Thứ Tư, 2 tháng 8, 2017

MẠNH TỬ 16

滕文公下 ĐẰNG VĂN CÔNG HẠ
  陳代曰:不見諸侯,宜若小然。今一見之,大則以王,小則以霸。且《志》曰:『枉尺而直尋。』宜若可為也。
Trần Đại viết: Bất kiến chư hầu, nghi nhược tiểu nhiên. Kim nhất kiến chi, đại tắc dĩ vương, tiểu tắc dĩ bá, Thả Chí viết: Uổng xích nhi trực tầm. Nghi nhược khả vi dã
Dịch nghĩa: Trần Đại nói rằng: Nhà thầy chẳng đi yết kiến các vua chư hầu, điều đó dường như là tiết nhỏ vậy. Nay một đi yết kiến để thi thố cái đạo của mình, lớn thì nên được nghiệp vương, nhỏ thì nên được nghiệp bá, Vả sách Chí có nói rằng: Khuất cong một thước mà hay thẳng duỗi được một tầm. Sự yết kiến chư hầu, dường như nên làm vậy.
Chú giải: Trần Đại = học trò thầy Mạnh. Chí = sách chép những lời thông tục nói thường, Tầm = tám thước. Uổng xích = khuất cong một thước. Trỏ về sự yết kiến chư hầu. Trực tầm = thẳng duỗi một tầm 8 thước. Trỏ về sự nên nghiệp vương bá.
Đây là Trần Đại khuyên thầy Mạnh không nên chấp nệ quá, vì điều mình phải khuất mà yết kiến là việc nhỏ, mà điều mình thân được nên nghiệp bá vương là sự nghiệp lớn
孟子曰:昔齊景公田,招虞人以旌,不至,將殺之。『志士不忘在溝壑,勇士不忘喪其元。』孔子奚取焉?取非其招不往也。如不待其招而往,何哉?
Mạnh tử viết: Tích Tề Cảnh  công điền, triệu ngu nhân dĩ tinh, bất chí, tương sát chi. “Chí sĩ bất vong tại câu hác, dũng sĩ bất vong táng kỳ nguyên”  Khổng Tử hề thủ yên? Thủ phi kỳ triệu bất vãng dả. như bất đắc kỳ triệu nhi vãng, hà tai?
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ngày xưa vua Cảnh công nước Tề đi săn, lấy cờ tinh vời kẻ Ngu nhân, Ngu nhân không đến, vua Tề toan giết Ngu nhân. Ông Khổng khen rằng: Kẻ chí sĩ thường nghĩa đành ở chốn ngòi hang mà không hận, kẻ dũng sĩ thường nghĩ chết đến mất đầu cũng không sợ, kẻ Ngu nhân chính tự giữ được như thế. Ông Khổng khen về lẽ gì? Khen về điều Ngu nhân biết tự thủ không phải cái đồ vời mình thì không đi. Ngu nhân còn thế, nữa là quân tử, nếu chẳng đợi chư hầu vời mình mà mình đi yết kiến, sao nên?
Chú giải: Ngu nhân = một viên chức cõi giữ vườn dược cho nhà vua. Tinh = lá cờ rủ ngù bằng lông. Lệ thường, vua vời quan Ngu nhân thì lấy cái mũ da. Bất vong = không quên, thường để lòng nghĩ đến mà không sợ hãi, không ân hận. Nguyên = cái đầu, Chí sĩ = trỏ người cố gìn giữ lúc cùng túng, dẫu chết ở ngòi hang cũng đành. Dũng sĩ = trỏ người coi khinh sự chết. Hề thủ = khen về lẽ gì?
Đây là lời thầy Mạnh biện rõ ra cái ý không nên đi yết kiến chư hầu  
且夫枉尺而直尋者,以利言也。如以利,則枉尋直尺而利,亦可為與?
Thả phù uổng xích nhi trực tầm giả, dĩ lợi ngôn dã. Như dĩ lợi, tác uổng tầm trực xích nhi lợi, diệc khả vi dư?
Dịch nghĩa: Vả lại khuất một thước mà thân một tầm đó, là kể về phần lợi mà nói vậy. Nếu kể về phần lợi, thì khuất một tầm thân một thước mà lợi, cũng nên làm dư
Chú giải: Đây là thầy Mạnh biên chính cái lời đổng xích trực tầm là không phải.
昔者趙簡子使王良與嬖奚乘,終日而不獲一禽。嬖奚反命曰:『天下之賤工也。』或以告王良,良曰:『請復之。』強而後可,一朝而獲十禽。嬖奚反命曰:『天下之良工也。』簡子曰:『我使掌與女乘。』謂王良。良不可,曰:『吾為之范,我馳驅,終日不獲一;為之詭遇,一朝而獲十。《詩》云:「不失其馳,舍矢如破。」我不貫與小人乘,請辭。』
Tích giả Triệu Giản tử sử Vương Lương dữ Bế Hề thừa, chung nhật nhi bất hoạch nhất cầm. Bế Hề phản mệnh viết: Thiên hạ chi tiễn công dã. Hoặc dĩ cáo Vương Lương, Lương viết: Thỉnh phục chi. Cưỡng nhi hậu khả, nhất triêu nhi hoạch thập cầm. Bế Hề phản mệnh viết: Thiên hạ chi lương công dã. Giản Tử viết: Ngã sử chưởng dữ nhữ thừa. Vị Vương Lương. Lương bất khả, viết: ngô vi chi phạm, ngã trì khu, chung nhật bất hoạch nhất, vi chi quỷ ngộ, nhất triêu nhi hoạch thập. Thi vân: Bất thất kỳ khu, xả thỉ như phá. Ngã bất quán dữ tiểu nhân thừa, thỉnh từ.
Dịch nghĩa: Xưa kia Triệu Giản tử sai ngươi Vương Lương ngự xe cho Bế Hề đi bắn, suốt ngày mà chẳng được một con chim. Bế Hề trả lời với Giản tử rằng: Vương Lương là anh thợ đánh xe kém nhất trong thiên hạ vậy. Hoặc có kẻ đem lời ấy bảo Vương Lương . Lương nói rằng: Xin lại ngự xe lần nữa. Cưỡng bách Hề, rồi sau Hề mới nghe. Một buổi sớm mà được mười con chim. Bế Hề trả lời với Giản tử rằng: Vương Lương là thợ đánh xe khéo trong thiên hạ vậy. Giản tử rằng: Ta khiến Vương Lương chuyên chủ ngự xe cho mày. Bảo với Vương Lương. Lương chẳng nghe, nói rằng; Ta vì kẻ ấy theo khuôn phép ta rong ruổi, thì suốt ngày chẳng được một con chim, vì kẻ ấy chạy quanh co đón gặp loài cầm, thì một buổi sớm mà bắt được mười con. Kinh Thi có nói rằng: Người ngự xe chẳng sai phép rong ruổi, mà người bắn cứ phóng tên ra đều tin như phá. Ấy mới là chính phép ngự xe, ta chẳng quen lối ngự xe cho kẻ tiểu nhân. Xin cáo từ.
Chú giải: Triệu Giản tử = quan đại phu nước Tấn. Vương Lương = kẻ giỏi về nghề ngự xe. Bế Hề = kẻ tôi tớ yêu của Giản tử tên là Hề; bế nghĩa là yêu. Thặng = ngự xe. Chưởng = chuyên giữ. Quỉ = quanh co chạy không thẳng đường. Thi = thơ. Xa công trong thiên Tiểu Nhã. Dẫn lời kinh thi để chứng rằng người ngự xe vẫn theo chính phép mà người tài bắn vẫn bắn được tin, chớ không có quanh co quỷ quyệt như kẻ tiểu nhân vậy
御者且羞與射者比。比而得禽獸,雖若丘陵,弗為也。如枉道而從
彼,何也?且子過矣,枉己者,未有能直人者 也。
Ngự giả thả tu dữ xạ giả tỷ; tỉ nhi đắc cầm thú, tuy nhược khâu lăng, phất vi dã. Như uổng đạo nhi tùng bỉ, hà dã? Thả tử quá hĩ, uổng kỷ giả, vị hữu năng trực nhân giả dã.
Dịch nghĩa: Kẻ ngự xe còn xấu hổ cùng với kẻ bắn tên a dua, a dua mà được chim muông, tuy nhiều như gò đống, chẳng thèm làm vậy. Huống người quân tử vốn lấy đạo giữ mình, nếu khuất cái đạo mà theo kẻ kia, sao lại thế được. Vả lời ngươi nói là lầm, kẻ đã cong mình, không có thể chính được người vậy.
Chú giải: Tị = a du theo ý. Bỉ = kia, trỏ các vua chư hầu.
Đây là thầy Mạnh nói người quân tử nếu khuất đạo mà theo người thì so với kẻ ngự giả lại không bằng, để rõ ra rằng cái sự không đi yết kiến chư hầu chính là tiết lớn không nên coi là tiết nhỏ vậy
II.
景春曰:「公孫衍、張儀豈不誠大丈夫哉?一怒而諸侯懼,安居而天下熄。
Cảnh Xuân viết: Công Tôn Diễn, Trương Nghi khởi bất thành đại trượng phu tai?   Nhất nộ nhi chư hầu cụ, yên cư nhi thiên hạ tức.
Dịch nghĩa: Cảnh Xuân nói rằng: Ngươi Công Tôn Diễn, ngươi Trương Nghi, há chẳng thực là kẻ đại trượng phu thay! Một nổi giận mà chư hầu sợ hãi, ngồi yên thì thiên hạ im lặng
Chú giải: Cảnh Xuân = người thời bấy giờ. Công Tôn Diễn, Trương Nghi = đều là người nước Nguỵ, giỏi về nghề đi du thuyết các vua chư hầu, thường xui nước nọ đánh nước kia. Đại trượng phu = đàn ông thông thường gọi là trượng phu, đàn ông đặc biệt hơn người gọi là đại trượng phu. Tức = lửa tắt, việc rối loạn yên lặng ví như lửa tắt. Đây là Cảnh Xuân ở đời Chiến quốc thấy những kẻ thuyết khách có cái khí diễm bách dịch thì khen là kẻ đại trượng phu
孟子曰:「是焉得為大丈夫乎?子未學禮乎?丈夫之冠也,父命之;女子之嫁也,母命之,往送之門,戒之曰:『往之女家,必敬必戒,無違夫子。』以順為正者,妾婦之道也。
Mạnh Tử viết: Thị yên đắc vi đại trượng phu hồ? Tử vị học lễ hồ?  trượng phu chi quan dã, phụ mệnh chi; nữ tử chi  giá dã, mẫu mệnh chi, vãng tống chi môn, giới chi viết:  “vãng chi nữ gia, tất kính  tất giới, vô vi phu tử”. Dĩ  thuận vi chính giả, thiếp phụ chi đạo dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Người ấy sao được là kẻ đại trượng phu! Ngươi chửa học Lễ đấy ư! Lễ có dạy rằng: Đàn ông khi làm lễ đội mũ thì cha dạy cho; con gái khi làm lễ gả chồng, thì mẹ dạy cho; mẹ đi đưa con gái ra cửa, răn con gái rằng: Mày đi về nhà chồng mày, phải kính phải răn, chớ trái mệnh chồng. Xem lời mẹ răn con gái ấy, thì biết rằng lấy sự thuận túng làm chính đáng ấy, là cái đạo đàn bà vậy.
Chú giải: Quán = lễ ngày xưa con trai đến hai mươi tuổi, thì làm lễ đội mũ lên đầu, tỏ ra rằng đến thời kỳ thành nhân, gọi là lễ Quán. Phu tử = lời tôn kính gọi chồng. Thiếp phụ = Thiếp là lẽ mọn, phụ và vợ cả hoặc nàng dâu; thiếp phụ là lời tóm tắt gọi kẻ đàn bà. Đây là thầy Mạnh cho rằng ngươi Diễn ngươi Nghi chỉ chiều nịnh cái lòng yêu ghét của các vua chư hầu, a dua phụ theo để lấy trộm quyền thế, là cái đạo thuận tùng của kẻ đàn bà đấy thôi, không phải là cái sự nghiệp của đàn ông vậy
居天下之廣居,立天下之正位,行天下之大道;得志與民由之,不得志,獨行其道;富貴不能淫,貧賤不能移,威武不能屈此之謂大丈夫。
Cư thiên hạ chi quảng cư, lập thiên hạ chi chính lập, hành thiên hạ chi đại đạo; đắc chí dữ  dân do chi, bất đắc chí, độc hành kỳ đạo; Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất thử chi vị đại trượng phu
Dịch nghĩa: Ở về chốn nhà rộng trọng thiên hạ, đứng về ngôi chính đáng trong thiên hạ, đi về đường lớn trong thiên hạ, đắc chí thì cùng dân cùng noi, chẳng đắc chí thì một mình gìn giữ đạo mình; phú quý không thể đãng được tâm, bần tiện không thể biến được tiết, uy vũ không thể nén được chí; bậc người ấy mới gọi là đại trượng phu
Chú giải: Quảng cư = rộng rãi bao dung, trỏ về điều nhân. Chính vị = chính đáng, không thiên lệch, trỏ về điều lễ. Đại đạo = đường rộng lớn công bình, trỏ về điều nghĩa. Đắc chí = Được kiến dụng ở đời. Dữ dân do chi = đem những điều nhân, nghĩa, lễ mà công hành ra với dân cũng noi theo. Bất đắc chí = Không được dùng ra với đời mà phải ẩn náu ở ngôi dưới. Độc hành kỳ đạo = giữ gìn những điều nhân, nghĩa, lễ, mà sửa riêng lấy mình. Dâm = dâm đãng. Di = biến đổi. Uy vũ = những sự người ta lấy cường quyền áp chế mình. Khuất = toả chiết, khuất chịu.
Đây là thầy Mạnh tả ra cái khí lượng bậc đại trượng phu, bậc ấy đạo đức thì thuần tuý, hành động thì quang minh chính đại cương cương, khác với đạo đàn bà, để rõ ra ngươi Nghi ngươi Diễn không đủ khen là đại trượng phu.
III.
周霄問曰:「古之君子仕乎?」孟子曰:「仕。傳曰:『孔子三月無君,則皇皇如也。出疆必載質。』公明儀曰:『古之人三月無君則吊。』
「三月無君則吊,不以急乎?」
Chu Tiêu vấn viết: Cổ chi quân tử sĩ hồ? Mạnh tử viết: Sĩ. Truyện viết: Khổng tử tam nguyệt vô quân, tắc hoàng hoàng như dã, xuất cương tất tái chi. Công Minh Nghi viết: Cổ chi nhân, tam nguyệt vô quân tắc điếu. Tam nguyệt vô quân tắc điếu, bất dĩ cấp hồ?
Dịch nghĩa: Chu Tiêu hỏi rằng: Người quân tử đời xưa có muốn ra làm quan không? Thầy Mạnh nói rằng: Sao lại chẳng ra làm quan. Truyện có chép rằng; Ông Khổng tử ba tháng không có vua mà thờ, thì áy náy không yên, đi ra cõi nước, tất đem đồ chí kiến. Ông Công Minh Nghi nói rằng: Người xưa, ba tháng không có vua mà thờ, thì người ngoài lại yên ủi hỏi thăm.Chu Tiêu hỏi rằng: Ba tháng không có vua mà thờ, mà đã viếng thăm, chẳng là kíp lắm ư?
Chú giải: Chu Tiêu = người nước Nguỵ. Xuất cương = ra khỏi cõi, khi mất ngôi quan ở nước mình mà đi sang nước khác. Tài chí = đem lễ vật để yết kiến, như người sĩ thì dùng chim trĩ để làm lễ yết kiến vua nước khác, là có ý muốn gặp được vua đẻ lại ra làm quan. Công Minh Nghi = người hiền ở nước Lỗ ngày xưa. Điếu = thương kẻ bất đắc ý mà viếng thăm yên ủi. Dĩ = nghĩa là đã
曰:「士之失位也,猶諸侯之失國家也。《禮》曰:『諸侯耕助,以供粢盛。夫人蠶繅,以為衣服。犧牲不成,粢盛不潔,衣服不備,不敢以祭。惟士無田,則亦不祭。』牲殺器皿衣服不備,不敢以祭,則不敢以宴,亦不足吊乎?」
Viết: Sĩ chi thất vị dã, do chư hầu chi thất quốc gia dã. Lễ viết: Chư hầu canh trợ, dĩ cung tư thịnh; phu nhân tàm tao, dĩ vi y phục. Hi sinh bất thành, tư thịnh bất khiết, y phục bất bị, bất cảm dĩ tế, Duy sĩ vô điền, tắc diệc bất tế. Sinh sát khí mãnh, y phục bất bị, bất cảm dĩ tế, tắc bất cảm dĩ yến, diệc bất túc điếu hồ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Kẻ sĩ mất ngôi quan, cũng như chư hầu mất quốc gia vậy. Lễ có nói rằng: Vua chư hầu cày ruộng tịch điền dân giúp cho vua cày để cung cấp đồ tư thình về việc tế tự; bà phu nhân chăn tằm ươm tơ, để chế làm đồ y phục về việc tế tự. Chư hầu đã mất quốc gia, thì đồ hi sinh không thể thành đước, đồ tư thình không thể sạch được, đồ y phục không thể đủ được, thì không dám cử hành việc tế tự. Lễ lại nói rằng: Duy kẻ sĩ không có ruộng tế, thì cũng không dám tế. Kẻ sĩ đã mất ngôi quan thì muông sinh sát đồ khí mãnh và đồ y phục không đủ, thì không dám cử hành việc tế tự; chẳng tế tự thì trong lòng chẳng được yên, thế thì chẳng đủ viếng thăm ư.
Chú giải: Canh trợ = giúp đỡ cày cấy, nguyên vua chư hầu đặt ruộng tịch điền trăm mẫu, tự mình cầm chuôi cày cấy trước để làm phép, rồi dân thì giúp sức cho vua, đề làm trọn vẹn công việc trăm mẫu ấy; khi gặt trăm mẫu lúa ấy về, thì chứa ở kho vua, để cung cấp về việc tư thình nhà tôn miếu. Tàm tao = tàm là tằm, tao là ươm kén ra tơ, phu nhân là vợ vua chư hầu sai vợ các quan chăn tằm ở chỗ vườn dâu công, khi được kén, đem hiến phu nhân để ươm, phu nhân ba lần dúng tay vào nồi ươm, để làm phép cho sự ươm tơ; khi được tơ nhà vua nhà quan đều dùng, chế làm mũ áo tế, để tế đáng tiên vương tiên công. Tư thình = gạo tử tắc thơm tốt thổi thành xôi gọi là tư; đựng xôi vào mâm gọi là thình, thình nghĩa là đựng. Hi sinh = con vật đem giết để tế tự, như trâu, dê, lợn vv. Sinh sát = con vật đem giết tươi. Khí mãnh = cái đồ để dùng gọi là khí, cái nắp để đậy cái đồ gọi là mãnh. Yến = yên. Đây là giải ra cái nghĩa kẻ sĩ ba tháng không được gặp vua thì đáng nên viếng thăm. Vì trong một năm có bốn mùa, bốn lần tế tiên tổ, nếu kẻ sĩ mất ngôi quanthì không đủ lễ tế, mà lâu đến ba tháng thì khiếm khuyết mất một lần tế thì lòng không yên, cho nên đáng viếng thăm
「出疆必載質,何也?」
曰:「士之仕也,猶農夫之耕也。農夫豈為出疆舍其  耒耜哉?」
Xuất cương tất tái chi, hà dã? Viết: Sĩ chi sĩ dã, do nông phu chi canh dã; nông phu khởi vị xuất cương, xả kỳ lỗi chĩ tai
Dịch nghĩa: Chu Tiêu hỏi rằng: Đi ra khỏi cõi nước, tất đem lễ chí kiến, ý muốn kíp gặp vua, lá cớ sao?. Thầy Mạnh nói rằng: Người sĩ làm quan để thi thố cái đạo, cũng như người nông cày ruộng để mưu tính sự ăn; người nông há vì xa khỏi cõi nước, mà bỏ cả cái cày cái bừa đi hay sao?
Chú giải: Lỗi = cái đồ để cày ruộng, Chĩ = cái đồ để bừa cỏ. Đây là nói người sĩ đi đến đâu cũng đem lễ chí kiến để ra làm quan, cũng như người nông đi đến đâu cũng không bỏ cày bừa được
曰:「晉國亦仕國也,未嘗聞仕如此其急。仕如此其急也,君子之難仕,何也?」曰:「丈夫生而愿為之有室,女子生而愿為之有家。父母之心,人皆有之。不待父母之命、媒妁之言,鉆穴隙相窺,逾墻相從,則父母、國人皆賤之。古之人未嘗不欲仕也,又惡不由其道。不由其道而往者,與鉆穴隙之類也。」
Viết: Tấn quốc diệc sĩ quốc dã, vị thường văn sĩ như thử kỳ cấp, sĩ như thử kỳ cấp dã, quân tử chi nan sĩ, hà dã? Viết: Trượng phu sinh, nhi nguyện vị chi hữu thất; nữ tử sinh, nhi nguyện vị chi hữu gia; phụ mẫu chi tâm, nhân giai hữu chi, bất đãi phụ mẫu chi mệnh, môi chước chi ngôn, toàn huyệt khích tương khuy, du tường tương tùng, tắc phụ mẫu quốc nhân giai tiện chi. Cổ chi nhân vị thường bất dục sĩ dã, hựu ố bất do kỳ đạo, bất do kỳ đạo nhi vãng giả, dữ toàn huyệt khích chi loại dã.
Dịch nghĩa: Chu Tiêu hỏi rằng: Nước Tấn cũng là một nước nhiều kẻ sĩ đến làm quan, chửa từng nghe cầu sự làm quan kíp như thế, sự làm quan nếu kíp như thế, người quân tử sao lại ngần ngại khó lòng không chịu ra làm quan, là cớ sao?. Thầy Mạnh nói rằng: Con trai sinh ra, mà cha mẹ muốn vì con dựng vợ; con gái sinh ra, mà cha mẹ muốn vì con gả chồng; cha mẹ ai cũng đều sẵn có lòng ấy. Nhưng nếu người con chẳng đợi cái mệnh mẹ cha, cái lời mối lái, khoét lỗ hổng dòm nhau, trèo qua tường theo nhau thì cha mẹ và người trong nước đều khinh bỉ nó Người đời xưa chửa từng chẳng muốn ra làm quan, lại ghét về sự chẳng noi theo cái đạo chính đáng; chẳng noi cái đạo chính đáng mà đi cầu làm quan đó, cũng là cái loài khoét lỗ hổng vậy.
Chú giải: Tấn = một nước lớn thời Xuân Thu, đến đời Chiến quốc chi ra Hàn, Triệu, Nguỵ ba nước. Chu Tiêu người Nguỵ cho nên đem sự tấn mà nói. Thất gia = con trai có vợ là thành thất, con gái có chồng là thành gia. Toàn huyệt khích = khoét lỗ hổng. Đây là thí dụ về sự dựng vợ gả chồng tuy là sở nguyện nhưng khi lấy vợ lấy chồng, phải nên theo về đường chính đáng để giải ra nghĩa làm quan tuy là cần kíp nhưng khi ra làm quan cũng nên theo về đường chính đáng, không nên cẩu thả mà khuất mình đi cầu kiến người.
IV
彭更問曰:「後車數十乘,從者數百人,以傳食於諸侯,不以泰乎?」孟子曰:「非其道,則一食不可受於人。如其道,則舜受堯之天下,不以為泰,子以為泰乎?」
Bành Canh vấn viết: Hậu xa sổ thập thặng, tụng giả sổ bách nhân, dĩ chuiyển thực ư chư hầu, bất dĩ thái hồ. Mạnh Tử viết: Phi kỳ đạo, tắc nhất đan tự bất khả thụ ư nhân; như kỳ đạo, tắc Thuấn thụ Nghiêu chi thiên hạ, bất dĩ vi thái, tử dĩ vi thái hồ?
Dịch nghĩa: Bành Canh hỏi rằng: Nay có người đi đâu thì xe theo sau vài mươi cỗ, kẻ đi hầu vài trăm người, cứ lần từng trạm đi ăn ở các nước chư hầu, chẳng là xa xỉ lắm ư? Thầy Mạnh nói rằng: Quân tử ở đời giữ cho phải lẽ, nếu chẳng phải đạo lý, thì một giỏ cơm chẳng nên chịu nhận ở người; nếu phải đạo lý, thì vua Thuấn chịu nhận ở người; nếu phải đạo lý, thì vua Thuấn chịu nhân thiên hạ của vua Nghiêu, chẳng cho là xa xỉ, ngươi cho sự đi như thế đã làm xa xỉ lắm ư?
Chú giải: Bành Canh = học trò thầy Mạnh. Chuyến = cung trạm ở đường, lần lượt nước này sang nước khác. Đan = cái đồ đựng cơm làm bằng trúc. Thầy Mạnh khi ấy đi lịch sính các nước chư hầu xa mã đồ đệ rất nhiều, đồ cung cấp rất phong hậu, cho nên Bành Canh ngờ là thái xỉ mà hỏi
曰:「否。士無事而食,不可也。」
Viết: Phủ, sĩ vô sự nhi thực, bất khả dã.
Dịch nghĩa: Bành Canh nói rằng: Không phải ý thế. Trộng nghĩ rằng người sĩ không làm việc mà ăn không, thì không nên vậy
曰:「子不通功易事,以羨補不足,則農有餘粟,女有餘布。子如通之,則梓匠輪輿皆得食於子。於此有人焉;入則孝,出則悌,守先王之道,以待後之學者,而不得食於子。子何尊梓匠輪輿而輕為仁義者哉?」
Viết: Tử bất thông công dịch sự, dĩ tiện bổ bất túc, tắc nông hữu dư túc, nữ hữu dư bố. Tử như thông chi, tắc tử tượng luân dư giai đắc thực ư tử. Ư thử hữu nhân yên, nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, thủ tiên vương chi đạo, dĩ đãi hậu chi học giả, nhi bất đắc thực ư tử. Tử hà tôn tử tượng luân dư, nhi khinh vi nhân nghĩa giả tai.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Ngươi chẳng giao thông công việc đổi chác sự làm, đem đồ thừa bù cho đồ chẳng đủ, thì người nông có thóc bỏ thừa, người nữ công có vải bỏ thừa. Ngươi nếu giao thông đi, thì người thợ mộc người thợ xe đều được ăn lộc ở ngươi. Bây giờ có người, vào thì hết lòng hiếu, ra thì theo đạo đễ, giữ cái đạo đấng tiên vương, để đợi về sau làm phép cho kẻ học giả, mà lại chẳng được ăn lộc của ngươi. Ngươi sao tôn trọng người thợ mộc thợ xe, mà khinh rẻ người làm điều nhân nghĩa thế
Chú giải: Thông công dịch sự = đổi chác công việc mà làm, người nào làm việc có công thì đều được ăn lộc cả. Đây là kể ra cái công người sĩ rất to, đáng tôn đáng trọng gấp mấy người thợ mộc thợ xe, để giải cho cái lời ngờ rằng người sĩ không làm việc gì mà ăn không
曰:「梓匠輪輿,其志將以求食也。君子之為道也,其志亦將以求食與?」曰:「子何以其志為哉?其有功於子,可食而食之矣。且子食志乎?食功乎?」曰:「食志。」
Viết: Tử tượng luân dư, kỳ chí tương dĩ cầu thực dã. Quân tử chi vi đạo dã, kỳ chí diệc tương dĩ cầu thực dư? Viết: Tử hà dĩ kỳ chí vi tai, kỳ hữu công ư tử, khả tự nhi tự chi hĩ. Thả, tử tự chí hồ, tự công hồ? Viết: Tự chi.
Dịch nghĩa: Bành Canh nói rằng: Người thợ mộc người thợ xe chí họ toan để cầu ăn vậy. Người quân tử làm việc đạo học, cái chí cũng toan để cầu ăn đó dư? Thầy Mạnh nói rằng: Ngươi kể chi đến cái chí làm gì nữa, người quân tử có công với ngươi, nên nuôi thì nuôi đấy mà thôi. Vả, ngươi nuôi người có chí cầu ăn, hay nuôi người có công? Bành Canh nói: Nuôi cái chí
曰:「有人於此,毀瓦畫墁,其志將以求食也,則子食之乎?」
曰:「否。」曰:「然則子非食志也,食功也。」
Viết: Hữu nhân ư thử, huỷ ngoã hoạch man, kỳ chí tương dĩ cầu thực dã, tắc tử tự chi hồ? Viết: Phủ. Viết Nhiên tắc tử phi tự chí dã, tự công dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói: Có người ở đó, làm vỡ ngói, vạch nát tường, cái chí họ toan để cầu ăn đấy, thì ngươi nuôi họ chăng?. Bành Canh nói; Không nuôi, thầy Mạnh nói: Thế thì người không phải là nuôi cái chí, là nuôi cái công vậy.
Chú giải: man = nét trang sức chỗ tường vách. Đây là giải rõ cái nghĩa nuôi người chỉ trọng về có công mà công người sĩ lại to hơn công anh thợ mộc thợ xe, để cho Bành Canh hiểu đường khinh trọng, đừng vội chê người sĩ vô công mà ăn không vậy.
V
萬章問曰:「宋,小國也,今將行王政,齊楚惡而伐之,則如之何?」
Vạn Chương vấn viết: Tống tiểu quốc dã, kim tương hành vương chinh, Tể Sở ố nhi phạt chi, tắc như chi hà?
Dịch nghĩa: Vạn Chương hỏi rằng: Nước Tống là nước nhỏ, nay toan làm chính sự đời tam vương, nước Tề nước Sở ghét mà đánh mình, thì làm chính sách như thế nào?
Chú giải: Vạn Chương = học trò thầy Mạnh, khi ấy Tống vương tên là Yển từng diệt nước Đằng, đánh nước Tiết, muốn làm bá cả trong thiên hạ, nước Tề nước Sở ghen tức, mà muốn đánh nước Tống
孟子曰:「湯居亳,與葛為鄰。葛伯放而不祀,湯使人問之曰:『何為不祀?』曰:『無以供犧牲也。』湯使遺之牛羊,葛伯食之,又不以祀。湯又使人問之曰:『何為不祀?』曰:『無以供粢盛也。』湯使亳眾往為之耕,老弱饋食。葛伯率其民,要其有酒食黍稻者奪之,不授者殺之。有童子以黍肉餉,殺而奪之。《書》曰:『葛伯仇餉』,此之謂也。
Mạnh tử viết: Thang cư Bạc, dữ Cát vi lân. Cát bá phóng nhi bất tự. Thang sử nhân vấn chi, viết: Hà vi bất tự? Viết: Vô dĩ cung hi sinh dã. Thang sử duy chi ngưu dương. Cát bá thực chi, hựu bất dĩ tự. Thang hựu sử nhân vấn chi, viết: Hà vi bất tự? viết: Vô dĩ cung tư thình dã. Thang sử Bạc chúng vãng vị chi canh, lão nhược quĩ tự. Cát bá suất kỳ dân, yêu kỳ hữu tửu tự thử đạo giả đoạt chi, bất thụ giả sát chi. Hữu đồng tử dĩ thử nhục hướng, sát nhi đoạt chi. Thư viết: Cát bá cừu hướng. Thử chi vị dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Vua Thang ở đất Bạc, cùng nước Cát làm láng giềng. Tước Cát bá phóng tùng mả chẳng tế tự tổ tiên. Vua Thang sai người hỏi Cát bá rằng: Làm sao chẳng tế tự? Cát bá trả lời rằng: Không lấy gì cung cấp làm đồ hi sinh. Vua Thang sai đem cho Cát bá trâu dê, Cát bá ăn thịt trâu dê lại chẳng đem cúng tế gì cả. Vua Thang lại sai người hỏi Cát bá rằng: Làm sao chẳng tế tự? Cát bá trả lời rằng: Không lấy gì cung cấp làm đồ tư thình. Vua Thang sai dân đất Bạc đi cày giúp, kẻ già yếu đi đưa cơm, Cát bá đem dân mình đón dân vua Thang, kẻ nào có rượu cơm lúa thử lúa đạo thì cướp lấy, kẻ nào không cho thì giết đi. Có kẻ đồng tử đem cơm và thịt để đưa ăn. Cát bá giết đi mà cướp lấy. Kinh Thư nói rằng: Cát bá thù kẻ đưa cơm. Chính là sự ấy vậy.
Chú giải: Hi sinh, tư thình = Nghĩa đã thích ở chương trên. Quĩ tự = đưa cơm. Bất thụ = Không trao cho. Hướng = đem lương hưởng cũng như chữ Quĩ. Thư = Thiên. Trọng huỷ chi cáo trong sách Thượng thư.
為其殺是童子而征之,四海之皆曰:非富天下也,為匹夫匹婦復讎也。
Vị kỳ sát thị đồng tử nhi chinh chi, tứ hải chi nội giai viết: Phi phú thiên hạ dã, vị sất phu sất phụ phục thù dã.
Dịch nghĩa: Vua Thang vì Cát bà giết đứa đồng tử ấy mà đi đánh Cát bá. Trong bốn bể đều nói rằng: Vua Thang chẳng phải là tham thiên hạ đâu, là vì kẻ sất phu sất phụ báo thù đấy.
Chú giải: Phú thiên hạ = chữ phú nghĩa là lợi, lấy thiên hạ làm lợi mà tham muốn lấy được.
湯始征,自葛載。十一征而無敵於天下。東面而征,西夷怨;南面而征,北狄怨,曰:『奚為後我?』民之望之若大旱之望雨也。歸市者弗止,蕓者不變。誅其君,吊其民,如時雨降,民大悅。《書》曰:『徯我後,後來其無罰。』
Thang thuỷ chinh, tự Cát tái. Thập nhất chinh nhi vô địch ư thiên hạ. Đông diện nhi chinh, tây di oán; nam diện nhi chinh, bắc địch oán. Viết: hề vi hậu ngã? Dân chi vọng chi, nhược đại hạn chi vọng vũ dã. Quy thị giả phất chỉ, vân giả bất biến. Tru kỳ quân, điếu kỳ dân, như thời vũ giáng, dân đại duyệt. Thư viết: hễ ngã hậu, hậu lai kỳ vô phạt.
Dịch nghĩa: Vua Thang bắt đầu đi đánh tự phen đánh nước Cát trước. Đánh mười một nước, mà thiên hạ vô địch. Đi đánh mặt đông thì tây di mong, đi đánh mặt nam thì bắc dịch mong. Kẻ mong ấy nói rằng: Làm sao vua Thang đến đánh nước ta sau. Dân thiên hạ mong vua Thang, như lúc đại hạn mong mưa vậy. Kẻ về chợ cứ việc về chợ, kẻ vơ cỏ ruộng cứ việc vơ cỏ. Vua Thang đến đánh giết cái vua tàn ngược, thăm những dân bị khốn khổ, như trận mưa phải thời đổ xuống, dân thiên hạ bằng lòng cả. Kinh Thư nói rằng: Mong đợi vua ta, vua ta lại thì không bị ngược chính trách phạt nữa.
Chú giải: Tái = cũng như chữ thuỷ, nghĩa là mới bắt đầu. Oán = oán vọng, nghĩa là mong mỏi quá mà dường như oán hận. Phất chỉ = Chẳng thôi, cứ việc đi về, Bất biến = chẳng biến sợ, cứ việc làm. Hễ = mong đợi. Đây là thầy Mạnh kể sự vua Thang làm vương chính đi chinh phạt trừ kẻ tàn bạo mà dân đều mong đợi hoan nghênh.
『有攸不為臣,東征,綏厥士女。篚厥玄,紹我周王見休,惟臣附于大邑周。』其君子實玄于篚以迎其君子,其小人食壺漿以迎其小人。救民於水火之中,取其殘而已矣。
Hữu du bất vi thần, đông chinh tuy quyết sĩ nữ. Phỉ quyết huyền hoàng, thiệu ngã Châu vương, kiến hưu, duy thần phụ vu đại ấp Châu. Kỳ quân tử thực huyền hoàng vu phỉ, dĩ nghênh kỳ quân tử, kỳ tiểu nhân đan tự hồ tương, dĩ nghênh kỳ tiểu nhân, cưu dân ư thuỷ hoả chi trung, thủ kỳ tàn nhi dĩ hĩ.
Dịch nghĩa: Có kẻ nào theo vua Trụ làm ác mà chẳng làm tôi nhà Châu, thì Vũ vương sang phương đông đi đánh, để yên cho kẻ sĩ nữ. Kẻ sĩ nữ đựng lụa huyền hoàng vào cái phỉ, mà đón rước, nói rằng: Nay nối thờ vua nhà Châu ta mong nhờ ơn tốt, chỉ xin một lòng thần phục theo về ấp lớn nhà Châu. Quân tử nhà Thương thì đựng lụa huyền hoàng vào cái phỉ để đón người quân tử nhà Châu, tiểu nhân nhà Thương thì lấy giỏ mang cơm, lấy hồ mang nước, để đón tiểu nhân nhà Châu. Vì Châu Vũ vương cứu dân ở trong nước lửa, bắt giết kẻ tàn bạo mà thôi vậy.
Chú giải: Du, quyết = Du  cũng như chữ sở, quyết cũng như chữ ký là chữ hư tự, nghĩa là thửa, thường dùng làm chữ thay vì, (đại tự) Tuy = Yên, Huyền hoàng = Lụa nhuộm màu huyền mầu hoàng. Phỉ = cái đồ đựng lụa làm bằng trúc. Thiệu = nối, nghĩa là nối thờ, trước thờ vua Thương, sau thờ vua Châu. Quân tử = người có chức vị. Tiểu nhân = người dân quê
《太誓》曰:『我武惟揚,侵于之疆。則取于殘,殺伐用張,于湯有光。』
Thái hệ viết ; Ngã vũ duy dương, xâm vu chi cương; tắc thủ vu tàn, sát phạt dụng trương, vu Thang hữu quang.
Dịch nghĩa: Thiên Thái thệ nói rằng: Việc vũ ta phấn dương, lấn bờ cõi kẻ kia, bắt giết kẻ tàn bạo, uy sát phạt lừng lẫy, ví vua Thang càng sáng sủa.
Chú giải: Thái thệ = một thiên trong sách Châu thư. Nói về việc vua Vũ vương đánh vua Trụ ví với việc vua Thang đánh vua Kiệt lại có phần sáng sủa. Đây là thầy Mạnh dẫn kinh Thư mà kể ra sự vua Vũ vương làm vương chính đi đánh giết kẻ tàn bạo mà dân đón rước.
不行王政云爾;行王政,四海之皆舉首而望之,欲以為君。齊楚雖大,何畏焉?」
Bất hành vương chính vân nhĩ, cẩu hành vương chính, tứ hải chi nội, giải cử thủ nhi vọng chi, dục dĩ vi quân, Tề sở tuy đại, hà uý yên.
Dịch nghĩa: Nước Tống chẳng làm vương chính đấy vậy. Nếu làm vương chính thì trong bốn bể, đều cất đầu mà mong nước Tống, muốn thờ vua nước Tống làm vua, nước Tề nước sở dẫu lớn có sợ gì
孟子謂戴不勝曰:「子欲子之王之善與?我明告子:有楚大夫於此,欲其子之齊語也,則使齊人傅諸?使楚人傅諸?」曰:「使齊人傅之。」曰:「一齊人傅之,眾楚人咻之,雖日撻而求其齊也,不可得矣。引而置之莊岳之間數年,雖日撻而求其楚,亦不可得矣。
Mạnh tử vị Đái Bất Thắng viết: Tứ dục tử chi vương chi thiện dư? Ngã minh cáo tử. Hữu Sở đại phu ư thử, dục kỳ tử chi Tề ngữ dã, tắc sử Tề nhân phó chư, sử Sở nhân phó chư? Viết: Sử Tề nhân phó chi. Viết: Nhất Tề nhân phó chi, chúng Sở nhân hưu chi, tuy nhật thái nhi cầu kỳ Tề dã, bất khả đắc hĩ. Dẫn nhi trí chi Trang Nhạc chi gian, sổ niên, tuy nhật thát nhi cầu kỳ Sở, diệc bất khả đắc hĩ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh bảo Đái Bất Thắng rằng: Ngươi muốn vua nhà ngươi hay đấy dư? Ta bảo rõ cho ngươi: Nay có quan Đại phu nước Sở ở đây, muốn cho con mình học tiếng nước Tề, thì khiến người nước Tề dạy chăng, hay là khiến người nước Sở dạy chăng? Đái Bất Thắng nói rằng: Khiến người nước Tề dạy đấy. Thầy Mạnh nói rằng: Một người nước Tề dạy bảo, mà mọi người nước Sở làm huyên náo, thuy hàng ngày đánh đập, mà cầu cho con nói tiếng nước Tề, không thể được vậy. Nếu đưa con mà để ở chỗ đất Trang Nhạc lấy vài năm, tuy hàng ngày đánh đập mà cầu lấy con nói tiếng nước Sở, cũng chẳng thể được nữa.
Chú giải: Đái bất Thắng là quan nước Tống, Trang Nhạc = tệ làng, thuộc nước Tề. Đây là thầy Mạnh trước đặt ta lời thí dụ sự học tiếng nói phải gần người Tề mà học chuyên lâu ngày, thì mới có công hiệu, để hiểu ra cái lẽ muốn cho vua hay thì phải gần nhiều người khá.
子謂薛居州,善士也,使之居於王所。在於王所者,長幼卑尊皆薛居州也,王誰與為不善?在王所者,長幼卑尊皆非薛居州也,王誰與為善?一薛居州,獨如宋王何?」
Tử vị Tiết Cư Châu thiện sĩ dã, sử chi cư ư vương sở, tại ư vương sở giả, trưởng ấu ty tôn giai Tiết Cư Châu dã, vương thuỳ dữ vi bất thiện. Tại vương sở giả, trưởng ấu ty tôn giai phi Tiết Cư Châu dã, vương thuỳ dữ vi thiện. Nhất tiết Cư châu độc như Tống vương hà?
Dịch nghĩa: Ngươi cho Tiết Cư Châu là kẻ thiện sĩ, khiến người ấy ở chốn gần vua, kẻ ở chốn gần vua, người trưởng người ấu người ty người tôn đều là thiện sĩ như Tiết cư Châu, thì vua cùng ới ai làm điều bất thiện. Kẻ ở chốn gần vua, người trưởng người ấu người ty người tôn đều chẳng phải là thiện sĩ như Tiết Cư Châu, thì vua cùng với ai làm điều thiện. Một mình Tiết Cư Châu độc lực khuông chính vua Tống sao được.
Chú giải: Tiết Cư Châu cũng là quan nước Tống, Đái Bất Thắng tiến cử lên khiến ở chốn gần vua, để khuông chính vua, Đây là nói vua gần kẻ tiểu nhân thì nhiều, mà người quân tử chỉ có một, thì không thành được cái công khuông chính nhà vua, để hiểu cho Đái Bất Thắng phải nên dẫn nhiều người khá để giúp vua mới được.
VII
公孫丑問曰:「不見諸侯,何義?」孟子曰:「古者不為臣不見。
段干木逾垣而辟之,泄柳閉門而不納。是皆已甚;迫,斯可以見矣。
Công Tôn Sửu vấn viết: Bất kiến chư hầu hà nghĩa? Mạnh tử viết: Cổ giả bất vi thần bất kiến. Đoàn Can Mộc du viên nhi tị chi, Tiết Liễu bế môn nhi bất nạp, thị giai dĩ thậm. Bách, tư khả dĩ kiến hĩ.
Dịch nghĩa: Công Tôn Sửu hỏi rằng: Chẳng đi yết kiến vua chư hầu là nghĩa gì? Thầy Mạnh nói rằng: Đời xưa kẻ sĩ chưa từng đi làm tôi thì chẳng đi yết kiến. Ông Đoàn Can Mộc vượt qua tường mà tránh vua Văn hầu nước nguỵ, ông Tiết Liễu đóng cửa mà chẳng cho vua Mục công nước Lỗ vào yết kiến, hai ông ấy đều khí quá. Nếu ông vua cầu kiến bách thiết, thì nên ra yết kiến vậy.
Chú giải: Bất vi thần= Chửa từng đi làm tôi, nghĩa là chửa làm quan với nước chư hầu nào cả. Đoàn Can Mộc người đời Văn hầu nước Nguỵ. Tiết Liễu = Người đời mục công nước Lỗ. Đây là dẫn sự hai người nên yết kiến mà còn chẳng ra yết kiến.
陽貨欲見孔子,而惡無禮。大夫有賜於士,不得受於其家,則往拜其門。陽貨矙孔子之亡也,而饋孔子蒸豚,孔子亦矙其亡也而往拜之。當是時,陽貨先,豈得不見?
Dương Hoá dục hiện Khổng tử, nhi ố vô lễ. Đại phu hữu tử ư sĩ, bất đắc thụ ư kỳ gia, tắc vãng bái kỳ môn. Dương Hoá hám Khổng tử chi vong dã, nhi quỹ Khổng tử chưng đồn. Khổng tử diệc hám kỳ vong dã, nhi vãng bái chi. Đượng thị thời, Dương Hoá tiên, khởi đắc bất kiến.
Dịch nghĩa: Ngươi Dương Hoá muốn ông Khổng lại yết kiến mình, mà sợ người cho mình là vô lễ. Nhân lễ có nói rằng quan đại phu có đồ gì đem cho kẻ sĩ, kẻ sĩ đi vắng mà chẳng được bái nhận ở nhà mình, thì phải đến bái tạ ở cửa quan đại phu. Dương Hoá mới dòm ông Khổng lúc không có nhà, mà đem cho ông Khổng con lợn luộc chín. Ông Khổng cũng dòm ngươi Dương Hoá lúc không có nhà mà mà đi bái tạ Dương Hoá. Đương lúc ấy, ngươi Dương Hoá đưa lễ trước, ông Khổng không đi bái kiến sao được.
Chú giải: Dương Hoá là quan đại phu nước Lỗ, khi ấy Khổng tử là kẻ sĩ, mà Dương Hoá là quan đại phu, cứ lễ thì quan đại phu có cho kẻ sĩ cái đồ gì mà kẻ sĩ đi vắng không được đối trước mặt sứ giả mà bái tạ ngay, thì phải đến bái tạ tận nhà quan đại phu. Hiện = vời đến yết kiến. Hám = dòm, rình. Vong = đi vắng. Đây là dẫn sự ông Khổng tuy đi yết kiến mà vẫn nhưng nhiên không yết kiến.
曾子曰:『脅肩諂笑,病于夏畦。』子路曰:『未同而言,觀其色,赧赧然,非由之所知也。』由是觀之,則君子之所養,可知已矣。」
Tăng tử viết: Hiếp kiên siểm tiếu, bệnh vu hạ huề. Tử Lộ viết: Vị đồng nhi ngôn, quan kỳ sắc noãn noãn nhiên, phi Do chi sở tri dã. Do thị quan chi, tắc quân tử chi sở dưỡng khả tri dĩ hĩ.
Dịch nghĩa: Thầy Tăng nói rằng: So vai nịnh cười, kẻ ấy nhọc hơn kẻ đi làm ruộng mùa hè. Thầy Tử Lộ nói rằng: Cùng người chưa hợp mà gượng nói, xem cái sắc mặt đỏ tấy thẹn thùng, hạng người ấy chẳng phải Do này sá biết vậy. Do hai lời ấy xem ra, thì người quân tử bình nhật hàm dưỡng thế nào khá biết vậy
Chú giải: Tăng tử, Tử Lộ đều là bậc hiền triết cửa Khổng. Huề = Khổ ruộng. Hạ Huề là kẻ làm ruộng mùa hè. Noãn noãn = dáng bộ hổ thẹn mặt đỏ. Do = tên thầy Tử lộ. Sở dưỡng = Hàm dưỡng cái tâm chí của mình cho chính trực quang minh tự lúc bình nhật.
Đây là dẫn hai lời người hiền triết lúc bình nhật giữ cái đạo thẳng không chịu cẩu thả a dua, để cho rõ rằng người quân tử không khi nào chưa đợi lễ đến đón mà đã vội đi yết kiến chư hầu. Toàn chương này là nói đấng thánh nhân như Khổng tử, khi xuất xử tiến thoái đều hợp với lễ nghĩa trung chính. Còn như người hiền thì hẹp hòi quá, thương về đường bách thiết mà không được rộng lượng; kẻ tiểu nhân thì dua nịnh quá đắm về đường hèn hạ mà đáng xấu hổ.
VIII
戴盈之曰:「什一,去關市之征,今茲未能。請輕之,以待來年,然後已,何如?」
Đái Doanh Chi viết: Thập nhất khử quan thị chi chinh, kim tư vị năng, thỉnh khinh chi, dĩ đãi lai niên, nhiên hậu dĩ, hà như?
Dịch nghĩa: Đái Doanh Chi nói rằng: Dùng phép thập nhất lấy thuế mà bỏ mọi thứ thuế chỗ cửa quan chỗ chợ búa, hiện nay chưa thể làm được, xin hãy nhẹ bớt đi, để đợi năm sau rồi sẽ thôi hẳn, điều ấy thế nào?
Chú giải: Đái Doanh Chi = quan đại phu nước Tống. Thập nhất = tức là phép tỉnh điền, vạch khu đất ra hình chữ tỉnh mà chia phần lấy thuế một là phép đấng tiên vương. Khử = bỏ, bãi đi. Quan thị chi chinh = quan = cửa quan ải. Thị = chợ. Chinh = đánh thuế. Khi xưa những chỗ quan ải chợ búa không lấy thuế, chỉ lấy phép cai trị mà thôi, đến đời Chiến quốc mới đặt ra thuế chợ. Đây là Đái Doanh Chi muốn cách tệ chính, bãi trọng thuế, mà có ý dùng dằng chưa kiên quyết.
孟子曰:「今有人日攘其鄰之雞者,或告之曰:『是非君子之道。』曰:『請損之,月攘一雞;以待來年,然後已。』如知其非義,斯速已矣,何待來年?」
Mạnh tử viết: Kim hữu nhân, nhật nhương kỳ lân chi kê giả. Hoặc cáo chi viết: Thị phi quân tử chi đạo. Viết Thỉnh tổn chi, nguyệt nhương nhất kê, dĩ đãi lai niên, nhiên hậu dĩ. Như tri kỳ phi nghĩa, tư tốc dĩ hĩ, hà đãi lai niên.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Nay có kẻ cứ hằng ngày bắt lấy gà của láng giềng. Có người bảo rằng: Làm thế không phải đạo quân tử. Đáp lại rằng: Hãy xin bớt đi, mỗi tháng bắt trộm một gà, để đợi năm sau rồi sẽ thôi hẳn. Nếu đã biết sự lấy thuế nặng là phi nghĩa, thì nên chóng thôi đi, đợi gì đến năm sau.
Chú giải: Đây là nói rõ cho quan nước Tống biết rằng đã biết sự lấy thuế nặng hại dân là phi nghĩa mà chẳng bãi ngay đi, thì khác gì cái đứa đã biết sự bắt gà là phi nghĩa, mà lại còn mỗi tháng bắt một gà, đợi đến năm sau mới chừa

IX
公都子曰:「外人皆稱夫子好辯,敢問何也?」
孟子曰:「予豈好辯哉?予不得已也。
Công Đô tử viết: Ngoại nhân giai xưng phu tử hiếu biện, cảm vấn hà dã? Mạnh tử viết: Dư khởi hiếu biện tai, dư bất đắc dĩ dã.
Dịch nghĩa: Công Đô tử nói rằng: Người ngoài đều nói nhà thầy sính biện luận, dám hỏi cớ sao. Thầy Mạnh nói rằng: Ta há sính biện luận đâu, ta bất đăc dĩ vậy.
Chú giải: Biện = biện thuyết tranh luận, như nó bài bác đạo Dương Nặc
天下之生久矣,一治一亂。
Thiên hạ chi sinh cửu hĩ, nhất trị nhất loạn.
Dịch nghĩa: Từ khi thiên hạ có sinh dân đã lâu đến nay, thường một phen trị, một phen loạn.
Chú giải: Trị loạn = trỏ về khí vận của trời lúc thịnh lúc suy, và công việc của người khi đắc khi thất, nên mới thành ra có lúc trị lúc loạn. Đây là thầy Mạnh kể ra trị loạn là sự thường ở trong vòng lý thế, mà đổi loạn làm trị là trách nhiệm của đấng thánh hiền, để rõ ra sự bất đắc dĩ.
當堯之時,水逆行,泛濫於中國。蛇龍居之,民無所定。下者為,上者為營窟。《書》曰:『洚水警餘。』洚水者,洪水也。
Đương Nghiêu chi thời, thuỷ nghịch hành, phiếm lạm ư trung quốc, xà long cư chi, dân vô sở định, hạ giả vi sào, thượng giả vi doanh quật. Thư viết: Dáng thuỷ cảnh dư. Dáng thuỷ giả hồng thuỷ dã.
Dịch nghĩa: Đương thời vua Nghiêu, nước vì ủng tắc chẩy ngược lên, đầy rẫy ở chốn trung quốc, loài rắn rồng ở khắp cả, dân không có chốn định cư, chỗ thấp phải làm chòi mà ở, chỗ cao phải làm hang mà náu. Kinh Thư có nói rằng: Dáng thuỷ răn ta. Dáng thuỷ ấy là nước lớn
Chú giải: Doanh quật = Sửa sang làm hang. Thư = thiên đại vũ mô trong Ngu thư. Dáng thuỷ = nước lai láng đầy rẫy, không bờ bến gì. Đây là kể ra một hồi loạn về nạn hồng thuỷ mà thuộc về khí vận
使禹治之。禹掘地而注之海,驅蛇龍而放之菹,水由地中行,江、淮、河、漢  是也。險阻既遠,鳥獸之害人者消,然後人得平土而居之。
Sử Vũ trị chi, Vũ quật địa nhi chú chi hải, khu xà long nhi phóng chi thư, thuỷ do địa trung hành Giang, Hoài, Hà, Hán thị dã. Hiểm trở ký viễn, điểu thú chi hại nhân giả tiêu, nhiên hậu nhân đắc bình thổ nhi cư chi.
Dịch nghĩa: Vua Thuấn sai ông Vũ đi trị thuỷ, ông vũ khơi chỗ đất ủng tắc mà rót nước về bề, đuổi loài rắn rồng mà dồn nó vào chỗ dằm nước cỏ rậm, nước theo lòng sông chảy đi, là những con sông Giang, sông Hoài, sông Hà, sông Hán. Nơi lụt lội đã khỏi, loài chim muông làm hại người đã trừ hết, rồi sau nhân dân mới được chỗ đất phẳng mà ở.
Chú giải; Quật địa: Khơi đào chỗ đất ủng tắc. Thư = nơi chằm lầy cỏ rậm. Địa trung = luồng đất sâu có hai bờ, tức là các dòng sông. Hiểm trở = tức là chỗ lụt lội trở ngại nguy hiểm. Đây là kể ra vua Vũ lấy sức người trừ được nạn hồng thuỷ là một hồi trị thuộc về nhân sự.
堯舜既沒,聖人之道衰。暴君代作,壤宮室以為池,民無所安息;棄田以為園囿,使民不得衣食。邪暴行又作。園囿地沛澤多,而禽獸至。及紂之身,天下又大亂。
Nghiêu Thuấn ký một, thánh nhân chi đạo suy. Bạo quân đại tác, hoại cung thất dĩ vi ô trì, dân vô sở yên tức; khí điền dĩ vi viên hựu, sử dàn bất đắc y thực. Tà thuyết bạo hành hựu tác, viên hựu ô trì bái trạch đa, nhi cầm thú chi; cập Trụ chi thân, thiên hạ hựu đại loạn
Dịch nghĩa: Vua Nghiêu vua Thuấn đã mất rồi, đạo đấng thánh nhân suy; vua tàn bạo đời ấy đời khác dấy lên, huỷ hoại nhà cửa của dân để làm chuôm ao, dân không có chốn yên ở; bỏ ruộng của dân để làm vườn dược, khiến dân chẳng được ấm no. Tà thuyết bạo hạnh lại dấy lên, vườn dược chuôm ao rừng chằm nhiều quá, loài chim muông kéo đến; kịp đời vua Trụ, thiên hạ lại cả loạn.
Chú giải: Tà thuyết bạo hạnh= Những lời biện thuyết cong queo để giúp cho việc làm tàn bạo. Bái = chỗ cây cỏ rậm tốt. Đây là kể ra một hồi loạn về nỗi các vua tàn bạo, thuộc về nhân sự, mà cũng bởi về khí vận nữa.
周公相武王,誅紂、伐奄,三年討其君;驅飛廉於海隅而戮之;滅國者五十;驅虎豹犀象而遠之。  天下大悅。《書》曰:『丕顯哉文王謨!丕承
哉武王烈!佑我後人,咸以正無缺。』
Châu công tướng Vũ vương, tru Trụ, phạt Yêm tam niên thảo kỳ quân, khu Phi Liêm ư hải ngu nhi lục chi; diệt quốc giả ngũ thập; khu hổ báo tê tượng nhi viễn chi. Thiên hạ đại duyệt. Thư viết: Phi hiển tai Văn vương mô, phi thừa tai Võ vương liệt, hưu khải ngã hậu nhân, hàm dĩ chính vô khuyết.
Dịch nghĩa: Châu công làm tướng vua Võ vương, giết vua Trụ; đánh nước Yêm ba năm, trị tội vua nước ấy; đuổi người Phi Liêm ra góc bể mà giết đi; diệt năm mươi nước đảng ác với Trụ; và đuổi loài hổ báo tê tượng mà khiến nó xa đi, thiên hạ cả bằng lòng. Kinh Thư nói rằng: Rất rõ rệt thay mưu sáng nghiệp của vua Văn, khéo nối giữ thay công đại định của vua Võ; giúp đỡ mở mang cho con cháu chúng ta, đều là đạo chính đại không thiếu chút gì.
Chú giải: Yêm = một nước ở phương đông, giúp vua Trụ làm ác. Phi Liêm = bề tôi giúp cho vua Trụ làm ác. Thư = thiên. Quân nha trong châu thư, Phi  = lớn, rất. Hiển = rõ rệt, Mô = mưu mô. Thừa = nối giữ. Liệt = Công nghiệp, Khueyét = thiếu, khuyết lược. Đây là kể ra một hồi trị về đời võ vương hay giết được ác nhân, đuổi được ác vật, khỏi làm hại người, là một hồi tri thuộc về nhân sự
「世衰道微,邪暴行有作。臣其君者有之,子其父者有之。
Thế suy đạo vi, tà thuyết bạo hạnh hựu tác; thần thí kỳ quân giả hữu chi, tử thí kỳ phụ giả hữu chi.
Dịch nghĩa: Đời suy đạo mờ, tà thuyết bạo hành lại dấy lên, có kẻ làm tôi giết vua, có kẻ làm con giết cha
Chú giải: Tà thuyết bạo hạnh = là những lời phản thường nghịch lý và những sự bội lý loạn luân, như những việc giết vua giết cha. Hữu tác = đọc là Hựu tác, chữ hữu thông dụng như chữ hựu nghĩa là lại. Đây là kể ra một phen loạn về hồi nhà Châu đã dời sang phương đông, cái nạn tà thuyết bạo hạnh lại thảm hơn cái nạn hồng thuỷ bạo quân, là một hồi loạn bởi tự khí vận mà cũng bởi nhân sự nữa.
孔子懼,作《春秋》。《春秋》,天子之事也。是故孔子曰:『知我者,其惟《春秋》乎!  罪我者,其惟《春秋》乎!』
Khổng tử cụ, tác Xuân thu. Xuân thu thiên tử chi sự dã. Thị cố Khổng tử viết: Tri ngã giả, kỳ duy Xuân thu hồ, tội ngã giả kỳ duy Xuân thu hồ.
Dịch nghĩa: Ông Khổng tử lo sợ, làm ra sách Xuân thu. Sách Xuân thu là việc đấng thiên tử đó. Cho nên Khổng tử nói rằng: Kẻ biết ta vì nhân tâm thế đạo, ấy bởi sách Xuân thu, kẻ trách ta dám làm việc đấng thiên tử, ấy cũng bởi sách Xuân thu.
Chú giải: Cụ = sợ, nghĩa là lo về nhân tâm thế đạo suy đồi. Xuân thu = ông Khổng nhân sách sử nước Lỗ làm ra kinh Xuân thu, kẻ làm thiện thì khen, kẻ làm ác thì chê, ngụ phép tắc đấng vương giả, để thưởng người thiện, phạt người ác.
Đây là kể ra ông Khổng làm kinh Xuân thu để lại cái phép trí trị về muôn đời, khiến cho những kẻ loạn thần tặc tử phải sợ, đó là một hồi trị bởi công trước thuật, toàn thuộc về nhân sự.
聖王不作,諸侯放恣,處士橫議。楊朱、墨翟之言盈天下。天下之言,不歸楊則歸墨。楊氏為我,是無君也。墨氏兼愛,是無父也。無父無君,是禽獸也。公明儀曰:『庖有肥肉,有肥馬,民有饑色,野有餓莩,此率獸而食人也。』楊墨之道不息,孔子之道不著,是邪誣民、充塞仁義也。仁義 充塞,則率獸食人,人將相食。
Thánh vương bất tác, chư hầu phóng tứ, xử sĩ hoạnh nghi, Dương Chu, Mặc Địch chi ngôn doanh thiên hạ, thiên hạ chi ngôn, bất qui Dương tắc qui Mặc. Dương thị vị ngã, thị vô quân dã. Mặc thị kiêm ái, thị vô phu dã, Vô phụ vô quân, thị cầm thú dã, Công Minh Nghi viết: Bào hữu phì nhục, cứu hữu phì mã, dân hữu cơ sắc, dã hữu ngã biễu, thử suất thú nhi thực nhân dã. Dương Mặc chi đạo bất tức, Khổng tử chi đạo bất trứ, thị tà thuyết vu dân, sung tắc nhân nghĩa dã, nhân nghĩa sung tắc, tắc suất thú thực nhân, nhân tương tương thực.
Dịch nghĩa: Đấng thánh vương chẳng dấy, nước chư hầu giông càn, kẻ xử sĩ nói bậy, học thuyết người Dương Chu ngươi Mạc Địch đầy khắp trong thiên hạ, thiên hạ bàn học thuật, chẳng theo họ Dương thì theo họ Mặc. Họ Dương chủ về nghĩa vì mình chẳng thiết đem mình ra giúp đời, ấy là không có vua vậy. Họ Mặc chủ về nghĩa gồm yêu, coi người chí thân không khác gì người ngoài, ấy là không có cha vậy. Không có cha không có vua, đạo làm người tuyệt diệt, ấy là loài cầm thú vậy. Công Minh Nghi có nói rằng: Chạn có thịt béo, chuồng có ngựa béo, mà để cho dân có sắc đói, ngoài đồng có xác người chết đói, ấy là dòng loài thú mà ăn thịt người vậy. Cái đạo họ Dương họ Mặc mà chẳng diệt tắt đi, thì cái đạo ông Khổng tử chẳng rõ rệt, ấy chỉ vì những tà thuyết làm mê hoặc dân, đầy lấp mất cả nhân nghĩa. Đường nhân nghĩa bị đầy lấp, thì là giống loài thú ăn thịt người, mà loài người cũng sắp đến ăn thịt lẫn nhau.
Chú giải: Phóng tứ = rông rỡ làm càn. Hoạnh nghi = bàn ngang nói càn. Sung tắc = đầy lấp, làm cho ngăn trở. Đây là kể ra một hồi loạn về cái vạ tà thuyết làm vu hoặc nhân tâm, như cái thuyết họ Dương họ Mặc làm hại mất cả nhân nghĩa, khiến loài người sắp đến ăn thịt lẫn nhau chính là hồi đại loạn đời Chiến quốc, bởi cả nhân sự và khí vận sui nên, đáng sợ hơn đời Xuân thu.
吾為此懼,閑先聖之道,距楊墨、放淫辭,邪者不得作。作於其心,害於
其事;作於其事,害於其政。聖人復起,不易吾言矣。
Ngô vị thử cụ, nhàn tiên thánh chi đạo, cự Dương Mặc, phóng dâm từ, tà thuyết giả bất đắc tác. Tác ư kỳ tâm, hại ư kỳ sự, tác ư kỳ sự, hại ư kỳ chính. Thánh nhân phục khởi, bất dịch ngô ngôn hĩ.
Dịch nghĩa: Ta vì thế mà lo sợ, phải phòng vệ lấy đạo của đấng tiên thánh, cự tuyệt học thuyết họ Dương họ Mặc, ruồng bỏ những lời dâm đãng, khiến cho tà thuyết không được dấy lên nữa. Tà thuyết mà khởi lên ở tâm thuật thì hại ngay ở sự làm; khởi ở sự làm thì hại đến chính lớn. Sau này bậc thánh nhân nào lại dấy lên cũng không di dịch được cái lời “tác tâm hại sự, tác sự hại chính” của ta được.
Chú giải: Nhàn = phòng giữ, hộ vệ cho khỏi hại đến. Tiên thánh = trỏ về ông Khổng tử. Dâm từ = Lời nói dông dài không hợp chính lý. Sự = mọi điều cử động hành vi của cá nhân. Chính = mọi điều kỷ cương pháp độ của xã hội.
Đây là kể ra cái trách nhiệm mình phải phòng vệ chính đạo, cự tuyệt dị đoan. Thầy Mạnh mà hay cự tuyệt được đạo Dương Mặc khiến cho đạo quân thần phụ tử không đến tuyệt diệt, cũng là một hồi trị vậy
昔者禹抑洪水而天下平,周公兼夷狄、驅猛獸而百姓寧,孔子成《春秋》而亂臣賊子懼。
Tích giả Vũ ức hồng thuỷ nhi thiên hạ bình. Châu công kiêm di địch khu mãnh thú nhi bách tính ninh. Khổng tử thành Xuân thu nhi loạn thần tặc tử cụ.
Dịch nghĩa: Xưa kia vua Vũ trị cái nạn hồng thuỷ mà thiên hạ bình. Ông Châu công đánh kẻ mọi rợ đuổi loài thú dữ mà trăm họ yên. Đức Khổng tử làm thành sách Xuân thu mà kẻ loạn thần kẻ tặc tử sợ.
Chú giải: Ức = trị cho yên đi. Kiêm = đánh mà gồm lấy. Đây là nói tóm lại cái công nghiệp của ba ông thánh
詩云:『戎狄是膺,荊舒是懲;則莫我敢承。』無父無君,是周公所膺也。
Thi vân: Nhung Địch thị ưng, Kinh Thư thị trừng, tắc mạc ngã cam thằng. Vô phu vô quân, thị Châu công sở ưng dã.
Dịch nghĩa: Kinh Thi có nói rằng: Rợ Nhung địch phải dẹp đi, rợ kinh thư phải trị đi, thì chẳng còn ai dám đương với ta nữa. Nay đạo Dương Mặc là đạo vô phụ vô quân, tệ hại hơn loài mọi rợ, thì Châu công tất phải dẹp đi vậy.
我亦欲正人心、息邪、距詖行、放淫辭,以承三聖者。豈好辯哉?予不得已也。
Ngã diệc dục chính nhân tâm, tức tà thuyết, cự bỉ hạnh, phóng dâm từ, dĩ thừa tam thánh giả; khởi hiếu biện tai, dư bất đắc dĩ dã.
Dịch nghĩa: Ta cũng muốn chính nhân tâm, diệt tà thuyết, cự tuyệt cái hạnh thiên lệch, ruồng đuổi cái lời dâm đãng, để nối lấy công nghiệp ba ông thánh trên đó; há sính gì biện thuyết tranh luận đâu, ta bất đắc dĩ vậy.
Chú giải: Bỉ = thiên lệch bất chính. Đây là nói rõ ra cái cớ bất đắc dĩ, chứ không phải là hiếu biện. Vì cái vạ tà thuyết của Dương Mặc, làm hại mất tâm thuật người, có phần tệ hơn cái nạn nước lụt thú dữ, thảm hơn cái vạ mọi rợ tranh cướp, nên thầy Mạnh sợ vì thế, bất đắc dĩ phải biện bác để cứu vớt cho thiên hạ vậy.
能言距楊墨者,聖人之徒也。」
Năng ngôn cự Dương Mặc giả, thánh nhân chi đồ dã.
Dịch nghĩa: Thiên hạ không kỳ ai mà hay nói để cự tuyệt cái học thuyết Dương Mặc, thì người ấy là môn đồ thánh nhân cả.
Chú giải: Đây là nói cái trách nhiệm cự tuyệt dị đoan là trách nhiệm chung của người trong thiên hạ, không riêng gì trách nhiệm thầy Mạnh, ai cũng có thể lấy biện luận mà cự tuyệt những kẻ tà thuyết đi được. Huống chi thầy Mạnh lại cốt vì duy trì lấy thế đạo, muốn không biện bác sao được.
X
匡章曰:「陳仲子豈不誠廉士哉?居於陵,三日不食,耳無聞,目無見也。井上有李,螬食實者過半矣,匍匐往將食之,三咽,然後耳有聞、目有見。
Khuông Chương viết: Trần Trọng tử khởi bất thành liêm sĩ tai, cư Ô lăng, tam nhật bất thực, nhĩ vô văn, mục vô kiến dã. Tỉnh thượng hữu lý, tào thực thực giả quá bán hĩ. Bồ bặc, vãng tương thực chi, tam yết, nhiên hậu nhĩ hữu văn, mục hữu kiến.
Dịch nghĩa: Khuông Chương nói rằng: Ngươi Trần Trọng tử há chẳng thực là người liêm sỉ lắm thay! Trọng tử ở đất Ô lăng, cúng khổ đến nỗi ba ngày chẳng được ăn, cơ hồ tai không nghe, mắt không thấy gì cả. Trên bờ giếng có cây mận, con sâu Tào ăn quả nó đã hết quá nửa. Trọng tử khúm núm bò đến ăn cái quả ấy, nuốt ba cái rồi sau tai mới lại nghe rõ, mắt mới lại trông thấy.
Khuông Chương, Trần Trọng tử = đều là người nước Tề, Liêm = tự xử có phần hạn phân minh, không thèm lấy của người. Bồ bặc = mỏi mệt phải bò khúm núm mà đi. Đây là Khuông Chương kể ra cái khổ tiết thanh liêm để chứng thực về cái nết liêm mà khen Trọng tử
孟子曰:「於齊國之士,吾必以仲子為巨擘焉。雖然,仲子惡能廉?充仲子之操,則螾而後可者也。
Mạnh tử viết: Ư Tề quốc chi sĩ, ngô tất dĩ Trọng tử vi cự phách yên. Tuy nhiên, Trọng tử ô năng liêm; sung Trọng tử chi tháo, tắc dẫn nhi hậu khả giả dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Hiện nay kẻ sĩ trong nước Tề, ta phải cho Trọng tử là một tay cự phách vậy. Tuy vậy, Trọng tử sao hay gọi được là liêm; cứ sung cái nết của Trọng tử mà suy làm cho cùng, thì chỉ như loài giun mới có thể làm được vậy.
Chú giải: Cự phách = ngón tay cái to hơn các ngón tay khác, ví cái người giỏi hơn trong hạng người. Sung = đầy, suy cho đến đầy đủ, tháo = cái nết giữ gìn, cái tiết tháo. Đây là nói cứ như cái nết Trọng tử mà suy làm cho đến cùng, thì trừ phi như loài giun không cầu gì đến ai nữa, thì mới gọi là liêm được.
夫螾上食槁壤,下飲泉。仲子所居之室,伯夷之所筑與?抑亦盜跖 之所筑與?所食之粟,伯夷之所樹與?抑亦盜跖之所樹與?是未可知也。」
Phù dẫn, thượng thực cảo nhưỡng, hạ ẩm hoàng tuyền. Trọng tử sở cư chi thất, bá di chi sở trúc dư, ức diệc Đạo Chích chi sở trúc dư? Sở thực chi túc, Bá Di chi sở thụ dư, ức diệc Đạo Chích chi sở thụ dư? Thị vị khả tri dã.
Dịch nghĩa: Ôi, loài giun, trên ăn đất khô, dưới uống nước đục, không cầu gì với đời nữa thì mới hay liêm được. Nay Trọng tử còn phải có nhà ở, cái nhà của Trọng tử ở, có được như nhà Bá Di làm ra chăng? Hay cũng như nhà Đạo Chích làm ra chăng? Trọng tử còn phải ăn đến thóc. Bá Di trồng ra chăng? Hay cũng như thóc Đạo Chích trồng ra đấy chăng? Sự ấy cũng chưa biết đâu được.
Chú giải: Bá Di = con vua Cô trúc nhường nước cho em, có tiếng là người liêm, Đạo Chích = kẻ trộm đời Xuân Thu tên là Chích, có tiếng là người tham. Đây là nói Trọng tử còn phải có sự ăn ở, còn phải có sở cầu với đời, không thể bắt chước như loài giun được, thì chưa chắc đã thanh được như Bá Di, hay cũng tham như Đạo Chích, chưa vội khen là liêm sỉ được.
曰:「是何傷哉?彼身織屨、妻辟纑,以易之也。」
Viết: Thị hà thương tai. Bỉ thân chức lũ, thê bích lư, dĩ dịch chi dã.
Dịch nghĩa: Khuông Chương nói rằng: Ấy có hại gì đến sự liêm đâu. Người kia thân làm nghề dệt dép, vợ làm nghề đánh thừng gai, để đổi lấy thức ăn vậy.
Chú giải: Bích = vặn, đánh ra, chuỗi ra, thừng. Lư = thứ gai đã luyện chín.
Đây là nói thức ăn ở của Trọng tử tuy không phải tự Bá Di làm ra, nhưng không phải là của phi nghĩa, thì cũng không hại gì sự liêm
曰:「仲子,齊之世家也。兄戴,蓋祿萬鍾。以兄之祿為不義之祿而不食也,以兄之室為不義之室而不居也,避兄、離母,處於於陵。他日歸,則有饋其兄生鵝者,己頻戚曰:『惡用是鶃鶃者為哉?』他日其母殺是鵝也,與之食之。其兄自外至,曰:『是鶃鶃之肉也。』出而哇之。
Viết: Trọng tử Tề chi thế gia dã, huynh Đái, Cáp lộc vạn chung. Dĩ huynh chi lộc, vi bất nghĩa chi lộc, nhi bất thực dã; dĩ huynh chi thất, vi bất nghĩa chi thất, nhi bất cư dã; tị huynh ly mẫu, xử ư Ô lăng. Tha nhật quy, tắc hữu quỹ kỳ huynh sinh nga giả; kỷ tần xúc viết: Ô dụng thị ngật ngật giả vi tai! Tha nhật, kỳ mẫu sát thị nga dã, dữ chi thực chi. Kỳ huynh tự ngoại chi, viết: Thị ngật ngật chi nhục dã. Xuất nhi oa chi.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói rằng: Trọng tử là dòng dõi thế gia nước Tề vậy, người anh là Đái, ăn lộc phong ấp đất Cáp muôn chung thóc. Trọng tử cho cái lộc của anh là cái lộc bất nghĩa mà chẳng ăn; cho nhà của anh là cái nhà bất nghĩa mà chẳng ở; tránh anh lìa mẹ ra ở đất Ô lăng. Một ngày kia tự đất Ô lăng về chơi thì thấy có kẻ đem cho anh con ngỗng sống, Trọng tử tự mình nhăn nó bảo rằng: Dùng làm gì cái con tiếng kêu ngật ngật kia! Ngày khác, người mẹ giết con ngỗng ấy, cho Trọng tử ăn. Người anh tự ngoài đi đến nói rằng: Ấy là thịt cái con kêu ngật ngật đấy. Trọng tử bước ra mà oẹ nhổ cái thịt ấy đi.
Chú giải: Thế gia = Nhà đời đời nối dõi làm quan khanh. Tần xúc = nhăn nó không hả lòng. Ngật ngật = tiếng ngỗng kêu. Đây là thầy Mạnh thuật ra cái sự trạng của Trọng tử làm ra bộ kiểu khích thanh liêm
以母則不食,以妻則食之;以兄之室則弗居,以於陵則居之。是尚為能充其類也乎?若仲子者,螾而後充其操者也。」
Dĩ mẫu tắc bất thực, dĩ thê tắc thực chi; dĩ huynh chi thất tắc phất cư, dĩ Ô lăng tắc cư chi; thị thượng vi năng sung kỳ loại dã hồ. Nhược Trọng tử giả, dẫn nhi hậu sung kỳ tháo giả dã.
Dịch nghĩa: Lấy của mẹ thì chẳng ăn, mà của vợ thì ăn; lấy nhà của anh thì chẳng ở, mà đất Ô lăng thì ở; như thế thì đã hay sung được cái tiết tháo, bỏ hết sự ăn ở đâu! Cứ như nết Trọng tử thì chỉ làm loài giun bỏ hết sự ăn ở mới làm cho sung được cái tiết tháo ấy vậy.

Chú giải: Đây là thầy Mạnh phán đoán cái nết liêm của Trọng tử, bảo rằng trừ phi Trọng tử không ăn của vợ, không ở Ô lăng, bỏ hết cả sự ăn sự ở đi thì mới giữ trọn được cái nết liêm, để rõ ra cái liêm của Trọng tử là cái nết liêm kiểu khích, không phải là nết liêm chính đáng.  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét