giai pháp Nghiêu Thuấn nhi dĩ hĩ. Bất dĩ Thuấn chi sở dĩ sự Nghiêu sự quân, bất kính kỳ quân giả dã; bất dĩ Nghiêu chi sở dĩ trị dân trị dân, tặc kỳ dân giả dã.
Dịch nghĩa: Nay muốn làm vua mà hết được đạo vua, muốn làm tôi mà hết được đạo tôi, hai điều ấy đều bắt chước vua Nghiêu vua Thuấn mà thôi vậy. Nếu không đem cái đoạ vua Thuấn sở dĩ thờ vua Nghiêu mà thờ vua mình, là không kính vua mình vậy; không đem cái đạo vua Nghiêu sở dĩ trị dân mà trị dân mình, là làm hại dân mình vậy.
Chú giải: Sở dĩ = Nên giải nghĩa như tiếng những điều. Đây là nói bắt chước Nghiêu Thuấn để ở cho hết đạo làm vua làm tôi, cũng như là dùng cái quy cái củ để làm cái khuôn phép làm vuông làm tròn, thì mới là đúng phép rất đáng vậy.
孔子曰:『道二,仁與不仁而已矣。』
Khổng tử viết: Đạo nhị, nhân dữ bất nhân nhi dĩ hĩ.
Dịch nghĩa: Ông Khổng nói rằng: Đạo có hai: nhân và bất nhân mà thôi vậy.
Chú giải; Đây là dẫn lời ông Khổng, để rõ ra rằng bắt chước Nghiêu Thuấn mà làm được hết đạo về vua tôi là nhân, nếu không bắt chước Nghiêu Thuấn mà nhờn vua hại dân là bất nhân, để răn người ta nên theo về đường nhân mà làm nho hết đạo nhân luân như Nghiêu Thuấn
暴其民甚,則身國亡,不甚,則身危國削,名之曰『幽』、『厲』,雖孝子慈孫,百世不能改也。
Đạo kỳ dân thậm, tắc thân thí quốc vong, bất thậm, tắc thân nguy quốc tước; danh chi viết U Lệ, tuy hiếu tử từ tôn, bách thế bất năng cải dã.
Dịch nghĩa: Làm hại dân mình lắm, thì thần bị giết nước bị mất, vừa vừa thì thân bị nguy nước bị yếu; ngày sau tên thuỵ hoặc gọi là U, hoặc gọi là Lệ, dẫu con hiếu cháu hiền, trăm đời sau không thể vì tiền nhân đổi đi được vậy
Chú giải: U, Lệ = tên thuỵ hai ông vua về thời cuối nhà Châu. U nghĩa là hôn ám. Lệ nghĩa là bạo ngược, đều là cái tên xấu. Phàm ông vua mất rồi, thiên hạ công nghị, vua hay thì đặt tên hay, vua dở thì đặt tên dở, gọi là tên thuỵ. Đây là nói cái tai vạ của ông vua bất nhân, không những là hại ở đời mình, mà lại còn để tiếng xấu đến đời sau, rất là đáng sợ
《詩》云:『殷鑒不遠,在夏後之世。』此之謂也。」
Thi vân: Ân giám bất viễn, tại Hạ hậu chi thế. Thử chi vị dã
Dịch nghĩa: Kinh Thi nói rằng: Nhà Ân soi gương chẳng xa, ở ngay đời vua nhà Hạ. Chính rằng thế vậy.
Chú giải: Thi = thơ Đãng thiên đại nhã. Đây là dẫn kinh Thi nói về vua Trụ nhà Thương (Ân) nên lấy vua Kiệt nhà Hạ làm gương người đời sau thì lại nên lấy vua U vua Lệ làm gương, răn sự bất nhân mà bắt chước lấy điều nhân như vua Nghiêu vua Thuấn
III
孟子曰:「三代之得天下也以仁,其失天下也以不仁。
Mạnh tử viết: Tam đại chi đắc thiên hạ dã dĩ nhân, kỳ thất thiên hạ dã dĩ bất nhân.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Đời tam đại sở dĩ được thiên hạ là vì làm điều nhân, sở dĩ mất thiên hạ là vì làm điều bất nhân.
Chú giải: Tam đại = Nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu, vua Vũ, vua Thang, vua Văn, vua Võ là vua đời Tam đại làm nhân mà được thiên hạ; vua Kiệt, vua Trụ, vua U, vua Lệ bất nhân mà mất thiên hạ
國之所以廢興存亡者亦然。
Quốc chi sở dĩ phế hưng tồn vong giả diệc nhiên.
Dịch nghĩa: Nước chư hầu sở dĩ bị phế hay hưng vượng, còn hay mất cũng vì lẽ nhân với bất nhân như thế cả.
天子不仁,不保四海;諸侯不仁,不保社稷;卿大夫不仁,不保宗廟;士庶人不仁,不保四體。今惡死亡而樂不仁,是由惡醉而強酒。」
Thiên tử bất nhân, bất bảo tứ hải; chư hầu bất nhân, bất bảo xã tắc; khanh đại phu bất nhân, bất bảo tôn miếu; sĩ thứ nhân bất nhân, bất bảo tú thể. Kim ố tử vong nhi lạc bất nhân, thị do ố tuý nhi cưỡng tửu.
Dịch nghĩa: Vua thiên tử mà bất nhân, thì chẳng giữ được bốn bể; vua chư hầu mà bất nhân thì chẳng giữ được nền xã nền tắc; quan khanh quan đại phu mà bất nhân, thì chẳng giữ được tôn miếu; kẻ sĩ kẻ thứ nhân mà bất nhân, thì chẳng giữ được thân thể. Nay ghét sự chết sự mất, mà vui thích làm điều bất nhân, ấy cũng như ghét sự say mà gượng uống mãi rượu.
Chú giải; Tứ thể = tức là tứ chi, hai chân hai tay, là trỏ về cái thân. Toàn chương này là răn những kẻ làm điều bất nhân
IV
孟子曰:「愛人不親,反其仁;治人不治,反其智;禮人不答,反其敬。
Mạnh tử viết: Ái nhân bất thân, phản kỳ nhân; trị nhân bất trị, phản kỳ trí; lễ nhân bất đáp, phản kỳ kính.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Yêu người mà người chẳng thân, nên xét lại điều nhân của mình đã thật nhân chưa; trị người mà người chẳng phục, nên xét lại điều trí của mình đã thật trí chưa; lấy lễ đáp người mà người chẳng đáp, nên xét lại điều kính của mình đã thật kính chưa.
行有不得者,皆反求諸己。其身正而天下歸之。
Hành hữu bất đắc giả, giai phản cầu chư kỷ, kỳ thân chính, nhi thiên hạ quy chi.
Dịch nghĩa: Phàm làm việc gì mà có điều chẳng được như nguyện, đều nên trách lại ở mình; cái thân mình chính, thì thiên hạ tự quy phục mình.
Chú giải: Phản cầu = trở lại xét mà tránh mình. Chính = ngôn động hành vi đáng với lẽ trời, hợp với lòng người, đều chính đáng cả. Đây là nói cái công hiệu được thiên hạ theo về, là bởi hay trách mình, sửa lại mình cho chính, để khuyên bảo các vua chúa ở đời muốn trị người, thì cốt phải hết nghĩa vụ ở mình
《詩》云:『永言配命,自求多福。』」
Thi vân: Vĩnh ngôn phối mình, tự cầu đa phúc.
Dịch nghĩa: Kinh Thi có nói rằng: dài nói hợp với mệnh trời, tự mình cầu lấy nhiều phúc. Đây dẫn kinh Thi là nói tự mình phải thường nghĩ cho hợp lẽ trời thì phúc tự đến, để thừa kết lại ý chương trên
V
孟子曰:「人有恆言,皆曰『天下國家』,天下之本在國,國之本在家,家之本在身。」
Mạnh tử viết: Nhân hữu hằng ngôn giai viết: Thiên hạ quốc gia. Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Thiên hạ quốc gia. Nhưng chưa biết rằng cái gốc thiên hạ là ở nước, cái gốc nước là ở nhà, cái gốc nhà là ở thân mình.
Chú giải: Đây là bảo người ta nên biết điều gốc, phải biết thứ tự nhà rồi mới đến nước, nước rồi mới đến thiên hạ, mà suy cho cùng về nghĩa tu thân.
VI
孟子曰:「為政不難,不得罪於巨室。巨室之所慕,一國慕之;一國之所慕,天下慕之。故沛然德教,溢乎四海。」
Mạnh tử viết: Vi chính bất nan, bất đắc tội ư cự thất; cự thất chi sở mộ, nhất quốc mộ chi; nhất quốc chi sở mộ, thiên hạ mộ chi; cố bái nhiên đức giáo dật hồ tứ hải.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ông vua muốn thì chính ra trong thiên hạ cũng chẳng khó gì, chỉ cốt tu cái thân cho chính, không đắc tội với các họ to; các họ to phục mến thì cả nước phục mến; cả nước phục mến thì thiên hạ phục mến; tự khắc là trôi chẩy đức trạch giáo hoá đi đầy khắp trong bốn bể.
Đây là nói người quân tử trị thiên hạ chẳng lo lòng người chẳng phục, chỉ lo thân mình chẳng tu, cũng là thừa tiếp ý chương trên mà nói.
VII
孟子曰:「天下有道,小德役大德,小賢役大賢。天下無道,小役大,弱役強,斯二者,天也。順天者存,逆天者亡。
Mạnh tử viết: Thiên hạ hữu đạo, tiểu đức dịch đại đức, tiểu hiền dịch đại hiền. Thiên hạ vô đạo, tiểu dịch đại, nhược dịch cường, kỳ nhị giả, thiên dã. Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Lúc thiên hạ có đạo, người đều tu đức, kẻ đức nhỏ phục dịch cho kẻ đức lớn, kẻ hiền nhỏ phục dịch cho kẻ hiền lớn; lúc thiên hạ không đạo, người đều cậy sức, kẻ thế nhỏ phải phục dịch kẻ thế lớn, kẻ sức yết phải phục dịch kẻ sức mạnh; hai điều đó là cái lý thế đương nhiên vậy; kẻ thuận về lý thế đương nhiên thì còn, kẻ trái với lý thế đương nhiên thì mất.
Chú giải: Thiên = trời, tức là cái lý thế đương nhiên. Chương này là khuyên các vua chư hầu phải nên theo cái lý thế đương nhiên của trời mà làm điều nhân
齊景公曰:『既不能令,又不受命,是物也。』涕出而女於
Tề Cảnh công viết: Ký bất năng lệnh, hựu bất thụ mệnh,  thị tuyệt vật dã. Thế xuất nhi nhứ ư ngô.
Dịch nghĩa: vua Cảnh công nước Tề có nói rằng: Đã chẳng có thể ra lệnh khiến được người, lại chẳng chịu nghe mệnh người, thế là đoạn tuyệt với người. Vậy nên phải chẩy nước mắt mà gả con gái cho nước Ngô.
Chú giải: Vật – người. Nhứ = đem con gái gả cho người. Đây là dẫn lời vua Tề liệu tính về kế giao thiệp mà phải chịu nhún với nước Ngô, để chứng ra cái sự thực nước nhỏ phải phục dịch nước lớn, kẻ yếu phải phục dịch kẻ mạnh.
今也小國師大國,而恥受命焉,是猶弟子而恥受命於先師也。
Kim dã, tiểu quốc sư đại quốc, nhi sỉ thụ mệnh yên, thị do đệ tử nhi sỉ thụ mệnh ư tiên sư dã.
Dịch nghĩa: Nay nước nhỏ chỉ bắt chước cái sự dở của nước lớn, mà lại lấy sự phải chịu mệnh làm xấu hổ, ấy cũng như học trò lấy sự thụ mệnh ông thầy làm xấu hổ, thì không thể được vậy.
Chú giải: Sư = bắt chước
如恥之,莫若師文王,師文王,大國五年,小國七年,必為政於天下矣。 
Như sỉ chi, mạc nhược sư Văn vương; sư Văn vương, đại quốc ngũ niên, tiểu quốc thất niên, tất vi chính ư thiên hạ hĩ.
Dịch nghĩa:Nếu lấy làm xấu hổ, thì chẳng gì bằng bắt chước vua Văn vương, thực hành mọi điều nhân chính; bắt chước Văn vương thì nước lớn chừng độ năm năm, nước nhỏ chừng độ bảy năm, tất cầm quyền chính trị ở trong thiên hạ vậy.
Chú giải; Đây là nhân cái lòng xấu hổ của các nước nhỏ đời bấy giờ mà khuyên bảo lấy sự tu đức tự cường
《詩》云:『商之孫子,其麗不億。上帝既命,侯於周服。侯服於周,天命
靡常。殷士膚敏,祼將於京。』孔子曰:『仁不可為眾也夫!國君好仁,天下無敵。』
Thi vân: Thương chi tôn tử, kỳ lệ bất ức; thượng đế ký mệnh, hầu vu Châu phục; hầu phục vụ Châu, thiên mệnh mĩ thường; Ân sĩ phu mẫn, quán tương vu kinh. Khổng tử viết; Nhân, bất khả vi chúng dã; phù quốc quân hiếu nhân, thiên hạ vô địch.
Dịch nghĩa: Kinh Thi có nói rằng: Con cháu nhà Thương, số chẳng kể ức; mệnh trời đã bảo, phải phục về nhà Châu; sở dĩ phải phục nhà Châu là vì mệnh trời chẳng thường, chỉ theo về kẻ có đức; quan nhà Ân những kẻ lớn lao nhanh nhẹn, cũng đều chấp lễ quán trợ tế ở kinh đô nhà Châu. Ông Khổng đọc thơ ấy than rằng: Người nhân, thì chẳng ai cậy nhiều người mà đương nổi. Ôi, đấng quốc quân ham thích làm sự nhân, thì thiên hạ còn ai địch được.
Chú giải; Thi = thơ Văn vương thiên Đại nhã. Lệ = số. Ức = mười vạn. Hầu = cũng như chữ duy, nghĩa là bụi là chỉ, tiếng đưa đẩy. Phu = lớn. Mẫn = Nhanh, Phu mẫu = tài mạo lớn lao nhanh nhẹn. Quán = tót, khi tế tôn miếu, rót chén rượu xuống đất để làm phép giáng thần, gọi là lễ quán. Tương = giúp đỡ, trợ tế. Ân = tức là nhà Thương. Đây là dẫn kinh Thi với lời ông Khổng để kể ra cái sự thực vua Văn vương làm nhân mà thiên hạ quy phục, để khuyên vua các nước nên bắt chước vua Văn vương
今也欲無敵於天下,而不以仁,是猶執熱而不以濯也。《詩》云:『誰能執熱,逝不以濯?』」
Kim dã dục vô địch ư thiên hạ, nhi bất dĩ nhân, thị do chấp nhiệt nhi bất dĩ trạc dã. Thi vân: Thuỳ năng chấp nhiệt, thệ bất dĩ trạc.
Dịch nghĩa: Nay muốn thiên hạ không ai địch nổi mình mà chẳng bắt chước Văn vương làm nhân chính, ấy cũng như cầm cái vật nóng mà chẳng đem nước rửa bát vậy. Kinh Thi có nói rằng: Ai có thể cầm vật nóng, mà chẳng đem nước mát rửa.
Chú giải: Thi = thơ Tang nhu thiên đại nhã. Thệ = tiếng trợ ngữ. Tiết này dẫn lời kinh Thi là để tỏ rằng ai muốn vô địch mà chẳng làm nhân đức sao được.
VIII
孟子曰:「不仁者,可與言哉?安其危而利其葘,樂其所以亡者。不仁而可與言,則何亡國敗家之有?
Mạnh tử viết: Bất nhân giả khả dữ ngôn tai. An kỳ nguy nhi lợi kỳ tai, lạc kỳ sở dĩ vong giả. Bất nhân nhi khả dữ ngôn, tắc hà vong quốc bại gia chi hữu.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng; Kẻ bất nhân kia khá lấy lời trung ngôn mà bảo được đâu. Nó chỉ yên về sự nguy hiểm, mà thích về sự tai vạ, vui về những đường làm cho diệt vong. Nếu kẻ bất nhân kia mà khá cùng bảo lấy lời phải được, thì sao đến nỗi mất nước tan nhà.
Chú giải: Sở dĩ = Cái nguyên nhân xui nên. Sở dĩ vong = cái cớ làm cho đến diệt vong, tức là những sự bạo ngược hoang dâm. Đây là cảnh tỉnh cho những kẻ có nhà có nước mà hôn mê bất nhân
有孺子歌曰:『滄浪之水清兮,可以濯我纓;滄浪之水濁兮,可以濯我足。
Hữu nhụ tử ca viết: Thương lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh; Thương lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc.
Dịch nghĩa: Có kẻ nhụ tử hát rằng: Nước sông Thương lang trong vậy, khá đem giặt mũ ta; nước sông Thương làm đục vậy, khá đem rửa chân ta.
Chú giải: Nhụ tử: gã trẻ con. Thương lang = tên một con sông. Trạc = giặt rửa.
孔子曰:『小子聽之!清斯濯纓,濁斯濯足矣,自取之也。』
Khổng tử viết; Tiểu tử thính chi, thanh tư trạc anh, trọc tư trạc túc hĩ, tự thủ chi dã.
Dịch nghĩa: Ông Khổng nghe câu hát ấy nói rằng: Kẻ tiểu tử nghe lấy đấy: Trong thì dùng để giặt dải mũ, đục thì dùng để rửa chân, là do cái nước sông Thương lang tự thủ đó vậy.
Chú giải: Tiểu tử = lời gọi học trò, và lời học trò xưng mình. Tự thủ = do tự mình làm ra, không phải là do bề ngoài xui nên, nghĩa là hay dở đều tự mình làm ra cả. Đây là dẫn lời ca với lời ông Khổng, để rõ ra rằng kẻ bất nhân đến nỗi bại vong, là do tự thủ, không phải là tại trời hoặc tại người.
夫人必自侮,然後人侮之;家必自毀,而後人毀之;國必自伐,而後人伐之。 
Phù nhân tất tự vũ, nhiên hậu nhân vũ chi; gia tất tự huỷ, nhi hậu nhân huỷ chi; quốc tất tự phạt, nhi hậu nhân phạt chi.
Dịch nghĩa: Ôi, người kia tất tự mình khinh nhờn mình trước, rồi sau người ngoài mới khinh nhờn mình; nhà kia tất tự trong nhà huỷ hoại trước, rồi sau người ngoài mới huỷ hoại mình; nước kia tất tự trong nước sát phạt nhau trước, rồi sau người ngoài mới sát phạt mình.
Chú giải: Tiết này là nói nhà nước mà đến phá huỷ đều là tự thủ cả.
《太甲》曰:『天作孽,猶可違;自作孽,不可活』,此之謂也。」
Thái giáp viết: thiên tác nghiệt do khả vi, tự tác nghiệt bất khả hoạt. Thử chi vị dã.
Dịch nghĩa: thiên Thái giáp trong kinh Thư có nói rằng: Trời làm ra tai vạ còn có thể tránh được, tự mình làm ra tai vạ, chẳng có thể sống được. Chính là nghĩa ấy.
Chú giải: Đây là dẫn lời kinh Thư để chứng ra rằng mình tự tác nghiệt là mình tự thủ tai vạ, thì không thể sống được
IX
孟子曰:「桀紂之失天下也,失其民也。失其民者,失其心也。得天下有道:得其民斯得天下矣。得其民有道,得其心斯得民矣。得其心有道:所欲,與之聚  之;所惡,勿施爾也。
Mạnh tử viết: Kiệt Trụ chi thất thiên hạ dã, thất kỳ dân dã; thất kỳ dân giả, thất kỳ tâm dã. Đắc thiên hạ hữu đạo, đắc kỳ dân, tư đắc thiên hạ hĩ; đắc kỳ dân hữu đạo, đắc kỳ tâm, tư đắc dân hĩ; đắc kỳ tâm hữu đạo, sở dục dữ chi tụ chi, sở ố vật thi, nhĩ dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Vua Kiệt vua Trụ sở dĩ mất thiên hạ là vì mất dân; sở dĩ mất dân, là vì mất lòng dân. Được thiên hạ há chẳng có đạo, được dân, thì được thiên hạ vậy; được dân há chẳng có đaọ, được lòng dân thì được dân vậy; được lòng dân há chẳng có đạo, điều gì dân muốn thì thu họp điều ấy lại cho dân, điều gì dân ghét thì chớ đem điều ấy ra làm hại dân, cái đạo được lòng dân như thế mà thôi.
Chú giải; Sở dục = những điều ưa muốn, như những sự no ấm yên vui. Sở ố = Những điều ghét, không ưa, như những sự đói rét lao khổ. Chương này lf xét về cái gốc sở dĩ thất thiên hạ, đắc thiên hạ, mà khuyên phải ở cho được lòng dân thì mới được thiên hạ
民之歸仁也,猶水之就下,獸之走壙也。
Dân chi quy nhân dã, do thuỷ chi tựu hạ, thú chi tẩu khóng dã.
Dịch nghĩa: Dân theo về với người nhân, cũng như nước chẩy xuống chỗ thấp, loài thú chạy ra quãng đồng ruộng.
Chú giải: Nhân = tức là người thi hành nhân chính, hay làm thoả được lòng sở dục của dân và hay bỏ được những điều sở ố cho dân
故為淵驅魚者,獺也;為叢驅爵者,鸇也;為湯、武驅民者,桀與紂也。
Cố vị uyên khu ngư giả thát dã; vị tùng khu tước giả chiên dã; vị Thang Vũ khu dân giả Kiệt dữ Trụ dã.
Dịch nghĩa: cho nên vì vực xua cá lại đó là loài thát vật; vì rừng xua chim lại đó là loại chiên vậy; vì vua Thang vua Vũ xua dân lại đó là vua Kiệt với vua Trụ vậy.
Chú giải: Thát  = con rái cá. Tùng = búi rừng rậm. Tước = chim sẻ. Chiên = loài chim dữ, như loài chim cắt, hay bắt chim sẻ.
Tiết này là thừa tiếp tiết trên mà nói dân vốn theo về người nhân mà ghét kẻ bất nhân, kẻ bất nhân giống như loài thái, loài chiên dữ tợn, lại càng xua dân theo về người nhân.
今天下之君有好仁者,則諸  侯皆為之駆矣;雖欲無王,不可得已。
Kim thiên hạ chi quân hữu hiếu nhân giả, tắc chư hầu giai vị chi khu hĩ; tuy dục vô vương, bất khả đắc dĩ.
Dịch nghĩa: nay các vua trong thiên hạ, có vua nào vui thích làm sự nhân, thì mọi nước chư hầu bạo ngược kia đều vì ông vua ấy mà xua dân lại vậy; dẫu muốn không thịnh vượng, cũng chẳng thể được vậy.
Chú giải: Vương = thống trị cả thiên hạ mà được thịnh vượng
今之欲王者,猶七年之病求三年之艾也。為不畜,終身不得。不志於仁,終身憂辱,以陷於死亡。
Kim chi dục vương giả, do thất niên chi bệnh, cầu tam niên chi ngải dã. Cẩu vi bất súc, chung thân bất đắc. Cẩu bất chi ư nhân, chung thân ưu nhục, dĩ hãm ư tử vong.
Dịch nghĩa: Nay kẻ muốn thịnh vượng, cũng như cái bệnh bảy năm phải cần đến cỏ ngải ba năm để chữa mới được. Nếu mà chẳng có súc tích trước, suốt đời chẳng được cái cỏ ngải kinh niên thì chữa sao được bệnh. Nay các nước chư hầu nếu không chí hướng về điều nhân thì suốt đời phải lo sợ sỉ nhục, rồi sa sút đến chết mất.
Chú giải: Ngảu = tên một thứ cỏ dùng để chữa bệnh, càng kinh niên càng hay. Đây là nói cái nước tích tệ đã lâu mà nay muốn thịnh vượng, thì phải cập thời làm sự nhân, cũng như cái bệnh đã lâu ngày mà muốn khỏi bệnh, thì phải cập thời súc tích cỏ ngải.
《詩》云:『其何能  淑?載胥及溺』,此之謂也。」
Thi vân: Kỳ hà năng thục, tái tư cập nịch. Thử chi vị dã.
Dịch nghĩa: Kinh Thi có nói rằng: Người chẳng làm điều thiện, thì cùng đến chìm đắm. Chính là nghĩa thế.
Chú giải: Thi = Thơ Tang nhu trong thiên Đại Nhã. Thục = điều thiện. Tái = thì. Tư = Cùng. Đây là dẫn lời kinh Thi để kết thúc về cái nghĩa kẻ bất nhân rồi cũng đến chết mất.
X
孟子曰:「自暴者,不可與有言也;自棄者,不可與有為也。言非禮義,謂之自暴也;吾身不能居仁由義,謂之自棄也。」
Mạnh tử viết: Tự bạo giả bất khả dữ hữu ngôn dã; tự khí giả bất khả dữ hữu vị dã. Ngôn phi lễ nghĩa, vị chi tự bạo dã; ngô thân bất năng cư nhân do nghĩa, vị chi tự khí dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Kẻ tự hại mình ấy, không thể cùng nói với được vậy; kẻ tự bỏ mình ấy không thể cùng làm với được vậy. Nói càn chê bai cả điều lễ nghĩa, gọi là kẻ tự hại mình; bảo rằng thân ta không thể ở điều nhân noi điều nghĩa được, ấy gọi là kẻ tự bỏ mình vậy.
Chú giải: Tự bạo = kẻ tự hại mình, ai bảo cho lời nói phải cũng cự đi mà không tin. Tự khí = kẻ tự bỏ mình, ai dẫn cho làm đường phải cũng tuyệt đi mà không làm. Chương này là răn những kẻ tự bạo tự khí, không chịu cố gắng làm điều nhân nghĩa.
「仁,人之安宅也;義,人之正路也。
Nhân nhân chi an trạch dã, nghĩa, nhân chi chính lộ dã.
Dịch nghĩa: Điều nhân là cái nhà yên ổn của người ta vậy; điều nghĩa là cái đường chính đại của người ta vậy
曠安宅而弗居,舍正路而不由,哀哉!」
Khoáng an trạch nhi phất cư, xả chính lộ nhi bất do, ai tai.
Dịch nghĩa: Để không cái nhà yên ổn mà chẳng ở, bỏ hoài cái đường chính đại mà chẳng noi, khá thương thay!
Chú giải; Toàn chương này là kể ra một hạng người hư hỏng, tự hoại mất bản tính đáng nên thương hại, để răn cho người đời
XI
孟子曰:「道在邇,而求諸遠;事在易,而求諸難。人人親其親、長其長,而天下平。」
Mạnh tử viết: Đạo tại nhĩ nhi cầu chư viễn; sự tại dị nhi cầu chư nan; nhân nhâ thân kỳ thân trưởng kỳ trưởng, nhi thiên hạ bình.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng; Đạo vốn ở chốn gần, mà người ta cầu về đàng xa; sự vốn ở điều dễ, mà người ta cầu về đáng khó; đạo chẳng qua yêu đáng thân kính người trưởng, người ấy người khác đều yêu đấng thân mình, kính người trưởng mình, thì thiên hạ thái bình.
Chú giải; Nhĩ = nghĩa là gần, tức là trỏ người thân người trưởng ở gần với mình, tức là đạo luân thường ở đấy. Dị = dễ, trỏ về cái việc yêu đáng thân kính người trưởng là việc rất dễ, Thân kỳ thân, trưởng kỳ trưởng = hai chữ thân chữ trưởng trên là thuộc về động tự, nghĩa là yêu kính. Chữ thân chữ trưởng ở dưới thuộc về danh dự, nghĩa là đấng thân người trưởng.
Chương này là nói đạo học không phải ở cao xa, chỉ cầu ở chốn gần mà làm thì cực dễ
XII
孟子曰:「居下位而不獲於上,民不可得而治也。獲於上有道,不信於友,弗獲於上矣。信於友有道,事親弗悅,弗信於友矣。悅親有道,反身不
誠,不悅於 親矣。誠身有道,不明乎善,不誠其身矣。
Mạnh tử viết; Cư hạ vị nhi bất hoạch ư thượng, dân bất khả đắc nhi trị dã; hoạch ư thượng hữu đạo, bất tín ư hữu, phất hoạch ư thượng hĩ; tin ư hữu hữu đạo, sự thân phất duyệt, phất tin ư hữu hĩ; duyệt thân hữu đạo, phản thân bất thành, bất duyệt ư thân hĩ; thành thân hữu đạo, bất minh hồ thiện, bất thành kỳ thân hĩ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ở ngôi dưới mà chẳng được tin dùng với bề trên, thì dân chẳng thể trị được vậy; được tin dùng bới bề trên há chẳng có đạo, chẳng được tin phục với bè bạn thì danh dự chẳng hiển, chẳng được tin dùng với bề trên vậy; được tín phục với bè bạn há chẳng có đạo, thờ đấng thân chẳng được đấng thân đẹp lòng, thì tiết hạnh chẳng nổi, chẳng được tín phục với bè bạn vậy; đẹp lòng đấng thân há chẳng có đạo, xét mình chẳng thực, thì sự thờ đấng thân đều là sự giả dối, chẳng được đẹp lòng với đấng thân vậy; thành thực cái thân há chẳng có đạo, chẳng xét rõ về lẽ thiện, thì chẳng thực biết được điều thiện, chẳng thành thực được cái thân vậy.
Chú giải: Chương này bảo người ta phải suy biết lẽ thiện để mà thành thực lấy cái thân
是故誠者,天之道也。思誠者,人之道也。
Thị cố thành giả thiên chi đạo dã, tư thành giả. Nhân chi đạo dã.
Dịch nghĩa: Thế cho nên thành thực ấy là cái lẽ bản nhiên của trời phú cho, mà nghĩ sao cho thành thực lấy cái thân ấy là cái lẽ đương nhiên của người ta vậy.
Chú giải; Tiết này là nói người ta phải nghĩ sao cố gắng cho thành để giữ lấy cái lẽ bản nhiên thành thực của trời phú cho.
至誠而不動者,未之有也。不誠,未有能動者也。」
Chí thành nhi bất động giả, vị chi hữu dã; bất thành vị hữu năng động giả dã.
Dịch nghĩa: Quả là rất thành mà chẳng cảm động được người ấy chưa có thế bao giờ; chẳng thành thực thì không khi nào cảm động được người vậy.
Chú giải: Chí thành = thành thực không một chút gì giả dối. Người ta có cái công phu tư thành, (nghĩ sao cho thành thực) rồi mới tiến lên vị chí thành được. Động = khiến nên cảm động, ví dục như xét mình quả đã chí thành thì tự khắc cảm được đấng thân đẹp lòng khen là hiếu, vua tin là trung, cho đến bạn cũng tin dân cũng phục, thế là cảm động được mọi người.
Chương này là bảo người ta phải thành thực lấy cái thân, mà trước hết phải nghĩ sao cho thành thực để mà tu thân, mà lại phải suy biết đến lẽ chí thiện thì mới tiến lên bậc chí thành được.
XIII
孟子曰:「伯夷辟紂,居北海之濱,聞文王作興,曰:『盍歸乎來!吾聞西伯善養老者。』太公辟紂,居東海之濱,聞文王作興,曰:『盍歸乎來!
吾聞西伯  善養老者。』
Mạnh tử viết: Bá Di tị Trụ cư Bắc hải chi thân, băn Văn vương tác hưng viết: Hạp quy hồ lai, ngô văn tây bá thiện dưỡng lão giả. Thái công tị Trụ cư Đông hải chi tân, văn Văn vương tác, hưng viết: Hạp quy hồ lai, ngô văn tây bá thiện dưỡng lão giả.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ông Bá Di tránh cái loạn vua Trụ ra ở biến Bắc hải, nghe Văn vương dấy lên làm chức Tây bá, vùng dậy nói rằng: Sao chẳng về đi, ta nghe quan Tây bá thi nhân chính khéo nuôi người già. Ông Thái công tránh cái loạn vua Trụ, ra ở bến Đông hải, nghe Văn vương dấy lên làm chức tây bá, vùng dậy nói rằng: Sao chẳng về đi, ta nghe quan Tây bá thi nhân chính khéo nuôi người già.
Chú giải: Hạp = sao chẳng, Tây bá = vua Trụ sai Văn vương làm chức bá trưởng chư hầu ở tây phương, được chuyên việc chinh phạt, cho nên gọi là Tây bá. Thái công = họ Khương, tên thượng, tức là Lã công Vọng . Đây là nói vua văn vương làm nhân chính, mà kẻ hiền kiệt trong thiên hạ đều theo về.
二老者,天下之大老也而歸之,是天下之父歸之也。天下之父歸之,其子
焉往?
Nhị lão giả, thiên hạ chi đại lão dã nhi quy chi, thị thiên hạ chi phụ quy chi dã, thiên hạ chi phụ quy chi, kỳ tử yên vãng.
Dịch nghĩa: Bá Di, Thái công hai lão ấy là bậc đại lão trong thiên hạ mà về với Văn vương, thế là người hạng cha trong thiên hạ về với Văn vương đó; người hạng cha trong thiên hạ đã về, thì người hạng con còn đi đâu mà chẳng theo về.
Chú giải: Đại lão = bậc lão phi thường vừa có tuổi, vừa có đức, thiên hạ đều tôn.
諸侯有行文王之政者,七年之,必為政於天下矣。」
Chư hầu hữu hành Văn vương chi chính giả, thất niên chi nội, tất vi chính ư thiên hạ hĩ.
Dịch nghĩa: chư hầu đời nay có nước nào bắt chước làm cái chính trị vua văn vương, thì trong bảy năm tất cầm quyền chính trị ở thiên hạ vậy
XIV
孟子曰:「求也,為季氏宰,無能改於其德,而賦粟倍他日。孔子曰:『求非我徒也,小子鳴鼓而攻之,可也。』
Mạnh tử viết: Cầu dã vi Quí thị tể, vô năng cải ư kỳ đức, nhi phú túc bội tha nhật. Khổng tử viết: Cầu phi ngã đồ dã, tiểu tử minh cổ nhi công chi, khả dã.
Dịch nghĩa; Thầy Mạnh nói rằng; ngươi Cầu kia làm chức quan tể nhà họ Quí, không biết cải chính đức ác cho hoj Quí, mà lại vì họ Quí đánh thuế thóc của dân gấp hai ngày trước. Ông Khổng có nói rằng: Người Cầu chẳng phải là học trò ta đâu, bọn tiểu tử nên đánh trống kể tội ra mà trách ngươi Cầu mới phải.
Cầu = tức là thầy Nhiễm Cầu học trò ông Khổng. Qui thị = quan khanh nước Lỗ. Tể = một chức gia thần coi riêng về gia chính. Phú = lấy thuế. Tiểu tử = học trò. Minh cổ nhi công = đánh trống mà trách. Nghĩa bóng là thanh minh cái tội ác ra mà trách mắng. Toàn chương này là cốt răn những kẻ chỉ sính binh lực làm hại dân đi lấn cướp nước người. Tiết đầu mới dẫn lời ông Khổng trách mắng kẻ lấy thuế nặng để tiếp xuống tiết dưới mới trách đến kẻ hay sính việc binh
由此觀之,君不行仁政而富之,皆棄於孔子者也,況於為之強戰?爭地以戰,殺人盈野;爭城以戰,殺人盈城,此所謂率土地而食人肉,罪不容於死。
Do thử quan chi, quân bất hành nhân chính nhi phú chi, giai khí ư Khổng tử giả dã. Huống ư vị chi cường chiến, tranh địa dĩ chiến, sát nhân doanh dã; tranh thành dĩ chiến, sát nhân doanh thành; thử sở vị suất thổ địa nhi thực nhân nhục, tội bất dung ư tử.
Dịch nghĩa: Cứ xem lời ông Khổng trách thầy Cầu đó, thì biết phàm ông vua nào đã chẳng làm nhân chính mà người bày tôi lại cóp nhặt làm giàu thêm cho vua ấy, đều là hạng người ông Khổng cự tuyệt đi cả. Phương chi những người vì vua cố khoẻ đánh, như tranh đất mà đánh nhau, giết người đầy nội; tranh thành mà đánh nhau, giết người đầy thành; đó là chỉ vì tranh đất mà giết người như thế gọi là đem thổ địa mà ăn thịt người, tội ấy đến chết cũng còn chửa đáng!
故善戰者服上刑,連諸侯者次之,辟草萊、任土地者次 之。」
Cố thiện chiến giả phục thượng hình, liên chư hầu giả thứ chi, tịch thảo lai nhiệm thổ địa giả thứ chi.
Dịch nghĩa: Cho nên kẻ tài nghề chinh chiến phải chịu tội thượng hình, kẻ liên kết chư hầu tội thứ hai, kẻ phá cỏ rậm, chia phần đất tội thứ ba.
Chú giải: Thượng hình = tội nặng nhất, đáng chém giết đi. Liên chư hầu = liên kết bè đảng xui giục nước nọ tranh cướp nước kia, trỏ về bọn thuyết khách. Tịch thảo lai = phá cỏ khai hoang. Nhiệm thổ địa = chia phần đất bắt dân nhận lấy trách nhiệm cày cấy. Hai hạng người đó là trỏ về những người bày tôi chỉ vụ lợi vơ vét.
Tiết này là kết án cho những kẻ sính binh vụ lợi.
XV
孟子曰:「存乎人者,莫良於眸子,眸子不能掩其惡。胸中正,則眸子瞭焉;胸中不正,則眸子眊焉。
Mạnh tử viết: Tồn hồ nhân giả, mạc lương ư mâu tử. Mâu tử bất năng yểm kỳ ác; hung trung chính, tắc mâu tử liểu yên; hung trung bất chính tắc mâu tử mạo yên.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ở trong thân thể người ta, chẳng gì tinh thần hơn con ngươi. Thiện ác trong tâm đều hiện ra con ngươi, con ngươi không thể che được điều ác; trong bụng chính thì con ngươi tinh mà sáng, trong bụng bất chính thì con ngươi tán mà mờ.
Chú giải: Lương = tốt, tinh khôn, nói về bề tinh thần. Liêu = sáng, Mạo = mờ. Người ta trong khi tiếp người thì tinh khôn ở con mắt, xem lúc sáng lúc mờ thì ngay gian dễ biết
聽其言也,觀其眸子,人焉瘦哉?」
Thính kỳ ngôn dã, quan kỳ mâu tử, nhân yên sưu tai?
Dịch nghĩa: Nghe lời nói rồi, lại nghiệm xem con ngươi thì gian ngay biết ngay, người sao giấu được.
Chú giải: Lời nói cũng bởi tự trong tâm phát ra, vậy nên xem người phải xét nghe lời nói mà lại phải xét kỹ con ngươi, thì mới rõ kẻ gian ngay. Chương này là bảo lấy cái phép xem người.
XVI
孟子曰:「恭者不侮人,儉者不奪人。侮奪人之君,惟恐不順焉,惡得為恭儉?恭儉豈可以聲音笑貌為哉?」
Mạnh tử viết: Cung giả bất vũ nhân; kiệm giả bất đoạt nhân. Vũ đoạt nhân chi quân, duy khủng bất thuận yên, ô đắc vi cung kiệm. Cung kiệm khởi khả dĩ thanh âm tiếu mạo vi tai.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ông vua thực có cái đức cung kính, thì không khinh mạn bày tôi; thực có cái đức tiết kiệm, thì không xâm đoạt của dân. Chứ như ông vua mà khinh người, cướp của người, thì chỉ sợ người chẳng thuận mình, sao được là cung kiệm. Cái đức tốt cung kiệm, há có thể lấy thanh âm tiếu mạo giả dối ở bề ngoài được đâu.
Chú giải: Ông vua mà khinh người thì hay kiêu ngạo, lấn cướp của người thì hay xa xỉ, dẫu giả cách cười nói làm ra bộ cung kiệm cũng không được. Đây là nói cái đức tốt cung kiệm không thể làm giả dối ở bề ngoài được
XVII
淳于曰:「男女授受不親,禮與?」孟子曰:「禮也。」曰:「嫂溺則援之以手乎?」曰:「嫂溺不援,是豺狼也。男女授受不親,禮也。嫂溺援之以手者,權也。」
Thuần Vu Khôn viết: Nam nữ thụ thụ bất thân, lễ dư? Mạnh tử viết: Lễ dã. Viết: Tẩu nịch tắc viên chi dĩ thủ hồ? Viết; Tẩu nịch bất viên, thị sài lang dã; nam nữ thụ thụ bất thân, lễ dã; tẩu nịch viên chi dĩ thủ giả, quyền dã.
Dịch nghĩa: Ngươi Thuần Vu Khôn hỏi rằng: Con trai con gái trao đưa tiếp đón cái vật gì, chẳng đưa đón tận tay là lễ dư? Thầy Mạnh nói rằng: Là lễ vậy. Ngươi Khôn hỏi rằng: Chị dâu đắm đuối thì lấy tay cứu vớt chị dâu chăng? Thầy Mạnh nói rằng: Chị dâu đắm đuối mà chẳng cứu, ấy là loài sai lang, không phải loài người vậy; con trai con gái chẳng đưa đón tận tay là lễ vậy; chị dâu đắm đuối lấy tay cứu vớt chị dâu, là quyền vậy.
Chú giải: Thuần Vu Khôn = họ Thuần Vu tên Khôn, là một kẻ sĩ giỏi nghề biện thuyết ở nước Tề. Quyền = quả cân, cân vật nặng nhẹ, thì xê dịch đi để lấy cho thích trung.
Đây là ngươi Khôn nhân thấy Thầy Mạnh chẳng chịu uổng khuất đạo mình đi yết kiến chư hầu, mà đặt ra lời hỏi ấy. Ý thầy Mạnh thì bảo rằng trong thiện hạ có lúc thường lúc biến mà xử mọi việc phải có kinh có quyền, lúc thường mà thủ kinh thì trai gái phải giữ lễ phân biệt; còn lúc biến mà èm chồng phải lấy tay cứu vớt chị dâu là tùng quyền, dụng quyền mà đắc trung cũng không hại gì lễ.
曰:「今天下溺矣,夫子之不援,何也?」
Viết: Kim thiên hạ nịch hĩ, phu tử chi bất viên, hà dã?
Dịch nghĩa: Ngươi Khôn hỏi rằng: Hiện nay trong thiên hạ đắm đuối đấy, nhà thầy chẳng cứu là cớ sao?
Chú giải; Đây là ý nói thầy Mạnh cũng nên tùng quyền ra để cứu thiên hạ đắm đuối, chớ không nên giữ lễ mà chấp nệ thủ kinh quá.
曰:「天下溺,援之以道;嫂溺,援之以手。子欲手援天下乎?」
Viết: Thiên hạ nịch, viên chi dĩ đạo; tẩu nịch viên chi dĩ thủ; tử dục thủ viên thiên hạ hồ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Thiên hạ đắm đuối, cứu đó dùng bằng đạo; chị dâu đắm đuối, cứu đó dùng bằng tay; ngươi muốn ta dùng tay không để cứu thiên hạ đấy chăng.
Chú giải: Đây là nói vái lẽ cứu thiên hạ với cứu chị dâu khác nhau; muốn cứu đời thì phải giữ đạo tự trọng thì mới ra cứu được đời; nếu uổng đạo để cầu hợp với đời thì còn lấy gì để cứu được đời nữa, cứu vớt cõi đời đắm đuối có phải chỉ lấy tay không mà cứu được dân.
XVIII
公孫丑曰:「君子之不教子,何也?」孟子曰:「勢不行也。教者必以正;以正不行,繼之以怒;繼之以怒,則反夷矣。『夫子教我以正;夫子未出於
正也。』則是父子相夷也。父子相夷則惡矣。
Công Tôn Sửu viết: Quân tử chi bất giáo tử, hà dã? Mạnh tử viết: Thế bất hành dã, giáo giả tất dĩ chính, dĩ chính bất hành, kế chi dĩ nộ; kế chi dĩ nộ, tắc phản di hĩ. Phu tử giáo ngã dĩ chính, phu tử vị xuất ư chính dã. Tắc thị phụ tử tương di dã; phụ tử tương di, tắc ác hĩ.
Dịch nghĩa: Công Tôn Sửu hỏi rằng: Người quân tử chẳng tự mình dạy lấy con, là cớ sao? Thầy Mạnh nói rằng: Cái thế không làm được vậy; cha dạy con tất phải lấy đạo chính, dạy lấy đạo chính mà con không theo thì liền sinh ra giận dữ; sinh ra giận dữ, thì lại thương hại đến ái tình đối với con. Con lại trách cha rằng: Cha dạy ta lấy đạo chính, nhưng cái thân cha chửa tất đã hợp với đạo chính. Thế là cha với con cùng thương hại mất ái tình, cha con cùng hại mất ái tình, thì là sự xấu vậy.
Chú giải: Phu tử = thầy, tức là cha. Di = hại, nghĩa là giận con thì hại đến tình yêu con. Tiết này nói người quân tử không thân dạy lấy con, là chỉ ngại về cái thế không làm được.
古者易子而教之,
Cổ giả dịch tử nhi giáo chi.
Dịch nghĩa: Người đời xưa phải đổi con mà dạy
Chú giải; Đổi con mà dạy là phải cho con ra trương học để nhờ người khác dạy, làm như thế là để cho toàn ân cha con, mà vẫn dạy được con.
父子之間不責善,責善則離,離則不祥莫大焉。」
Phụ tử chi gian bất trách thiện, trách thiện tắc ly, ly tắc bất tường mạc đại yên.
Dịch nghĩa: Vì rằng trong khoảng cha con không nên quá trách con làm điều thiện, trách thiện quá thì thành ra lìa nhau, cha con chí thân mà đến lìa nhau, thì sự không hay còn gì lớn hơn sự ấy nữa.
Chú giải; Tiết này là giải cái cớ sở dĩ phải cho con ra trường học là để toàn ân, mà lại tránh khỏi được sự quai ly là sự không hay trong gia đình.
孟子曰:「事孰為大?事親為大。守孰為大?守身為大。不失其身而能事其親者,吾聞之矣;失其身而能事其親者,吾未之聞也。
Mạnh tử viết: Sự thục vi đại, sự thân vi đại; thủ thục vi đại, thủ thân vi đại. Bất thất kỳ thân, nhi năng sự kỳ thân giả, ngô văn chi hĩ. Thất kỳ thân nhi năng sự kỳ thân giả, ngô vị chi văn dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Điều kính thờ điều gì là lớn? kính thờ cha mẹ là lớn; điều giữ gìn điều gì là lớn? giữ gìn cái thân khỏi hãm lạc cái thân mà hay kính thờ được cha mẹ, thì ta từng nghe có cái lẽ ấy vậy. Nếu đã hãm lạc mất cái thân mà hay kính thờ được cha mẹ, thì ta chửa nghe có cái lẽ ấy bao giờ.
Chú giải: Chương này là khuyên người ta phải biết giữ cái thân, đừng hãm vào điều bất nghĩa, thì mới hay kính thờ được cha mẹ.
孰不為事?事親,事之本也。孰不為守?守身,守之本也。
Thục bất vi sự? sự thân, sự chi bản dã. Thục bất vi thủ, thủ thân, thủ chi bản dã.
Dịch nghĩa: Điều gì chẳng là kính thờ, nhưng kính thờ cha mẹ là gốc của mọi điều kính thờ vậy; điều gì chẳng là giữ gìn, nhưng giữ gìn cái thân là gốc của mọi điều giữ gìn vậy.
Chú giải: Việc kính thờ còn việc thờ vua, thờ huynh trưởng, nhưng trước phải lấy việc thờ cha mẹ làm căn bản hơn cả. Việc giữ gìn thì còn việc giữ quan chức, giữ nước, nhưng trước phải lấy việc giữ mình cho khỏi hãm vào điều bất nghĩa là căn bản hơn cả. Giữ mình đã là việc căn bản thì thực là việc lớn vậy. Đã hay giữ mình thì tức là hay kính thờ cha mẹ.
曾子養曾晳,必有酒肉;將徹,必請所與;問有餘,必曰『有』。曾晳死,曾元養曾子,必有酒肉;將徹,不請所與;問有餘,曰『亡矣』,將以復進也,此所謂養口體者也。若曾子,則可謂養志也。
Tăng tử dưỡng Tăng Tích, tất hữu tửu nhục; tương triệt, tất thỉnh sở dữ. Vấn hữu dư, tất viết hữu. Tăng Tích tử, Tăng Nguyên dưỡng Tăng tử, tất hữu tửu nhục; tương triệt, bất thỉnh sở dũ. Vấn hữu dư, viết vô hĩ; tương dĩ phục tiến dã; thử sở vị dưỡng khẩu thể giả dã. Nhược Tăng tử tắc khả vị dưỡng chí dã.
Dịch nghĩa: Tăng tử nuôi thầy Tăng Tích, bữa ăn tất có rượu thịt; sắp triệt mâm, tất thỉnh với cha rằng còn dư đây muốn cho ai. Hoặc cha hỏi đồ ăn có còn thừa không? Thì tất thưa rằng có còn thừa. Kịp khi thầy Tăng Tích chết đi rồi, Tăng Nguyên nuôi thầy Tăng tử, bữa ăn tất có rượu thịt; sắp triệt mâm, Tăng Nguyên cũng chẳng thỉnh cha rằng còn dư muốn cho ai. Hoặc cha hỏi đồ ăn có còn thừa không? Thì thưa rằng không còn thừa; toan để bữa sau lại dâng lên vậy; như thế gọi là nuôi cái miệng của cha đấy thôi. Như ông Tăng tử thì mới xứng đáng gọi là nuôi cái chí của cha vậy.
Chú giải: Tăng tử tên là Sâm, học trò ông Khổng, là con Tăng Tích. Tăng Tích tên là Điểm, cũng là học trò ông Khổng, Tăng Nguyền là con Tăng tử. Tiết này là dẫn việc thầy Tăng tử hay giữ mình mới hay nuôi chí cha mẹ, để làm khuôn phép cho kẻ làm con đời sau.
事親若曾子者,可也。」
Sự thân, nhược Tăng tử giả khả dã.
Dịch nghĩa: Phàm người con kính thờ cha mẹ, tất bắt chước như Tăng tử, mới khá khen là hiếu vậy.
XX
孟子曰:「人不足與適也,政不足與間也,惟大人為能格君心之非。君仁莫不仁,君義莫不義,君正莫不正,一正君而國定矣。」
Mạnh tử viết; Nhân bất túc dữ trích dã; chính bất túc gián dã. Duy đại nhân vi năng cách quân tâm chi phi, quân nhân mạc bất nhân, quân nghĩa mạc bất nghĩa, quân chính mạc bất chính, nhất chính quân nhi quốc định hĩ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng; Ông vua dùng người sai lầm, chẳng đủ quá trách vậy; ông vua làm chính lầm lỗi chẳng đủ chê bai vậy. Duy bậc đại nhân là chính được cái lỗi tự trong tâm vua, tâm vua nhân thì chẳng điều gì là chẳng nhân, tâm vua nghĩa thì chẳng điều gì là chẳng nghĩa, tâm vua chính thì chẳng điều gì là chẳng chính, một chính cái tâm vua mà trong nước bình định vậy.
Chú giải: Trích = quá trách. Gián = chê bai, có ý can ngăn. Đại nhân = bậc thánh hiền có đức lớn. Cách = cảm cách, chính đính, sửa đổi lại khiến cho công chính. Đây là nói cái cốt yếu của kẻ đại thần giúp vua thì trước nhất phải chính cái tâm vua, rồi tự khắc là những việc dụng nhân hành chính đều là hay cả.
XXI
孟子曰:「有不虞之譽,有求全之毀。」
Mạnh tử viết: Hữu bất ngu chi dự; hữu cầu toàn chi huỷ
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Có lời khen chẳng ngờ được mà được khen, có lời chê trách tránh sao cũng không khỏi được
Chú giải: Đây nói cái cách khen chê có nhiều điều không được xứng đáng, thế thì lời khen chê cũng chưa tất đã là thực, vậy nên kẻ sửa mình thấy chê đừng vội nản, thấy khen đừng vội khoe, mà kẻ xét người cũng đừng bằng cư ở lời khen chê vội.
XXII
孟子曰:「人之易其言也,無責耳矣。」
Mạnh tử viết: Nhân chi dị kỳ ngôn dã, vô trách nhĩ hĩ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Người thường hay khinh dị lời nói, vì chưa bị trách phạt về nói càn đấy thôi.
Chú giải: Chương này là răn người ta nên cẩn ngôn
XXIII
孟子曰:「人之患,在好為人師。」
Mạnh tử viết: Nhân chi hoạn tại hiếu vi nhân sư.
Dịch nghĩa:Thầy mạnh nói rằng: Cái bệnh há lo của người học vấn, chỉ tại rằng sính muốn làm thầy người.
Chú giải: Đây là kể ra cái bệnh tự mãn tự túc, hay kiêu ngông để răn kẻ học vấn
樂正子從於子敖之齊。樂正子見孟子,孟子曰:「子亦來見我乎?」曰:「先生何為出此言也?」曰:「子來幾日矣?」曰:「昔者。」曰:「昔者,則我出此言也,不亦宜乎?」曰:「舍館未定。」曰:「子聞之也;『舍館定,然後求見長者』乎?」
Nhạc Chính tử tùng ư Tử Ngao chi Tề. Nhạc Chính tử kiến Mạnh tử. Mạnh tử viết: Tử diệc lai kiến ngã hồ! viết: Tiên sinh hà vi xuất thử ngôn dã? Viết: Tử lai kỳ nhật hĩ? Viết: Tích giả. Viết: Tích giả, tắc ngã xuất thử ngôn dã, bất diệc nghi hồ. Viết: Xá quán vị định. Viết: Tử văn chi dã, xá quán định, nhiên hậu cầu kiến trưởng giả hồ?
Dịch nghĩa: Nhạc Chính tử theo ngươi Tử Ngao đến nước Tề, Nhạc Chính tử yết kiến thầy Mạnh. Thầy Mạnh trách rằng: Ngươi cũng lại yết kiến ta đấy ư!. Chính tử nói rằng: Tiên sinh vì sao nói ra lời ấy vậy? Thầy Mạnh hỏi rằng: Người lại đây đã mấy ngày rồi? Chính tử nói rằng: Tự hôm trước. Thầy Mạnh nói rằng: Ngươi lại đây từ hôm trước, thì ta nói ra lời ấy, chẳng cũng phải đấy ư. Chính tử nói rằng; Vì chỗ nhà trọ thuê ở chưa định. Thầy Mạnh nói rằng: Ngươi thử nghe đó xem, nhà trọ định, rồi sau mới cầu đến yết kiến trưởng giả có phải không?
Chú giải: Nhạc Chính tử,tên là Khắc, học trò thầy Mạnh, Tử Ngao tức ngươi Vương Hoan, là kẻ tiểu nhân mà đắc sủng ở nước Tề. Chương này là cốt răn kẻ học giả không nên theo với kẻ tiểu nhân, nên thầy Mạnh mới nói mát để trách Chính tử
曰:「克有罪。」
Viết: Khắc hữu tội.
Dịch nghĩa: Chính tử nói rằng: Khắc này thực là có tội.
Chú giải: Chính tử rằng biết cái tội chậm đến yết kiến thầy là bất kính, nhưng chưa chắc đã biết cái tội theo với kẻ tiểu nhân là thất thần
XXV
孟子謂樂正子曰:「子之從於子敖來,徒餔啜也。我不意子學古之道而以餔啜也。」
Mạnh tử vị Nhạc Chính tử viết: Tử chi tùng ư Tử Ngao lai, đồ bô xuyết dã; ngã bất ý tử học cổ chi đạo, nhi dĩ bô xuyết dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh bảo Nhạc Chính tử rằng: Ngươi theo Tử Ngao lại nước Tề, chỉ là vì sự bô xuyết vậy; ta không ngở ngươi học cái đạo thánh hiền của cổ nhân, mà chỉ vì sự bô xuyết vậy.
Chú giải: bô = ăn, Xuyết = uống. Đây là thiết trách Chính tử về tội không biết chọn người hiện mà chơi, mà lại y phụ với kẻ tiểu nhân, để cho Chính tử hối ngộ biết mình theo Tử Ngao là không phải.
XXVI
孟子曰:「不孝有三,無後為大。
Mạnh tử viết: Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Tội bất hiếu có ba điều, điều vô hậu là lớn hơn cả.
Chú giải: Bất hiếu hữu tam = Một là cha mẹ làm điều bất nghĩa, mà mình chỉ a dua không biết can ngăn, để cha mẹ mắc phải tiếng xấu. Hai là nhà nghèo mà mình chẳng chịu ra với đời kiếm chút lộc, để nuôi bố mẹ. Ba là chẳng chịu lấy vợ, để đến nỗi không con, làm tuyệt mất sự tế tự, đối với tổ tiên. Vô hậu = không có con nối dõi về sau.
舜不告而娶,為無後也,君子以為猶告也。」
Thuấn bất cốc nhi thú, vị vô hậu đã; quân tử dĩ vi do cốc dã.
Dịch nghĩa: Vua Thuấn chẳng thưa với cha mẹ, mà lấy hai con gái vua Nghiêu, vì sợ rằng thưa thì cha mẹ chẳng cho, mà đến vô hậu vậy; người quân tử cho là chẳng bẩm mệnh cũng như bẩm mệnh, cùng là hiếu vậy.
Chú giải: Ông Thuấn vì gặp phải cha gàn, mẹ ghê ác, nếu thưa với cha mẹ thì không được lấy, nên ông Thuấn phải tùng quyền cũng không hại gì chính đạo vậy. Nếu những kẻ không gặp cảnh ngộ như ông Thuấn, mà lấy vợ cũng dụng quyền, không bẩm mệnh với cha mẹ, thị lại là bất hiếu.
XXVII
孟子曰:「仁之實,事親是也。義之實,從兄是也。
Mạnh tử viết: Nhân chi thực, sự thân thị dã; nghĩa chi thực, tùng huynh thị dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Điều thiết thực của đạo nhân, là điều yêu cha mẹ đó; điều thiết thực của đạo nghĩa, là điều kính anh đấy vậy.
Chú giải: Điều nhân chủ yếu, mà yêu thì không gì thiết hơn cha mẹ; điều nghĩa chủ kính, mà kính thì không gì trước hơn kính anh; vậy nên kính thờ cha anh là điều thiết thực của đạo nhân nghĩa. Đây là khuyên người ta phải kính thờ cha anh, giữ lấy hiếu đễ là gốc đạo nhân nghĩa vậy.
智之實,知斯二者弗去是也。禮之實,節文斯二者是也。樂之實,樂斯二者,樂則生矣。生則惡可已也?惡可已,則不知足之蹈之、手之舞之。」
Trí chi thực, tri tư nhị giả phất khử thị dã; lễ chi thực, tiết văn tư nhị giả thị dã; nhạc chi thực, lạc tư nhị giả; lạc tắc sinh hĩ, sinh tắc ô khả dĩ dã, ô khả dĩ tắc bất tri túc chi đạo chi, thủ chi vũ chi.
Dịch nghĩa; Điều thiết thực của sự trí, là biết rõ hai điều ấy mà chẳng bỏ ấy vậy; điều thiết thực của sự lễ là bày ra nghi tiết văn vẻ trong hai điều ấy vậy; điều thiết thực của sự nhạc, là vui về hai điều ấy; đã vui thì tự nhiên sinh lòng yêu cha kính anh, lòng yêu kính đã sinh ra thì sao có thể thôi đi được, không thể thôi được thì tự nhiên chẳng biết rằng chân đi tay múa đều hình dung ra sự hiếu đễ cả.
Chú giải: Tư nhị giả = Hai điều ấy: một là điều hiếu để thờ cha mẹ; hai là điều dễ để kính anh trưởng đã nói ở trên. Đây là nói cái lòng hiếu đễ là bởi tự lương tâm người ta sinh ra, nếu biết rõ mà làm là trí khôn, đặt ra nghi tiết mà theo là lễ, vui làm mãi hai điều hiếu đễ ấy là nhạc. Thế thì trí khôn và lễ nhạc không điều gì là chẳng cốt ở hiếu đễ, người ta phải nên cố gắng mà làm.
XXVIII
孟子曰:「天下大悅而將歸己,視天下悅而歸己,猶草芥也,惟舜為然。不得乎親,不可以為人;不順乎親,不可以為子。
Mạnh tử viết: Thiên hạ đại duyệt nhi tương quy kỷ; thị thiên hạ duyệt nhi quy kỷ, do thảo giới dã, duy Thuấn vi nhiến. Bất đắc hồ thân, bất khả dĩ vi nhân; bất thuận hồ thân, bất khả dĩ vi tử.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Thiên hạ cả đẹp lòng mà cùng quy phục mình thì sướng thật; thế mà coi thiên hạ đẹp lòng mà quy phục mình cũng như cỏ rau vậy, chỉ có vua Thuấn là thế thôi. Bụng vua Thuấn nghĩ rằng chẳng được lòng với cha mẹ, chẳng đáng làm người; chẳng thuận đạo với cha mẹ, chẳng đáng làm con.
Chú giải: Thảo = cỏ; giới = rau cải, nói hai vật nhỏ mọn không đáng quý. Chương này là khen vua Thuấn là bậc đại hiếu hay coi khinh phú quý, mà chỉ lấy việc thờ cha mẹ làm trọng
舜盡事親之道,而瞽瞍厎豫。瞽瞍厎豫而天下化;瞽瞍厎豫而天下之為父子者定。此之謂大孝。」
Thuấn tận sự thân chi đạo, nhi Cổ Tẩu để dự; Cổ Tẩu để dự, nhi thiên hạ hoá; Cổ Tẩu để dự, nhi thiên hạ chi vi phụ tử giả định, thử chi vị đại hiếu.
Dịch nghĩa: Vua Thuấn hết đạo thờ cha mẹ, mà ông Cổ Tẩu đến vui lòng; ông Cổ Tẩu đến vui lòng mà trong thiên hạ đều cảm hoá; ông Cổ Tẩu đến vui lòng, mà trong thiên hạ những kẻ làm con yên ở về điều hiếu kẻ làm cha cũng yên ở về điều từ, cha con đều hết đạo cả, như thế mới gọi là bậc đại hiếu.
Chú giải: Cổ Tẩu = người cha sinh ra vua Thuấn là một người rất xuẩn ác, thường muốn giết Thuấn. Để = đến. Dự = vui vẻ đẹp lòng. Đây là tán cái đức hiếu của vua Thuấn làm phép được cho thiên hạ, khá truyền về đời sau, không những chỉ một thân một nhà mà thôi, sở dĩ gọi là bậc đại hiếu.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét