Thứ Bảy, 24 tháng 6, 2017

MẠNH TỬ 11

丑下
  孟子曰:「天時不如地利,地利不如人和。
Mạnh Tử viết: Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói: Thời trời chẳng bằng lợi đất, lợi đất chẳng bằng người hoà.
Chú giải: Thiên thời: Tính theo 12 chi, như ngày tí, sửu … 10 ngày can … ; thuộc về những ngày xấu là ngày cô, ngày hư, ngày tốt là ngày vượng, ngày tướng. Địa lợi = những nơi thành hào hiểm trở bền chặt. Nhân hoá = Là lòng dân hoà thuận. Đây là nói cái cốt yếu về việc giữ nước và việc dùng binh, chắc về thiên thời địa lợi, không bằng chắc về nhân hoá là hơn
三里之城,七里之郭,環而攻之而不勝;夫環而攻之,必有得天時者矣,然而不勝者,是天時不如地利也。
Tam lý chi thành, thất lý chi quách, hoàn nhi công chi bất thắng; phù hoàn nhi công chi, tất hữu đắc thiên thời giả hĩ, nhiên nhi bất thắng giả, thị thiên thời bất như địa lợi dã.
Dịch nghĩa: Cái thành nhỏ có ba dặm, cái quách nhỏ có bảy dặm, vây mà đánh đấy, mà không đánh được. Ôi vây mà đánh đấy, là chắc cậy được ngày tốt vậy. Thế mà không được, ấy là thời trời không bằng lợi đất vậy.
Chú giải: Quách = cái thành ngoài. Ba dặm bảy dặm là nói nhỏ hẹp Hoàn = Vây quanh. Đây là nói cậy được ngày tốt mà không đánh phá được một cái thành nhỏ, để giải ra cái lẽ thiên thời không bằng địa lợi
城非不高也,池非不深也,兵革非不堅利也,米粟非不多也,委而去之,是地利不如人和也。
Thành phi bất cao dã, trì phi bất thâm dã, binh cách phi bất kiên lợi dã, mễ túc phi  bất đa dã, ủy nhi khứ chi, thị địa lợi bất như nhân hòa dã.
Dịch nghĩa: Thành không phải là không cao, hào không phải là không sâu, áo giáp đồ binh không phải là không bền và sắc, gạo thóc không phải là không nhiều, thế mà không được lòng dân, dân bỏ cả thành hào, giáp binh, gạo thóc mà đi; ấy là lợi đất không bằng người hoà vậy.
Chú giải: Trì = ao, hào. Cách = da, áo giáp làm bằng da con thú, để tránh mũi tên. Binh = đồ binh, như gươm giáo. Kiên lợi = bền sắc. Uỷ = bỏ. Đây là nói không được lòng dân, thì dẫu thành trì cũng không giữ được, để giải ra cái lẽ địa lợi không bằng nhân hoà
故曰:域民不以封疆之界,固國不以山溪之險,威天下不以兵革之利。得道者多助,失道者寡助。寡助之至,親戚畔之;多助之至,天下順之。以天下之所順,攻親戚之所畔,故君子有不戰,戰必勝矣。」
Cố viết: vực dân bất dĩ phong cương chi giới, cố quốc bất dĩ sơn khê chi hiểm, uy thiên hạ bất dĩ binh cách chi lợi. Đắc đạo giả đa trợ, thất đạo giả quả trợ. Quả trợ chi chí, thân thích bạn chi, đa trợ chi chí, thiên hạ thuận chi. Dĩ thiên hạ chi sở thuận công thân thích chi sở bạn, cố quân tử hữu bất chiến, chiến tất thắng hĩ.
Dịch nghĩa: Cho nên bảo rằng muốn ngăn giữ dân chẳng cứ ở bờ cõi giới hạn, muốn bền giữ nước chẳng cứ ở núi khe hiểm trở, muốn uy phục thiên hạ chẳng cứ ở đồ binh giáp sắc bền. Cốt ở ông vua làm phải đạo thì nhiều kẻ giúp, ông vua làm trái đạo thì ít kẻ giúp; ít kẻ giúp lắm, thì đến cả thân thích cũng phản; nhiều kẻ giúp lắm, thì đến cả thiên hạ đều theo. Đem cái ông vua thiên hạ thuận theo cả mà đánh cái nước thân thích lìa phản cả, thì làm gì chẳng được, cho nên người quân tử chẳng đi đánh thì thôi, đi đánh thì hẳn được
Chú giải: Vực = giới hạn, vực dân = hạn chế chỗ dân ở, chia ra có giới hạn, cho dễ cai trị. Cố = bền chặt. Cố quốc = giữ nước cho bền chặt. Khê = khe núi, Uy = oai. Uy thiên hạ = lấy oai võ phục thiên hạ. Đắc đạo = Thi hành chính sự hợp với nhân đạo. Thất đạo = thi hành chính sự trái mất nhân đạo. Chí = rất đỗi, quá lắm. Thân thích = họ hàng thân thiết. Đây là nói rõ ra cái đạo giữ nước và dụng binh, dẫu địa lợi cũng không chắc nữa là thiên thời, vậy phải cốt lấy nhân hoà làm trọng
孟子將朝王。王使人來曰:「寡人如就見者也,有寒疾,不可以風;朝將視朝,不識可使寡人得見乎?」對曰:「不幸而有疾,不能造朝。」
Mạnh Tử tương triều vương. Vương sử nhân lai viết: Quả nhân như tựu kiến giả dã, hữu hàn tật, bất khả dĩ phong; triều tương thị triều, bất thức khả sử quả nhân đắc kiến hồ? Đối viết: bất hạnh nhi hữu tật, bất năng tạo triều.
 Thầy Mạnh toan vào chầu vua Tề. Vua sai người lại triệu thầy mà rằng: Quả nhân này vẫn định ra tiếp kiến thầy đấy, nhưng vì có cảm hàn, không đi ra gió được. Sớm mai này sẽ ra coi chầu, chẳng hay thầy có vào chơi, để cho quả nhân này được tiếp kiến không? Thầy thưa: tôi chẳng may cũng có bệnh, không thể đi tới chầu được.
Chú giải: vương = vua nước Tề, Hàn tật = Bệnh cảm hàn. Tạo = đi đến. Bấy giờ thầy Mạnh hiện ở nước Tề, ở vể cái địa vị làm khách và làm thầy, cho nên trong khi tiến thoái, phải giữ gìn cho hợp lễ. Nhân thấy vua thác tật để triệu mình, nên thầy cũng thác tật mà không ứng triệu, để tỏ ý rằng những bậc tân khách, sư thầy không thể triệu được
明日出弔於東郭氏。公孙丑曰:「昔者辭以病,今日弔,或者不可
乎?」曰:「昔者疾,今日愈,如之何不弔?」
Minh nhật xuất điếu ư Đông Quách Thị. Công Tôn Sửu viết: Tích giả từ dĩ bệnh, kim nhật điếu, hoặc giả bất khả hồ? Viết: Tích giả tật, kim nhật dũ, như chi hà bất điếu?
Dịch nghĩa: Sớm ngày mai thầy Mạnh ra thăm viếng nhà họ Đông Quách. Công tôn Sửu nói rằng: Hôm trước từ chối với vua rằng có bệnh, hôm nay đi thăm viếng, chẳng hoá ra không phải chăng? Thầy nói: Hôm qua yếu, hôm nay khỏi, việc gì mà chẳng đi thăm
Chú giải: Đông Quách thị = Nhà quan đại phu nước Tề. Đây là thầy Mạnh có ý đi thăm là để tỏ cho Tề vương biết rằng mình không muốn ứng triệu, nên cũng thác tật ra đó mà thôi
王使人問疾,醫來。孟仲子對曰:「昔者有王命,有采薪之憂,不能造朝。今病小愈,趨造於朝;我不識能至否乎?」使數人要於路曰:「請必無歸,而造於朝。」
Vương sử nhân vấn tật, y lai. Mạnh Trọng Tử đối viết: Tích giả hữu vương mệnh,
hữu thái tân chi ưu, bất năng tạo triều. Kim bệnh tiểu dũ, xu tạo ư triều; ngã bất thức năng chí phủ hồ? Sử sổ nhân yếu ư lộ viết: Thỉnh tất vô quy, nhi tạo ư triều.
Dịch nghĩa: Vua sai người đến thăm bệnh, đem cả thầy thuốc lại. Mạnh Trọng Tử thưa rằng: Hôm qua có mệnh vua triệu thầy tôi, thầy tôi vì yếu mệnh không cất nhắc được, nên không vào chầu; nay bệnh mới hơi bớt, dảo đi đến chầu, tôi không biết đã đến nơi chưa. Lại sai vài người đi đón thầy Mạnh ở ngang đường mà nói rằng: Xin đừng trở về vội mà đi đến chầu
Chú giải: Mạnh Trọng Tử = Anh em bá thúc với thầy Mạnh, và là học trò thầy Mạnh. Thái tân chi ưu = có bệnh không hái củi được, lời mói nhún, ý là nói mắc yếu đau không cất nhắc được. Đây là Trọng Tử quyền nghi nói bịa ra mấy lời, để thưa với sứ giả; lại sai người đi bảo thầy Mạnh đứng về để cho đúng với lời nói của mình nói 
不得已而之景醜氏宿焉。景子曰:「內則父子,外則君臣,人之大倫也。
父子主恩,君臣主敬。醜見王之敬子也,未見所以敬王也。」曰:「惡!是何言也!齊人無以仁義與王言者,豈以仁義為不美也?其心曰『是何足
與言仁義也』云爾,則不敬莫大乎是。我非堯舜之道不敢以陳於王前,故齊人莫如我敬王也。」景子曰:「否,非此之謂也。
Bất đắc dĩ nhi chi Cảnh Xú Thị túc yên. Cảnh tử viết: nội tắc phụ tử, ngoại tắc quân thần, nhân chi đại lân dã. Phụ tử chủ ân, quân  thần chủ kính. Xú kiến vương chi kính tử dã, vị kiến sở dĩ kính vương dã. Viết: Ô! thị hà ngôn dã! Tề nhân vô dĩ
nhân nghĩa dữ vương ngôn giả, khởi dĩ nhân nghĩa vi bất mỹ dã? Kỳ tâm viết: “Thị  hà túc dữ ngôn nhân nghĩa dã” Vân nhĩ, tắc bất kính mạc đại hồ thị. Ngã phi Nghiêu Thuấn chi đạo bất cảm dĩ trần ư vương tiền, cố Tề nhân mạc như ngã kính vương dã. Cảnh Tử viết: Phủ, phi thử chi vị dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh Bất đắc dĩ mà phải đi đến nhà họ Cảnh Xú ngủ đêm. Cảnh tử nói rằng: Bề trong thì cha con, bề ngoài thì vua tôi, loà cái đạo lớn của người ta vậy; cha con cốt ở điều ân; vua tôi cốt ở điều kính. Sửu này thấy vua kính nhà thầy, chửa thầy nhà thầy có điều gì kính vua . Thầy nói: Ôi ! sao lại nói thế. Người nước Tề không ai đem nhân nghĩa nói với vua, há cho nhân nghĩa là chẳng tốt đâu, chỉ là cái tâm họ cho là vua sao đủ cùng nói nhân nghĩa đấy thôi, thì cái tội bất kính không gì lớn hơn tội ấy. Ta thì những điều gì chẳng phải đạo vua Nghiêu vua Thuấn, chẳng dám đem bày ra ở trước mặt vua, cho nên người nước Tề không ai bằng ta kính vua vậy
Chú giải: Cảnh Xú thị = Họ Cảnh tên Xú, tức là nhà quan đại phu nước Tề. Lời Cảnh Sửu nói là thiên về điều kính nhỏ, lời thầy Mạnh nói là trọng về điều kính lớn
景子曰否非此之謂也。禮曰:『父召無諾;君命召,不俟駕。』固將
朝也,聞王命而遂不果,宜與夫禮若不相似然。」
Dịch âm: Cảnh tử viết: Phủ, phi thử chi vị dã. Lễ viết: “phụ triệu vô nặc, quân mệnh triệu, bất sĩ giá” Cố tương triều dã, văn vương mệnh nhi toại bất quả, nghi dữ phu lễ nhược bất tương tự nhiên.
Dịch nghĩa: Cảnh tử nói: Không, không phải là nói về lẽ ấy. Kinh Lễ có nói: Cha gọi đến liền dạ không dám vâng, mệnh vua triệu đến liền đi không đợi sắp xe. Nay đã sắp đi chầu vua, nghe có mệnh vua triệu rồi lại chẳng đi nữa, thế thì so với lễ hình như không hợp vậy
Chú giải: Nặc = vâng, vâng có ý chậm trễ, không bằng dạ, dạ có ý mau mắn đi làm ngay, Giá = sắp ngựa vào xe, Bất sĩ giá =Không đợi sắp xe mà đi ngay, là có ý không dám chậm trễ, Bất quả = không quả quyết đi. Toại = bèn, tiếng đưa đẩy, như tiếng rồi lại. Bất tương tự = không giống nhau, ý là không hợp với lễ. Đây là Cảnh Sửu dẫn kinh Lễ để bắt bẻ thầy Mạnh không ứng triệu là không hợp lễ. Nhưng đó là lễ kẻ làm tôi, chớ không đem bắt bẻ những bậc làm thầy làm khách được.
曰:「豈謂是與?曾子曰:『晉楚之富,不可及也。彼以其富,我以吾仁;彼以其爵,我以吾義,吾何慊乎哉?』夫豈不義而曾子言之?是或一道也。天下有達尊三:爵一,齒一,德一。朝廷莫如爵,鄉黨莫如齒,輔世長民莫如德。惡得有其一,以慢其二哉?
Viết: khởi vị thị dư? Tăng tử viết: Tấn Sở chi phú, bất khả cập dã. Bỉ dĩ kỳ phú, ngã dĩ ngô nhân, bỉ dĩ kỳ tước, ngã dĩ ngô nghĩa, ngô hà khiểm hồ tai? Phù khởi bất nghĩa, nhi Tăng tử ngôn chi, thị hoặc nhất đạo dã. Thiên hạ hữu đạt tôn tam: tước nhất, xỉ nhất, đức nhất. Triều đình mạc như tước, hương đảng mạc như xỉ, phụ thế trưởng dân mạc như đức; ô đắc hữu kỳ nhất dĩ mạn kỳ nhị tai
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói: Ý ta há phải nói thế đâu. Thầy Tăng tử nói: Nước Tấn nước sở họ giàu, không ai bì được thực; họ cậy họ là giàu, thì ta cậy điều nhân của ta; họ cậy họ có tước, thì ta cậy điều nghĩa của ta, ta có hẹm gì đâu. Ôi nói thế há chẳng hợp nghĩa, mà thầy Tăng nói thế là cũng có một lẽ đó. Thiên hạ có ba điều suốt cả ai cũng phải tôn trọng: Một là chức tước, một là nhiều tuổi, một nữa là đạo đức. ở chốn triều đình không gì bằng chức tước, chốn hương đảng không gì bằng nhiều tuổi, giúp đời trị dân không gì bằng đạo đức; lẽ nào dám lấy một điều mà khinh kẻ có hai điều được.
Chú giải: Tấn, Sở = hai nước lớn và giàu mạnh ở Xuân Thu. Khiểm = ân hận, còn kém còn thiếu không bằng người, Đạt tôn = khắp thiên hạ đều lấy làm tôn trọng. Tước = phẩm tước Xỉ, tuổi, người già cả hơn tuổi, Đức = là trỏ cái đức nhân nghĩa. Trưởng dân= làm người trên cai trị dân. Mạn = Khinh nhờn.
Đây là nói đối với người hiền giả có xỉ có đức, thì vua không nên cậy mình có tước mà dám khinh triệu vào chầu
故將大有為之君,必有所不召之臣;欲有謀
焉則就之。其尊德樂道,不如是不足以有為也。
Dịch âm: Cố tương đại hữu vi chi quân, tất hữu sở bất triệu chi thần, dục hữu mưu yên, tắc tựu chi; kỳ tôn đức lạc đạo bất như thị, bất túc dữ hữu vi dã.
Dịch nghĩa: cho nên xưa nay những ông vua sắp sửa làm công nghiệp lớn lao, phải có những người bày tôi không có thể triệu được; muốn bàn hỏi việc gì, thì phải đi đến tận nơi. Cái lòng ông vua tôn điều đức vui điều đạo không được như thế, thì không đủ cùng làm việc được.
Chú giải: Đại hữu vi = Nói về ông vua có thể làm được sự nghiệp lớn lao không phải là ông vua tầm thường, Bất triệu chi thần = Người bày tôi đáng tôn kính, không dám triệu đến. Tôn đức lạc đạo = là cái lòng thành của ông vua biết tôn kính bậc hiền giả có đạo đức.
Đây là nói hiền giả không phải muốn tự đại tự tôn mà không ứng triệu. Nghĩa là phải đợi ông vua có lòng thành tôn đức lạc đạo đối với hiền giả, thì mới có thể cùng làm nên được công nghiệp lớn lao
故湯之於伊尹,學焉而後臣之,故不勞而王;桓公之於管仲,學焉而後臣之,故不勞而霸;
Dịch âm: Cố Thang chi ư Y Doãn, học yên nhi hậu thần chi, cố bất lao nhi vương. Hoàn công chi ư Quản Trọng, học yên nhi hậu thần chi, cố bất lao nhi bá.
Dịch nghĩa: Cho nên vua Thang xử với Y Doãn, trước thờ làm thầy mà học rồi sau mới uỷ dụng đó, cho nên chẳng khó nhọc mà thành được nghiệp vương. Vua Hoàn công xử với Quản Trọng trước thờ làm thầy mà học rồi sau mới uỷ dụng đó, cho nên chẳng khó nhọc mà nên được nghiệp bá.
Chú giải: Học = tôn làm thầy, Thần = Uỷ dụng làm trưởng. Đây là dẫn chứng hai ông vua đại hữu vi xử với hai người bầy tôi một cách tôn trọng, tức là đãi kẻ bất triệu chi thần đó
今天下地醜德齊,莫能相尚。無他,好臣其所教,而不好臣其所受教。
Dịch âm: Kim thiên hạ địa xú đức tề, mạc năng tương thượng, vô tha, hiếu thần kỳ sở giáo, nhi bất hiếu thần kỳ sở thụ giáo.
Dịch nghĩa: Nay vua các nước trong thiên hạ, đất bằng nhau, đức như nhau, không ai hơn gì nhau, chẳng vì cớ gì đâu, chỉ vì ưa những kẻ mình sai khiến được làm tôi, mà chẳng ưa những người mình phải chịu nghe lời dạy
Chú giải: Xú = loài, nghĩa là cùng một loài giống nhau Đức = là trỏ sự nghiệp. Tề = Bằng nhau. Đức tề = là nói sự nghiệp cũng như nhau. Thượng = vượt qua, nghĩa là hơn. Sở giáo = cái người nghe theo mình, mình có thể sai khiến được. Sở thụ giáo = cái người dạy bảo mình, mình phải chịu theo mà học.
Đây là kể ra cái thói các ông vua đời bấy giờ chỉ ưa thích những người bày tôi dễ sai khiến, mà không ưa những người bất triệu chi thần, nên ai cũng như ai, không ông vua nào dựng được công nghiệp lớn lao có cái tư cách đại hữu vi cả
湯之於伊尹,桓公之於管仲,則不敢召;管仲且猶不可召,而況不為管仲者乎?」
Dịch âm: Thang chi ư Y Doãn, Hoàn công chi ư Quản Trọng, tắc bất cảm triệu; Quản Trọng thả do bất khả triệu, nhi huống bất vi Quản Trọng giả hồ
Dịch nghĩa: Vua Thang đối với Y Doãn, vua Hoàn công đối với Quản Trọng, thì chẳng dám triệu; Quản trọng mà còn chẳng dám triệu, nữa là cái người chẳng thèm làm Quản Trọng ấy ư
Chú giải: Triệu = vời vào yết kiến, Quản trọng theo cái chủ nghĩa công lợi, thuộc về đạo bá. Thầy Mạnh theo cái học thuyết nhân nghĩa, thuộc về đạo vương. Bất vi Quản Trọng = chẳng thèm làm như Quản Trọng. Đó là thầy Mạnh tự trỏ vào mình. Đây là nói cái phẩm cách người bày tôi bất khả triệu, chứ không đem cái lẽ thường kẻ làm tôi đi ứng triệu ra mà so bì được.
Xét toàn chương này thì biết thầy Mạnh ở nước Tề là xử vào bậc tân sư, đối với vua cốt lấy trách nan trần thiện làm kính, chứ không phải lấy thừa thuận làm kính. Mà ông vua cốt lấy quý đức tôn sĩ làm hiền, chớ không phải lấy phú quý làm trọng


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét