Thứ Bảy, 24 tháng 6, 2017

MẠNH TỬ 6

孟子/公孫丑上
 
公孫丑問曰:「夫子當路於齊,管仲、晏子之功,可復許乎?」
Công Tôn Sửu vấn viết: Phu tử đương lộ ư Tề, Quản Trọng, Yến Tử chi công, khả  phục hứa hồ?
Dịch nghĩa: Công Tôn Sửu hỏi: “Nhà thầy nếu đương vào chức trọng yếu ở nước Tề, thì cái công nghiệp của Quản Trọng Án tử, có thể lại kỳ vọng được chăng?
Chú giải: Đương lộ = Đương chức trọng yếu, nghĩa là ra làm quan cầm quyền chính. Quản Trọng = Tên là Di Ngô, làm tướng nước Tề giúp vua Hoàn công, nên được nghiệp bá. Án tử = Làm tướng giúp Tề Cảnh công. Thầy Mạnh khi đó chưa từng cầm quyền chính trị; đây là Sửu đặt ra lời ấy để hỏi đấy thôi.
孟子曰:「子誠齊人也,知管仲、晏子而已矣。
Mạnh tử viết: Tử thành Tề dân dã, tri Quản Trọng, Yến Tử nhi dĩ hĩ.
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh nói: Ngươi rõ thật là người nước Tề, chỉ biết có Quản Trọng với Án tử mà thôi.
Chú giải: Đây là ý thầy Mạnh chê ngươi Sửu kiến văn hẹp hòi, là người nước Tề thì chỉ biết nước Tề có sự nghiẹp Quản, Án là to, chứ không biết sự nghiệp thánh hiền là gì cả
或問乎曾西曰:『吾子與子路孰賢?』曾西蹴然曰:『吾先子之所畏也。』曰:『然則吾子與管仲孰賢?』曾西艴然不悅曰:『爾何曾比予於管仲?管仲得君如彼其專也,行乎國政如彼其久也,功烈如彼其卑也。爾何曾比予於是!』」
Hoặc vấn hồ Tăng Tây viết: Ngô tử dữ Tử Lộ thục hiền? Tăng Tây xúc nhiên viết:
Ngô tiên tử chi sở úy dã. Viết: Nhiên tắc ngô tử dữ Quản Trọng thục hiền? Tăng
Tây phất nhiên bất duyệt viết: Nhĩ hà tằng tỉ tử ư Quản Trọng? Quản Trọng đắc
quân như bỉ kỳ chuyên dã, hành hồ quốc chính như bỉ kỳ cửu dã, công liệt như bỉ
kỳ ti dã. Nhĩ hà tằng tỉ dư ư thị!
Dịch nghĩa: Hoặc có kẻ hỏi thầy Tăng Tây rằng: Thầy, so với thầy Tử Lộ ai hơn? Thầy tăng Tây giật mình nói: Người ấy tiên tổ tôi còn phải kính sợ. Hoặc giả lại hỏi: Thế thì thầy so với Quản Trọng ai hơn? Thầy Tăng Tây gắt lên không bằng lòng mà rằng: Anh sao lại ví ta với Quản trọng, Quản Trọng được vua tín dụng chuyên như thế, cầm quyền nước lâu như thế, mà công nghiệp hèn như thế, anh sao lại ví ta với người ấy.
Chú giải: Xúc nhiên = Dáng kính sợ không yên. Phật nhiên = Dáng giận dữ, Tăng Tây = cháu ông Tăng Sâm. Tiên tử = cũng như tiên tổ, trỏ ông Tăng Sâm. Liệt = rực rỡ. Công liệt = Công nghiệp rực rỡ. Đây là thầy Mạnh dẫn lời ông Tăng Tây cùng với người hoặc giả vấn đáp như vậy.
曰:「管仲,曾西之所不為也,而子為 我願之乎?」
Viết: Quản Trọng, Tăng Tây chi sở bất vi dã, nhi tử vi ngã nguyện chi hồ?
Dịch nghĩa: Thầy Mạnh lại nói: Quản Trọng kia, ông Tăng Tây còn chẳng thèm làm, mà ngươi lại vì ta kỳ vọng đấy chăng?
曰:「管仲以其君霸,晏子以其君顯,管仲、晏子猶不足為與?」
Viết: Quản Trọng dĩ kỳ quân bá, Yến Tử dĩ kỳ quân hiển, Quản Trọng, Yến tử do bất túc vi dư?
Dịch nghĩa: Sửu nói: Quản trọng làm cho vua nên được nghiệp bá, Ân tử làm cho vua rõ được tiếng hay; công nghiệp như Quản Trọng Án tử còn chẳng thèm làm dư?
Chú giải: Bá = Bá trưởng, đứng đầu các nước chư hầu, Hiển = hiển danh với thiên hạ, làm cho vua được hiển danh.  
曰:「以齊王由反手也。」
Viết: Dĩ Tề vương do phản thủ dã.
Dịch nghĩa: Thầy nói: Làm cho nước Tề hưng vượng, thống nhất cả thiên hạ, dễ như giở bàn tay.
Chú giải: Do nghĩa là cũng như. Phản = Giở lật. Giở bàn tay là ý nói dễ không khó gì. Xét chữ Vương trên này đọc là vương cũng thông. Đối với chữ Bá chữ Hiền thì sự nghiệp hưng vượng còn hơn nhiều
曰:「若是,則弟子之惑滋甚。且以文王之德,百年而後崩,猶未洽於天下;武王、周公繼之,然後大行。今言王若易然,則文王不足法與?
Viết: Nhược thị, tắc đệ tử chi hoặc tư thậm. Thả dĩ Văn vương chi đức, bách niên nhi hậu băng, do vị hiệp ư thiên hạ; Vũ Đinh, Chu công kế chi, nhiên hậu đại hành.
Kim ngôn nhược dị nhiên, tắc Văn vương bất túc pháp dư?
Dịch nghĩa: Sửu nói: Như thế thì đệ tử tôi lại càng ngờ lắm! Vả đức hoá như vua Văn sống lâu trăm tuổi rồi mới mất, mà giáo hoá còn chưa khắp được thiên hạ; Vũ vương, Châu công kế kiếp, rồi sau giáo hoá mới đại hành. Nay thầy nói vương thiên hạ dễ như thế, thì ra vua Văn cũng chẳng đủ bắt chước nữa hay sao?
Chú giải: Hoặc = giờ, Tư = Thêm, càng, Băng = Mất. Hợp = Khắp. Nhà Ân (Thương) là nước  thiên tử, nhà Châu là nước chư hầu, đời Châu Văn vương làm phương bá cai trị đất Kỳ còn thuộc về nhà Ân, nhưng dân mến đức vua Văn đã có hai phần thiên hạ theo về. Đến vua Vũ mới thay nhà Ân mà có thiên hạ. Châu công sáng chế ra lễ nhạc, đến đó giáo hoá mới thi hành khắp cả thiên hạ.
曰:「文王何可當也?由湯至於武丁,賢聖之君六七作。天下歸殷久矣;久則難變也。武丁朝諸侯有天下,猶運之掌也。紂之去武丁未久也,其
故家遺俗、流風善政,猶有存者;又有微子、微仲、王子比干、箕子、膠鬲,皆賢人也,相與輔相之,故久而後失之也。尺地莫非其有也,一民莫非其臣也;然而文王猶方百里起,是以難也。
Viết: Văn vương hà khả đương dã? Do Thang chí ư Vũ Đinh, hiền thánh chi quân lục, thất tác. Thiên hạ quy Ân cửu hĩ, cửu tắc nan biến dã. Vũ Đinh triệu chư hầu hữu thiên hạ, do vận chi chưởng dã. Trụ chi khứ Vũ Đinh vị cửu dã, kỳ cố gia di tục, lưu phong thiện chính do hữu tồn giả, hựu hữu Vi tử Vi Trọng, vương tử Tỷ Can, Cơ tử, Giao Cách giai hiền nhân dã, tương dữ phụ tướng chi. Cố cửu nhi hậu thất chi dã. Xích  địa mạc phi  kì  hữu dã , nhất dân mạc phi kỳ thần dã; nhiên nhi Văn vương do phương bách lý khởi, thị dĩ nan dã.
 Dịch nghĩa:Vua Văn ai địch bằng được. Vì đời nhà Ân tự vua Thang đến vua Vũ Đinh, có đến sáu bảy đời vua thánh hiến dấy lên, thiên hạ quy phục nhà Ân đã lâu; lâu thì khó mà biến đổi vậy. Đương thời vùa Vũ Đinh lâm ngự chư hầu, thống nhất thiên hạ, khác nào như vận dụng ở trên bàn tay. Vua Trụ cách vua vũ Đinh chửa bao lâu, khi đó nhà cũ, tục sót, thói truyền, chính hay, vẫn hãy còn cả. Lại có ông Vi tử, ông Vi Trọng, Vương tử là Tỉ Can, ông Cơ tử, ông Giao Cách đều là người hiền, cùng nhau phò giúp vua Trụ; cho nên vua Trụ tuy ác, nhưng cũng lâu rồi mới mất. Huống đương thời ấy một thước đất chẳng chỗ nào là không phải của nhà Ân, một đứa dân chẳng người nào là không phải tôi nhà Ân. Thế mà vua Văn còn tự miếng đất vuông trăm dặm khởi lên, cho nên khó vậy.
Chú giải: Ân = Nhà Thương. Thang = ông vua khai sáng nhà Thương. Vũ Đinh ông vua trung hưng nhà Thương. Trụ ông vua tàn ác làm mất nhà Thương. Cố gia = những nhà cựu thần luỹ thế. Đây là giải ra cái cớ vua Văn sở dĩ khó vượng được thiên hạ, là vì gặp phải thời thế khó, không phải là đức kém vậy. 
齊人有言曰:『雖有智慧,不如乘勢;雖有鎡基,不如待時。』今時則易然也。
Tề nhân hữu ngôn viết: Duy hữu trí tuệ, bất như thừa thế; duy hữu tư cơ bất như đắc thì. Kim thời tắc dịch nhiên dã.
Dịch nghĩa: Người Tề thường có nói: Tuy có trí tuệ, không bằng thừa thế, tuy có tư cơ, không bằng đãi thời. Thời thế như ngày nay thì dễ lắm
Chú giải: Trí tuệ = cái óc khôn ngoan để làm mọi việc. Tư cơ = mọi đồ khí cụ để làm ruộng. Đây là dẫn chứng lời người nước Tề nói: Làm việc dẫu cậy có trí khôn cũng phải thừa thế mới làm được; làm ruộng dẫu nhờ có khí cụ cũng phải đãi thời mới làm xong, để rõ ra cái lẽ phàm vượng thiên hạ tất phải nhờ về thời thế.
夏後、殷、周之盛,地未有過千里者也,而齊有其地矣;雞鳴狗吠相聞,而達乎四境,而齊有其民矣。地不改辟矣,民不改聚矣,行仁政而王,莫之能御也。
Hạ hậu, Ân, Chu chi thịnh, địa vị hữu quá thiên lý giả dã, nhi Tề hữu kỳ địa hĩ; Kê minh cẩu phệ tương văn, nhi đạt hồ tứ cảnh, nhi Tề hữu kỳ dân hĩ. Địa bất cải tích hĩ, dân bất cải tụ hĩ, hành nhân chính nhi vương, mạc chi năng ngự dã.
Dịch nghĩa: Nhà Hạ, Nhà Ân, Nhà Châu các nhà hưng thịnh, đất chửa có nhà nào rộng hơn nghìn dặm bao giờ, mà nước Tề thì có đất rộng đó. Tiếng gà gáy, chó cắn cùng nghe, khắp cả bốn cõi, mà nước Tề đã có dân đông đúc đó. Đất không cần phải mở mang mà đất đã rộng rồi; dân không cần phải chiêu tập mà dân đã đông rồi, nhân thế mà làm nhân chính để vượng thiên hạ, thì ai ngăn lại được.
Chú giải: Tịch = mở mang thêm đất. Tụ = tụ họp thêm dân. Đây là kể nước Tề đất rộng dân đông, đã có cái thế để vượng được thiên hạ.
且王者之不作,未有疏於此時者也;民之憔悴於虐政,未有甚於此時者也。  饑者易為食,渴者易為飲。
Thả vương giả chi bất tác, vị hữu sơ ư thử thì giả dã, dân chi tiều hãnh ư ngược chính, vị hữu thậm ư thử thời giả dã; cơ giả dị vi thực, khát giả dị vi ẩm
Dịch nghĩa: Vả lại đấng vương giả không dấy lên, chửa có thời nào cách xa hơn thời này; nhân dân khốn khổ về ngược chính, chửa có thời nào thậm tệ hơn này; ví như người đói người khát, ăn uống cực dễ.
Chú giải: Sơ = cách xa. Nước Tề gần vào cái thời Chiến quốc nhân dân cực khổ, nếu làm nhân chính thì dễ cảm lòng dân, ví như người gặp cảnh đói khát, thì không cần ngon ngọt cũng dễ no lòng. Đó là nói nước Tề có cái thời dễ vượng được thiên hạ
孔子曰:『德之流行,速於置郵而傳命。』
Khổng tử viết: Đức chi lưu hành, tốc ư chí bưu nhi truyền mệnh.
Dịch nghĩa: Ông Khổng nói rằng: Đức chính của vua, lưu hành ra dân gian, có thể chóng hơn là người trạm ngựa trạm đi truyền mệnh.
Chú giải: Chí = quân chạy giấy dùng người, Bưu = quân chạy giấy dùng ngựa.
Đây là dẫn lời đức Khổng tử nói nhân chính cảm người để mà lại chóng, huống gặp được thời thế mà thi hành đức chính thì lại chóng đến đâu
當今之時,萬乘之國行仁政,民之悅之,猶解倒懸也。故事半古之人功必倍之,惟此時為 然。」          
Đương kim chi thời, vạn thặng chi quốc hành nhân chính, dân chi duyệt chi, do giải đảo huyền dã. Cố sự bán cổ chi nhân công tất bội chi, duy thử thời vị nhiên.
Dịch nghĩa: Đương buổi ngày nay, nếu lấy cái nước vạn thặng, mà làm nhân chính, thì dân họ vui vẻ bằng lòng, như cởi cái dây treo ngược ra cho họ. Cho nên việc làm chỉ bằng nửa người đời xưa, mà công hiệu chắc là gấp hai, duy thì buổi này là dễ thế.
Chú giải:Vạn thặng = nước lớn, có binh xa muôn cỗ, nghĩa đã thích rõ ở đầu thiên Lương Huệ vương. Đảo huyền = treo ngược, ví như ngược chính làm khổ dân. Đây là nói đương thời ấy đã có thời, có thế dễ làm, nếu mà lấy đức hoá cảm người thì lại rất chóng, cho nên sự làm không khó nhọc mấy mà được công hiệu nhiều, đẻ rõ cái cớ rằng muốn làm cho nước Tề được hưng vượng, thống nhất cả thiên hạ cũng dễ như giở bàn tay.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét