Thứ Bảy, 24 tháng 6, 2017

MẠNH TỬ 5

  齊宣王問曰:「湯放桀,武王伐紂,有諸?」
  孟子對曰:「於傳有之。」
Tề tuyên vương vấn viết:  Thang phóng Kiệt, Vũ Đinh phạt Trụ, hữu chư? Mạnh
Tử đối viết: Ư truyện hữu chi.
  曰:「臣弒其君,可乎?
Viết: Thần thí  kỳ quân, khả hồ?
Dịch nghĩa: Vua hỏi: Bầy tôi giết vua, thế có phải không?
曰:「賊仁者謂之『賊』,賊義者謂之『殘』。殘賊之人謂之『一夫』。聞
誅一夫紂矣,未聞弒君也。」
Viết: Tặc nhân giả vị chi: tặc, tặc nghĩa giả vị chi: tàn. Tàn tặc chi nhân vị chi: nhất
phu. Văn  tru nhất phu Trụ hĩ, vị văn thí quân giả.
Dịch nghĩa:Thầy nói: Cái người làm hại nhân gọi là tặc, cái người làm hại nghĩa
gọi là tàn, cái người tàn tặc gọi là kẻ nhất phu; có nghe sự giết kẻ nhất phu là Trụ
đó, chưa nghe sự giết vua bao giờ
Chú giải: Tặc = hại, hại nhân hại nghĩa là người hung bạo, làm tuyệt diệt cả thiên
lý nhân luân. Nhất phu = cũng như độc phu nghĩa là một đứa, là nói cái người tàn
ác, thiên hạ ai cũng lìa ghét, không nhận là vua nữa.
Đây là lời răn các ông vua tàn tặc, để làm gương cho các đời quân chủ chuyên chế
về sau.
 九  
孟子見齊宣王,曰:「為巨室,則必使工師求大木。工師得大木,則王喜,
以為能勝其任也。匠人斫而小之,則王怒,以為不勝其任矣。夫人幼而學之
  壯而欲行之,王曰:『姑捨女所學而從我』,則何如?
Dịch âm: Mạnh tử kiến Tề Cảnh vương, viết: Vi cự thất, tắc tất sử công sư cầu đại
mộc. Công sư đắc đại mộc, tắc vương hỉ, dĩ vi năng thắng kỳ nhiệm dã. Tượng
nhân trác nhi tiểu chi, tắc công nộ, dĩ vi bất năng thắng kỳ nhiệm hĩ. Phù nhân, ấu
nhi học chi, tráng nhi dục hành chi, vương viết: Cô xả nữ sở học nhi tùng ngã, tắc
hà như?
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh yết kiến Tuyên vương nước Tề, nói: Làm nhà to, thì hẳn
phải sai người thợ cả tìm cho cây gỗ lớn. Người thợ cả tìm được cây gỗ lớn, thì
vua mừng, cho là dùng được nổi việc đấy. Người thọ bạn lỡ đẽo nhỏ đi, thì vua
giận, cho là không dùng được nổi việc nữa. Kìa như người hiện, thủa nhỏ mà học
thức rộng, lớn lên cũng muốn thực hành ra, thế mà vua lại bảo rằng hẵng bỏ cái
sở học của mày mà thưo sở hiếu của ta, thì là thế nào?
Chú giải: Công sư = Thợ cả, Tượng nhân = thợ đàn em, thợ bạn, đây là nói người
hiền giả học thức rộng rãi muốn đem thi thành ra sự nghiệp lớn lao, thì vua lại bắt
theo cái ý muốn nhỏ mọn của mình, thế là vua dụng hiện không bằng dụng gỗ vậy
今有璞玉於此,雖萬鎰,必使玉人雕琢之。至於治國家,則曰:『姑捨女所
學而從我則何以異於教玉人雕 琢玉哉?」
匛匥匪匫匬匭匮匯淮渿渾渽渼渞渟渗清済渉渂渁淸湗湘湎湋湊湇湆渻渱渰港淿淵淶淬』,区区匹区
Dịch âm: Kim hữu phác ngọc ư thử, tuy vạn dật, tất sử ngọc nhân điêu trác chi. Chí
ư trị quốc gia, tắc viết: Cô xả nhữ sở học nhi tùng ngã tắc hà dĩ dị ư giáo ngọc nhân
điêu trác ngọc tai?
Dịch nghĩa: Nay có hòn phác ngọc ở đây, tuy đáng giá có vạn dật, thế mà tất phải
giao cho người thợ ngọc dũa đẽo lấy ngọc. Đến như việc trị quốc gia, thì bảo
người hiền rằng hẵng bỏ cái sở học của mày mà theo ý ta, thế có khác với sự sai
người thợ ngọ dũa đẽo ngọc không?
Chú giải: Phác ngọc = Hòn ngọc còn ở trong đá. Dật = hai mươi lạng là một dật
Đây là mói hòn ngọc không quý là mấy, mà còn biết giao cho người thợ ngọc để
dũa đẽo. Huống chi quốc gia lại quý bằng mấy ngọc, thế mà không biết dụng
người hiền để cùng trị nước, chẳng hoá ra lòng ái quốc không bằng lòng ái ngọc
lắm ru!
 
齊人伐燕,勝之
Tề nhân phạt Yên, thắng chi.
Dịch nghĩa: Người nước Tề đánh nước Yên, đánh được
宣王問曰:「或謂寡人勿取,或謂寡人取之。以萬乘之國伐萬乘之國,五旬
而舉之,人力不至於此。不取,必有天殃。取之,何如?」
 Tuyên vương vấn viết: Hoặc vị quả nhân vật thủ, hoặc vị quả nhân thủ chi. Dĩ
vạn thặng chi quốc phạt vạn thặng chi quốc, ngũ tuần nhi cử chi, nhân lực bất chí ư
thử. Bất thủ, tất hữu thiên ương. Thủ chi, hà như?
Dịch nghĩa: Tuyên vương hỏi rằng: “Hoặc có kẻ bảo quả nhân đừng lấy nước Yên,
hoặc có kẻ bảo quả nhân cứ lấy nước Yên. Đem cái nước vạn thặng, năm mươi
ngày mà đánh được, cứ như sức người không đến được thế. Chẳng lấy chắc có vạ
trời, cứ lấy, thế nào”?
Chú giải: Ngũ tuần = mỗi tuần 10 ngày, năm tuần 50 ngày. Cử = làm nổi việc, là
đánh được thành công. Xét sử ký vua nước Yên tên là Khoái, nhường nước cho
quan trường là Tử Chi, nên nước Yên đại loạn. Nước Tề nhân lúc loạn mà đánh,
cho nên thành công dễ Tuyên vương ý muốn lấy nước Yên lại đổ cho là tại trời
giúp mới đánh được thì nên theo ý trời. Nhưng xem như lời thầy Mạnh sau này thì
biết rằng ý trời là cốt ở lòng dân mà thôi
孟子對曰:「取之而燕民悅,則取之。古之人有行之者,武王是也。取之而
燕民不悅,則勿取,古之人有行之者,文王是也。Mạnh tử đối viết: Thủ chi
nhi Yên dân duyệt, tắc thủ chi. Cổ chi nhân hữu hành chi giả, Vũ vương thị dã.
Thủ chi nhi Yên dân bất duyệt, tắc vô thủ, cổ nhân hữu hành chi giả, Văn vương
thị dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh thưa rằng: Lấy, mà dân nước Yên bằng lòng thì lấy người
đời xưa có làm sự đó rồi, ấy là Vũ vương đấy. Lấy, mà dân nước Yên không bằng
lòng thì đừng lấy, người đời xưa có làm sự đó rồi, ấy là Văn vương đấy.
Chú giải: Văn vương có hai phần thiên hạ mà vẫn phục thờ chúa Trụ nhà Thương.
Đến Vũ vương mới đánh chúa Trụ nhà Thương lấy thiên hạ, cũng là thuận theo
lòng dân vậy
以萬乘之國伐萬乘之國,簞食壺漿以迎王師,豈有它哉?避水火也。如水益
深,如火益熱,亦運而已矣。」
Dĩ vạn thặng chi quốc phạt vạn thặng chi quốc, đan thực hồ tương dĩ nghênh
vương sư, khởi hữu tha tai? Tị thủy hỏa dã. Như hỏa ích thâm, như thủy ích nhiệt,
diệc vận nhi dĩ hĩ.
Dịch nghĩa: Đem cái nước vạn thặng, đi đánh cái nước vạn thặng, mà dân họ
mang giỏ cơm hồ nước, để đón quân vua, hà có ý gì đâu, vì tránh nước lửa đấy.
Nếu lại bạo ngược như nước càng sâu, như lửa càng nóng, thì họ cũng quay đi với
người khác mà thôi.
Chú giải: Đan =Giỏ bằng tre, Thuỷ hoả = ví cái chính trị tàn bạo như nước lụt lửa
cháy. Vận = chuyển vận, quay đi để vọng cứu với người khác.
Đây là nói việc chinh phạt phải thuận lòng dân thì mới hợp được ý trời. Nếu nước
Tề lại làm bạo ngược hơn không thuận lòng dân, thì dân lại quay đi cầu cứu với
nước khác, chớ đừng thấy đánh được để mà đã bảo là có trời giúp cho dân
 十一  
齊人伐燕,取之。諸侯將謀救燕。宣王曰:「諸侯多謀伐寡人者,何以待之
孟子對曰:「臣聞七十里為政於天下者,湯是也。未聞以千里畏人者也。
Tề nhân phạt Yên, thủ chi. Chư hầu tương mưu cứu Yên. Tuyên Vương viết: Chư
hầu đa mưu phạt quả nhân giả, hà dĩ đãi chi?
Mạnh tử đối viết: Thần văn thất thập lý vi chính ư thiên hạ giả, Thang thị dã. Vị
văn dĩ thiên lý úy nhân giả dã.
Dịch nghĩa: Người nước Tề đánh nước Yên, lấy được nước Yên, chư hầu toan mưu
cứu nước Yên. Tuyên vương hỏi: Chư hầu nhiều kẻ mưu đánh quả nhân, thì nên
dùng chước gì để đối đãi với họ?. Thầy Mạnh thưa: Tôi nghe đất có bảy mươi dặm
mà cầm quyền chính trong thiên hạ, ấy là vua Thang đấy. Chưa nghe đất những
nghìn dặm mà phải sợ người.
書曰:『湯一征,自葛始。」天下信之,東面而征,西夷怨;南面而征,
北狄怨曰:『奚為後我?』民望之,若大旱之望雲霓也。歸市者不止,耕者
不變。誅其君而吊其民,若時雨降。民大悅。書曰:徯我後,後來其蘇。
Thư viết: Thang nhất chinh, tự Cát thủy. Thiên hạ tín chi, đông diện nhi chinh, tây
Di oán, Nam diện nhi chinh, bắc Địch oán. Viết: Hề vi hậu ngã. Dân vọng chi,
nhược đại hạn chi vọng vân nghê dã. Quy thị giả bất chỉ, canh giả bất biến; Tru kỳ
quân nhi điếu kỳ dân, nhược thì vũ giáng. Dân đại duyệt. Thư viết: Hề ngã hậu,
hậu lai kỳ tô.
Dịch nghĩa: Kinh Thư có nói: Vua Thang bắt đầu đi đánh tự nước Cát trước, thiên
hạ tin ngay. Đánh mặt đông thì người Tây di mong, đánh mặc bắc thì người Bắc
địch mong, nói rằng: Làm sao lại đánh nước ta sau. Dân mong vua Thang, như
nắng dữ mong mây, lại sợ có cầu vồng vậy, Kẻ về chợ cứ việc mà về, kẻ đi cày cứ
việc mà đi; giết vua họ mà thăm dân họ, như trận mưa phải thời mưa xuống, dân
bằng lòng lắm. Kinh Thư lại nói: “Đợi vua ta, vua ta đến thì ta sống lại”
Chú giải: Nhất chinh = Mới ra đánh một trận trước nhất. Tín = tin rằng chí ở cứu
dân, chó không phải tàn bạo. Oán = oán vọng là ý mong đợi. Nghê = Cầu vồng.
Mây họp thì mưa, sợ cầu vồng hiện lên thì lại mất cơn mưa, Biến = biến động sợ
hãi
今燕虐其民,王往而征之,民以為將拯己於水火之中也,簞食壺漿以迎王師
。若殺其兄父,係累其子弟,毀其宗廟,遷其重器,如之何其可也?天下固
畏齊之強也,今又倍地而不行仁政,是動天下之兵也。
Kim, Yên ngược kỳ dân, vương vãng nhi chinh chi, dân dĩ vi tương chửng dĩ ư
thủy hỏa chi trung dã, đan thực hồ tương dĩ nghênh vương sư. Nhược sát kỳ huynh
phụ, hệ lụy kỳ tử đệ, hủy kỳ tông miếu, thiên kỳ trọng khí, như chi hà kỳ khả dã.
Thiên hạ cố úy Tề chi cường dã. Kim hựu bội địa nhi bất hành nhân chính, thị
động thiên hạ chi binh dã.
Dịch nghĩa: nay nước Yên họ làm ngược dân họ, vua đi đánh nước ấy, dân họ cho
là vua toan cứu vớt mình ở trong vòng nước lửa đấy. Cho nên họ đem giỏ cơm hồ
nước để đi đón quân vua. Nếu mà giết cha anh họ, buộc trói con em họ, như thế
sao nên. Thiên hạ vẫn ghen ghét nước Tề là mạnh đấy, nay lại đất rộng gấp hai,
mà chẳng làm nhân chính, thế là vua tự làm động bình trong thiên hạ lên đấy.
Chú giải: Chửng = cứu vớt, Hệ luỵ = buộc, trói, Uý = uý kỵ ghen ghét, bội = gấp
hai, là gồm lấy cả nước Yên.
Đây là nói nước Tề lấy nước Yên, không được như vua Thang đánh nước Cát, chỉ
làm điều tàn bạo không phục được lòng dân, cho nên lấy nước to nghìn dặm mà sợ
người là phải
王速出令,反其旄倪,止其重器,謀於燕眾,置君而後去之,則猶可及止也
Vương tốc xuất lệnh, phản kỳ mạo nghê. chỉ kỳ trọng khí, mưu ư Yên chúng. Trí
quân nhi hậu khứ chi, tắc do khả cập chỉ dã.
 Dịch nghĩa: vua nên mau ra hiệu lệnh, trả lại người già người trẻ cho họ, để lại
đồ trọng bảo trả họ, mưu với dân nước Yên, lập vua hiền khác, rồi trở vệ, thì còn
kịp khi binh chưa hầu chửa phát, mà trung chỉ đi được
Chú giải:Mạo nghĩa là người già, Nghê = trẻ con. Là những người già trẻ bị bắt.
Đây là bảo vua Tề nên tỏ ra cái lòng không phải lợi chiếm lấy nước Yên, chỉ lập
vua hiền để cứu lấy dân, chính là cái chước chỉ bình để đối với các nước chư hầu
đó.
 十二
鄒與魯鬨。穆公問曰:「吾有司死者三十三人,而民莫之死也。誅之,則不
可勝誅;不誅,則疾視其長上之死而不救,如之何則可也?」
Dịch âm: Châu dữ Lỗ hống. Mục công vấn viết; Ngô hữu tư tử giả tam thập tam
nhân, nhi dân mạc chi tử dã. Tru chi, tắc bất khả thắng tru; bất tru, tắc tật thị kỳ
trưởng thượng chi tử nhi bất cứu, như chi hà tắc khả dã?
Dịch nghĩa: Nước Châu với nước Lỗ đánh nhau. Vua Mục công nước châu hỏi
rằng: Người quan chức của ta chết ba mươi ba người, mà dân chẳng đứa nào
chết; giết nó thì không thể giết cho xiết được, chẳng giết thì nó cứ thù ghét người
trên, trông thấy người trên chết mà nó không cứu, làm thế nào thì phải?
Chú giải: Hống = Đánh nhau xô xát ồn ào, Hữu tư = Người làm quan có chức sự
孟子對曰:「凶年饑歲,君之民老弱轉乎溝壑,壯者散而之四方者,幾千人
矣;而君之倉廩實,府庫充,有司莫以告,是上慢而殘下也。曾子曰:『戒
之戒之!出乎爾者,反乎爾者也。』夫民今而後得反之也。君無尤焉!
Dịch âm: Mạnh tử đối viết: Hung niên cơ tuế, quân chi dân lão nhược chuyển hồ
câu hác, tráng giả tán nhi chi tứ phương giả, kỷ thiên nhân hĩ; nhi quân chi xương
lẫm thực, phủ khố sung, hữu tư mạc dĩ cáo, thị thượngmạn nhi tàn hạ dã. Tăng tử
viết: Giới chi giới chi! Xuất hồ nhĩ giả, phản hồ nhĩ giả dã. Phù dân kim nhi hậu
đắc phản chi dã. Quân vô vưu yên.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh thưa rằng; “Năm kém đói dịch tễ, dân nhà vua người già
yếu thì lăn xuống ngói hang, người mạnh khoẻ thì tan tác đi bốn phương kể mấy
nghìn người, mà kho đụn nhà vưua đầy thóc thừa tiền, các quan chẳng biết bảo
vua cấp phát cho dân, thế là người trên bạo mạn không nghĩ gì mà làm tán ngược
kẻ dưới đấy. Thầy Tăng tử có nói: Răn đấy, răn đấy, những sự do ở thân mày thì
lại bảo lại ở thân mày. Nay dân mới được dịp bảo lại đấy, vua đừng trách họ.
Chú giải: Chuyển = ngã lăn lộn, Câu hác= ngòi rãnh hang hốc, Xương lẫm = kho
thóc. Phủ khố = Kho tiền. Mạn = bạo mạn khinh thường, không nghĩ gì đến dân.
Vưu = lỗi là ý trách móc.
君行仁政,斯民親其上,死其長矣。」
Dịch âm: Quân hành nhân chính, kỳ dân thân kỳ thượng, tử kỳ trưởng hĩ.
Dịch nghĩa: Vua nay làm nhân chính thương yêu dân, tự khắc là dân yêu mến
người trên và cố chết với người trên vậy.
Chú giải: Kinh Thư có nói: Dân là gốc nước, gốc vững thì nước yên. Nước sở dĩ
đặt ra có kho tàng, có phải là vì ai đâu, chỉ là vì dân đấy. Khi được mùa thì thu lại
, khi mất mùa thì phát ra, để cứu cho dân những lúc cơ cùng khốn khổ, cho nên
dẫn vẫn sẵn lòng yêu mến người trên, khi người trên có nguy nạn, thì dân lại hết
sức cứu cho người trên, khác nào như con em hộ vệ cho cha anh, chân tay chống
giữ cho đầu mắt vậy. Vua Mục công không biết trách mình, mà lại đổ tội cho dân, há chẳng lầm lắm ru! (trích dịch lời tiên nho)
十三
  滕文公問曰:「滕,小國也,間於齊、楚。事齊乎?事楚乎?」
Dịch âm: Đằng văn công vấn viết: Thắng, tiểu quốc dã, gián ư Tề, Sở. Sự Tề hồ?
Sự Sở hồ?
Dịch nghĩa: Vua Văn công nước Đằng hỏi rằng: Đằng là nước nhỏ, ở xen vào giữa
khoảng nước Tề, nước Sở, thế thì thờ nước Tề chăng? Hay là thờ nước Sở chăng?
Chú giải: Tề, Sở hai nước lớn và mạnh
孟子對曰:「是謀非吾所能及也。無已,則有一焉:鑿斯池也,築斯城也,
與民守之,效死而民弗去,則是可為也。」
Dịch âm: Mạnh tử đối viết: Thị mưu phi ngô sở năng cập dã. Vô dĩ, tắc hữu nhất
yên; tạc tư trì dã, trúc tư thành dã, dữ dân thủ chi, hiệu tử nhi dân phất khứ, tắc thị
khả vi dã.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh thưa rằng: Mưu ấy thì tôi xin chịu. Nếu còn muốn nghe
nữa; thì tôi có một điều thế này: Đào ao ấy cho sâu, đắp thành ấy cho cao, cùng
dân giữ nước, vua cố chết giữ lấy, mà dân cũng chẳng bỏ đi, lẽ ấy thì nên làm
Chú giải: Hiệu cũng như chữ trí nghĩa là vua cố sức mà giữ, đến chết thì thôi
Đây là nói ông vua nên giữ nghĩa dừng bỏ nước, mà lại phải yêu dân, khiến cho
dân cũng cố chết mà cùng giữ với mình, không nên nay thờ nước này, mai thờ
nước khác, đó chỉ là cầu may cẩu thả cho qua lần mà thôi.
十四
  滕文公問曰:「齊人將築薛,吾甚恐,如之
何則可?」
Dịch âm: Đằng văn công vấn viết: Tề nhân tương trúc Tiết, ngô thậm khủng, như
chi hà tắc khả?
Dịch nghĩa: Vua Văn công nước Đằng hỏi rằng: Người nước Tề sắp lấy đất nước
Tiết đắp làm thành, ta sợ lắm, làm thế nào được đây?
Chú giải: Tiết = tên nước nhỏ, ở gần nước Đằng. Văn công thấy nước Tề sắp lấn
nước Tiết thì có cơ bức đến nước mình cho nên sợ
孟子對曰:「昔者大王居邠,狄人侵之,去之岐山之下居焉。非擇而取之,
不得已也。
Dịch âm: Mạnh tử đối viết: Tích giả Thái vương cư Mân, địch nhân xâm chi, khứ
chi kỳ sơn chi hạ cư yên. Phi trạch nhi tối chi, bất đắc dĩ dã
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh thưa rằng: Xưa kia Thái vương nhà Châu ở đất Mân,
người rợ địch đến lấn, vua phải đi sang dưới núi Kỳ mà ở. Không phải là chọn lấy
đất hay mà ở đâu, là bất đắc dĩ đấy.
苟為善,後世子孫必有王者矣。君子創業垂統,為可繼也。若夫成功,則天
也。君如彼何哉?強為善而已矣。」
Dịch âm: Cẩu vi thiện, hậu thế tử tôn tất hữu vương giả hĩ. Quân tử sáng nghiệp
thuỳ thống, vi khả kế dã. Nhước phù thành công, tắc thiên dã. Quân như bỉ hà tai,
cưỡng vi thiện nhi dĩ hĩ.
Dịch nghĩa: Nếu nay làm điều thiện, thì con cháu đời sau hẳn là dấy được vương
nghiệp. Người quân tử dựng ra cơ nghiệp, truyền lại thể thống, để cho con cháu
khá noi theo đấy thôi. Đến như sự thành công thì nhờ trời, sức vua làm thế nào
được nước Tề kia, chỉ nên cố gắng gượng làm lấy điều thiện mà thôi
Chú giải: Thiện = những sự tu đức thành nhân. Đây là nói vua nên hết sức về
những sự của mình nên làm, để đợi mệnh trời về sau, chớ không nên phục tùng
hoặc kháng cự với người ta, đều là việc éo le không chắc gì cả.
十五  
滕文公問曰:「滕,小國也;竭力以事大國,則不得免焉,如之何則可?」
孟子對曰:「昔者大王居邠,狄人侵之。事之以皮幣,不得免焉;事之以犬
馬,不得免焉;事之以珠玉,不得免焉。乃屬其耆老而告之曰:『狄人之所
欲者,吾土地也。吾聞之也:君子不以其所以養人者害人。二三子何患乎無
君?我將去之。』去邠,逾梁山,邑於岐山之下居焉。邠人曰:『仁人也,
不可失也。』從 之者如歸市。
Dịch âm: Đằng văn công vấn viết: Đằng, tiểu quốc dã; kiệt lực dĩ sự đại quốc, tắc
bất đắc miễn yên, như chi hà tắc khả?. Mạnh tử đối viết: Tích giả Thái vương cư
Mân, địch nhân xâm chi, sự chi dĩ bì tệ, bất đắc miễn yên; sự chi dĩ khuyển mã, bất
đắc miễn yên; sự chi dĩ khuyển mã, bất đắc miễn yên; sự chi dĩ châu ngọc, bất đắc
miễn yên. Nãi chúc kỳ kỳ lão nhi cáo chi viết: “Địch nhân chi sở dục giả ngô thổ
địa dã. Ngô văn chi dã, quân tử bất dĩ kỳ sở dĩ dưỡng nhân giả hại nhân, nhị tam tử
hà hoạn hồ vô quân, ngã tương khứ chi.” Khứ Mân, du Lương sơn, ấp vu Kỳ sơn
chi hạ cư yên. Mân nhân viết: “Nhân dân dã, bất khả thất dã.” Tùng chi giả như
quy thị.
Dịch nghĩa: Vua Văn công nước Đằng hỏi rằng: “ Đằng là nước nhỏ, hết sức để
phụng sự nước lớn mà chẳng được khỏi nó xâm lăng, làm thế nào thì khỏi được?”
Thầy Mạnh thưa: “Xưa kia Thái vương ở đất Mân, người rợ Địch đến lấn, phải
đem đồ da đồ lụa để cung phụng cũng không được khỏi; lại đem đồ châu ngọc để
cung phụng cũng không được khỏi. Mới họp tập những người kỳ lão trong nước
mà bảo rằng: “Người rợ địch nó muốn ấy là muốn lấy thổ địa của ta đấy. Ta có
nghe rằng: Người quân tử không nỡ đem cái vật để nuôi người đó mà lại làm đến
hại người. Các ngươi lo gì không vua, ta sắp đi đây.” Rồi bỏ đất Mân đi, qua
Lương sơn, lập ấp ở dưới núi Kỳ mà ở. Người đất Mân bảo nhau rằng: “Ông vua
nhân đức đấy, không nên bỏ”. Rồi theo vua đi như thể về chợ.
Chú giải: Chúc = họp tập, thổ địa = đất cát sinh ra các vật liệu để nuôi người, nếu
lại vì tranh đất mà đánh nhau giết người, thì lại hoá ra hại người mất, cho nên
Thái vương không nỡ mà phải bỏ đi.
「或曰:『世守也,非身之所能為也。效死勿去。』「君請擇於斯二者。」
Dịch âm: Hoặc viết: thế thủ dã, phi thân chi sở năng vi dã, hiệu tử vật khứ. Quân
thỉnh trạch ư tư nhị giả
Dịch nghĩa: Hoặc lại có thuyết rằng: “Đất nước là cảu tổ tiên truyền đời giữ đấy,
không phải tự mình làm ra được, thì nên cố chết giữ lấy chớ bỏ đi”. “Xin vua kén
chọn trong hai lẽ ấy mà làm”.
Chú giải: Đây là nói quốc gia gặp khi hoạn nạn thì có hai lẽ xử trí: Một là dời
nước đi chỗ khác để mưu sự sinh tồn là đạo quyền nghi. Hai là cố giữ lấy nước,
liều chết chớ bỏ là đường chính nghĩa; Văn công nên tự xét lấy đức mình, lượng
lấy sức mình, kén chọn trong hai đằng ấy mà xử.
TỔNG BÌNH
Cứ như lời thầy Mạnh bàn trên này, tự thiển kiến của thế tục mà xem ra, thì cho là
vô mưu. Nhưng sự thế nước Đằng đã bé nhỏ yếu hèn như vậy, cái sự nên làm
chẳng qua chỉ có hai lẽ ấy mà thôi; bỏ hai lẽ ấy thì là mưu quỷ quyệt, kế tung
hoành cả. phàm những kẻ, viễ chỉ cầu tạm xong, công chỉ cầu tạm thành, chỉ cậy
về lối trá mưu, không theo về đường chính lý, không phải là đạo thánh hiền. (trích
lời tiên nho)

十六 
魯平公將出,嬖人臧倉者請曰:「他日君出,則必命有司所之。今乘輿已駕
矣,有司未知所之,敢請。」公曰:「將見孟子。」  
曰:「何哉,君所為輕身以先於匹夫者?以為賢乎?禮義由賢者出;而孟子
之後喪逾前喪。君無見焉!」公曰:「諾。」
Dịch âm: Lỗ bình công tương xuất, bế nhân tàng thương giả thỉnh viết: “Tha nhật
quân xuất, tắc tất mệnh hữu tư sở chi. Kim thặng dư dĩ giá hĩ, hữu tư vị tri sở chi,
cảm thỉnh. Công viết: “Tương kiến Mạnh tử”. Viết: “Hà tai, quân sở vị khinh thân
dĩ tiên ư sất phu giả? Dĩ vi hiền hồ? lễ nghĩa do hiền giả xuất; nhi Mạnh tử chi hậu
tang du tiền tang. Quân vô kiến yên!” Công viết: “Nặc”.
Dịch nghĩa: Vua Bình công nước Lỗ sắp ra đi. Kẻ bế nhân là Tang Thương xin hỏi
rằng: “Mọi khi vua ra đi, thì tất bảo cho kẻ dưới biết rằng đi đâu. Nay xe vua đã
sắp ngưaụ rồi, mà kẻ dưới chưa biết vua đi đâu, dám xin hỏi?” Vua nói: “Toan đi
yết kiến thầy Mạnh”. Tang Thương nói: “ Sao vua lại kinh thân để đi thi lễ trước
với kẻ sất phu thế? Vua cho Mạnh tử là hiền chăng/ Tôi trộm nghe: Lễ nghĩa bởi
người hiền mà ra, mà Mạnh tử tang mẹ làm to hơn tang bố; vua đừng nên đi yết
kiến nữa”. Vua rằng: Ừ.
Chú giải: Bế = thân và yêu. Bế nhân là người yêu riêng. Hữu tư = Các quan nhỏ
chia giữ mọi việc. Sất phu = kẻ bình thường vô vị và vô danh. Tiền tang hậu tang
= Thầy Mạnh bố mất trước là tiền tang, mẹ mất sau là hậu tang. Du = hơn, ý Tang
Thương chê thầy Mạnh hậu với mẹ, bạc với cha, là không biết lễ nghĩa không phải
là hiền.
樂正子入見,曰:「君奚為不見孟軻也?」曰:「或告寡人曰,『孟子之後
喪逾前喪』,是以不往見也。」曰:「何哉,君所謂逾者?前以士,後以大
夫;前以三鼎,而後以五鼎與?」曰:「否,謂棺槨衣衾之美也。」曰:「
非所謂逾也,貧富不同也。」
Dịch âm: Nhạc Chính tử nhập kiến viết: Quân hề vi bất kiến Mạnh Kha dã? Viết:
Hoặc cáo quả nhân viết: Mạnh tử chi hậu tang du tiền tang, thị dĩ bất vãng kiến dã.
Viết: Hà tai quân sở vị du giả. Tiền dĩ sĩ, hậu dĩ đại phu, tiền dĩ tam đỉnh, nhi hậu
dĩ ngũ đỉnh dư? Viết: Phủ, vị quan quách y khâm chi mĩ dã. Viết Phi sở vị du dã,
bần phú bất đồng dã.
Dịch nghĩa: Nhạc Chính tử vào yết kiến vua hỏi rằng: Làm sao vua không đi yết
kiến Thầy Mạnh Kha? Vua nói: Hoặc có kẻ bảo quả nhân rằng: Thầy Mạnh tang
mẹ làm to hơn tang cha, vì thế nên không đi yết kiến nữa.
Chính tử nói: Vì sao vua bảo rằng hơn? Hay vì tang trước theo lễ quan sĩ, tang
sang theo lễ quan đại phu, tang trước dùng ba cái đỉnh, tang sau dùng năm cái
đỉnh đấy dư? Vua rằng: “Không , vì là đồ quan quách y khâm tốt đẹp vậy” Chính
tử nói: Như thế không phải hơn đâu, là vì lúc nghèo lúc giàu khác nhau đấy.
Chú giải:Nhạc Chính tử = Tên là Khắc, là học trò thầy Mạnh, mà làm quan ở
nước Lỗ. Đỉnh = cái đồ đựng con sinh để tế lễ. Tế ở nhà được dùng ba cái đỉnh, là
lễ quan sĩ, được dùng năm cái đỉnh, là lễ quan đại phu. Phàm tế lễ ba đỉnh hay
năm đỉnh, là phải tuỳ chức phẩm, người con mà làm, chớ không bắt bẻ là hậu với
đạc được. Duy đồ quan quách y khâm, thì tuỳ ý hiếu tử muốn làm hậu hơn cũng
được, Thầy Mạnh sắm đồ liệm táng mẹ hậu hơn cha, là vì trước còn nghèo mà sau
mới giàu, đó cũng là tuỳ thời hợp lễ, chớ không phải hậu với mẹ mà bạc với cha
đâu.  
樂正子見孟子,曰:「克告於君,君為來見也。嬖人有臧倉者沮君,君是以
不果來也。」曰:「行,或使之;止,或尼之。行止,非人所能也。吾之不
遇魯侯,天也。臧氏之子焉能使予不遇哉?」
Dịch âm: Nhạc Chính tử kiến Mạnh tử viết: Khắc cáo ư quân, quân vị lai kiến dã.
Bế nhân hữu Tang Thương giả tữ quân, quân thị dĩ bất quả lai dã. Viết: Hành hoặc
sử chi; chỉ hoặc nật chi, hành chỉ phi nhân sở năng dã. Ngô chi bất ngộ Lỗ hầu,
thiên dã. Tang thị chi tử, yên năng sử dư bất ngộ tai.
Dịch nghĩa: Nhạc Chính tử yết kiến thầy Mạnh nói rằng: “Khắc này bảo với vua,
vua đã có lòng lại yết kiến thầy, vì có kẻ bế nhân là Tang Thương nó ngăn vua, cho
nên vua không quả quyết lại nữa. Thầy Mạnh nói: Khi hành, hoặc có kẻ xui đi, khi
chỉ, hoặc có kẻ ngăn lại; sự hành chỉ đó nào phải tự người làm được đâu. Ta mà
chẳng được gặp Lỗ hầu là tại trời vậy. Chứ cái gã họ Tang, sao hay khiến cho ta
chẳng được gặp đâu.
Chú giải: Tữ, Nật = đều là ý ngăn trở.
Đây là nói thánh hiền xuất hay xử, đề có quan hệ đến thời vận thịnh hay suy, khi
hành khi chỉ tuy rằng bởi người, nhưng sở dĩ hành hay chỉ là thực bởi tự trời cả.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét